Kinh Lương Hoàng Sám (10 quyển)
Quyển 1
Sám Pháp Từ Bi Đạo Tràng
Nguồn: Thượng tọa Thích Trí Tịnh giảo chính
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy.
Nhơn vì cảm thấy Đức Phật Di Lặc, dủ lòng từ bi, thương đời hiện tại và đời vị lai, ứng mộng dạy bảo, đặt tên như thế, đúng như sự thật, không dám đổi thay.
Nay vâng lời dạy bảo của Đấng Từ Bi ấy là vì muốn hộ trì Tam bảo: làm cho ma quân ẩn hình, khiến người tự cao tự đại và người tăng thượng mạn ([1]) phải tự chiết phục; khiến người chưa trồng căn lành phải trồng căn lành; người đã trồng rồi, thì làm cho căn lành thêm lớn; khiến người hay chấp lấy chỗ sở đắc ([2]) đắm trước tà kiến ([3]), phải phát tâm xả bỏ chấp trước; khiến người ưa tiểu thừa ([4]) không nghi đại thừa ([5]); người ưa đại thừa sanh tâm hoan hỷ tiểu thừa.
Vả lại, pháp sám từ bi nầy lớn hơn tất cả các việc lành khác. Pháp nầy là chỗ quy y của hết thảy chúng sanh; như mặt trời sáng ban ngày; như mặt trăng chiếu ban đêm. Pháp này là tròng con mắt, là đạo sư, là cha mẹ, là anh em, là chơn thiện tri thức của người tu hành, đồng đi đến đạo tràng.
Pháp sám nầy thân thích hơn huyết nhục; đời đời theo nhau, dầu đến chết cũng không rời nhau. Vì thế nên gọi Pháp sám nầy là Từ Bi Đạo Tràng.
Hôm nay Đại chúng ẩn thân hay hiện hình trong Đạo tràng, lập ra Pháp sám nầy đều phát đại tâm, vì có mười hai nhơn duyên lớn.
Những gì là mười hai?
1.- Một là nguyện hóa độ sáu đường ([6]) chúng sanh không có hạn lượng.
2.- Hai là chuyện báo đáp tứ ân không có hạn lượng.
3.- Ba là nguyện nhờ thần lực của Pháp sám nầy, khiến chúng sanh thọ cấm giới của
Phật, không sanh tâm hủy phạm.
4.- Bốn là nguyện nhờ thần lực của Pháp sám nầy, khiến các chúng sanh, đối với các bậc
tôn trưởng không sanh tâm kiêu mạn.
5.- Năm là nguyện nhờ thần lực của Pháp sám nầy, khiến các chúng sanh, sanh ra nơi nào
cũng không khởi tâm giận hờn.
6.- Sáu là nguyện nhờ thần lực của Pháp sám nầy, khiến các chúng sanh đối với sắc thân
người khác, không khởi tâm ghen ghét.
7.- Bảy là nguyện nhờ thần lực của Pháp sám nầy, khiến các chúng sanh, đối với các
pháp trong thân, ngoài thân, không sanh tâm keo rít, mến tiếc.
8.- Tám là nguyện nhờ thần lực của Pháp sám nầy, khiến các chúng sanh, hễ làm được
phước thiện gì, đều không phải vì mình mà làm, chỉ vì những người không có ai ủng
hộ, không có ai giúp đỡ mà làm.
9.- Chín là nguyện nhờ thần lực của Pháp sám nầy, khiến các chúng sanh không vì mình
mà tu pháp tứ nhiếp ([7]) mà chỉ vì hết thảy chúng sanh.
10.- Mười là nguyện nhờ thần lực của Pháp sám nầy, khiến các chúng sanh, thấy người
cô độc tù tội, tật bệnh thì sanh tâm cứu giúp, cho họ an vui.
11.- Mười một là nguyện nhờ thần lực của Pháp sám nầy, khiến người tu hành, thấy có
chúng sanh nào đáng chiết phục thì chiết phục, đáng nhiếp thọ thì nhiếp thọ.
12.- Mười hai là nguyện nhờ thần lực của Pháp sám nầy, khiến các chúng sanh, sanh ra
nơi nào, cũng tự nghĩ nhớ đến sự phát tâm bồ đề hôm nay, làm cho tâm bồ đề tương
tục mãi mãi không bị gián đoạn.
Ngưỡng mong Đại chúng hoặc phàm hoặc thánh, hoặc ẩn thân hay hiện hình trong Đạo Tràng nầy, đồng gia tâm phù hộ, đồng gia tâm nhiếp thọ, khiến đệ tử chúng con tên . . . . sám hối được thanh tịnh, thệ nguyện được thành tựu, tâm đồng tâm chư Phật, nguyện đồng nguyện chư Phật. Chúng sanh trong bốn loài ([8]), sáu đường do đó mà được mãn bồ đề nguyện.
Chú thích
[1] Tăng thượng mạn: Chưa chứng quả Thánh mà lầm tưởng là đã chứng quả Thánh.
[2] Chỗ sở đắc: Chấp lấy chỗ mình đã chứng, đã ngộ, đã hiểu biết, đã làm xong.
[3] Tà kiến: Nhận thức sai lầm ta vạy; không tin tội phước, không tin nhơn quả, không tin luân hồi v.v...
[4] Tiểu thừa: Cỗ xe nhỏ: có ý chỉ cho giáo lý thấp kém của người trí thức còn kém tu theo giáo lý nầy chỉ trừ ngã chấp, không trừ được Pháp chấp, chỉ chứng đến quả A la hán là cùng. Chỉ độ cho mình, không độ cho người, Như cỗ xe nhỏ chỉ chở một người, đi không xa, chở không nhiều, dằn dẹp không được những đá to lớn, chỉ ép cát sạn thôi.
[5] Đại thừa: Cỗ xe lớn: Chỉ cho giáo lý cao siêu vi diệu, trừ hết Ngã và Pháp chứng đến quả Phật, độ hết chúng sanh. Như cỗ xe lớn, chở nhiều người đi xa, dằn dẹp hết các đá lớn, đá nhỏ.
[6] Sáu đường hay lục đạo:
1.- Địa ngục,
2.- Ngã quỉ;
3.- Súc sanh,
4.- A tu la,
5.- Người,
6.- Trời;
6 loài này cứ loanh quanh trong vòng luân hồi, lên xuống, ra vào, mãi bị sanh tử.
[7] Tứ nhiếp pháp: Bốn phương pháp dùng thâu nhiếp chúng sanh:
1.- Bố thí,
2.- Ái ngữ,
3.- Lợi hành
4.- Đồng sự.
[8] Tứ sanh: 4 loài chúng sanh