Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phần 6

25/04/201319:03(Xem: 4576)
Phần 6

TUYỂN TẬP TƯỞNG NIỆM

DAISETZ TEITARO SUZUKI

1870 - 1966

Bản dịch: HẠNH VIÊN
Nguyên tác:IN MEMORIAM DAISETZ TEITARO SUZUKI 1870 - 1966
(The Eastern Buddhist, New series, August 1967)

--o0o---

KARL FREDRIK ALMQVIST
TƯỞNG NIỆM

Xin cho tôi, với tư cách một người Tây phương, khẳng định rằng tôi tin với sự ra đi của Bác sĩ Suzuki, đất nước Nhật bản đã mất đi một trong những người con vĩ đại nhất. Bác sĩ Suzuki là một trong những người xứng đáng đại diện cho truyền thống văn hóa Nhật, một trong những nền văn hóa quí báu nhất trên thế giới, người nhận thức rõ di sản tinh thần cần phải được truyền thừa cho thế hệ mai sau cũng như cho toàn nhân loại, và là người cống hiến trọn đời mình cho sứ mệnh đó. Điểm độc đáo trong sự nghiệp-đời người của Bác sĩ Suzuki là năng lực sáng ngời của ông trong việc dẫn giải bằng ngôn ngữ Tây phương học thuyết của Phật giáo và những phương pháp chứng nghiệm tâm linh của nó. Thỉnh thoảng, trong những buổi mạn
đàm nơi ngôi nhà thanh lịch của ông ở Liêm thương, đã nhiều lần ông nêu rõ sự khó khăn, thậm chí có khi là bất khả, khi giải thích bằng ngoại ngữ cái ý nghĩa ẩn tàng của những chân lý tinh thần. Nhưng chính vì lý do đó mà chúng tôi trong thế giới Tây phương càng mang ơn ông nhiều hơn trước những nỗ lực kiên trì này trong suốt cuộc đời ông. Tại sao ông làm điều này? Chúng tôi có thể hỏi như vậy. Tôi chưa bao giờ hỏi ông câu đó, nhưng tôi nghĩ có lẽ những cố gắng của ông nhằm giới thiệu với người Tây phương về Phật giáo và những hệ phái khác nhau của nó, đặc biệt là Thiền tông và Tịnh độ tông, bắt nguồn từ tâm nguyện ông hằng nung nấu là mang lại cho họ cách hiểu dễ dàng hơn về Truyền thống Thiêng liêng quan yếu này - một thái độ rộng lượng xét vì những khắc khoải tinh thần và luân lý mà con người đang chịu đựng trong thời đại ngày nay. Chúng ta biết, nhờ Bác sĩ Suzuki và những tác phẩm của ông, nhiều người trong thế giới Tây phương đã tìm lại được mái ấm tinh thần của họ.

Nhưng hơn thế, tôi tin là còn có một động lực khác đằng sau những nỗ lực của Bác sĩ Suzuki hướng về Tây phương. Đó là khát vọng cháy bỏng của ông muốn sử dụng mọi phương sách khả dĩ để thành tựu sự hàihòa giữa những nền văn hóa dị biệt, nhằm bảo vệ các giá trị tinh thần nói chung. Ông có một niềm tin vững chắc vào tính đồng nhất siêu việt giữa các tôn giáo lớn, tính thống nhất của các học thuyết thiêng liên của họ, và cả trong ý nghĩa sâu thẳm nằm bên dưới những dị biệt về hình thức. Những diễn giải của Bác sĩ Suzuki về chủ nghĩa thần bí Thiên chúa giáo mới thật là tương hợp, và thật thú vị làm sao khi nghiên cứu về tác phẩm của ông "Chủ nghĩa thần bí: Thiên chúa giáo và Phật giáo", trong đó ông phân tích sự gắn bó giữa hai truyền thống này, một sự gắn bó không bao hàm ảnh hưởng của hệ thống tư tưởng này trên hệ thống kia, mà đúng hơn là sự tồn tại của một truyền thống siêu hình trên thế gian và trong mọi thời đại.

Trên tất cả, Bác sĩ Suzuki là một người Nhật đúng theo nghĩa truyền thống và chính xác của từ này. Ông tuyệt nhiên tin rằng Nhật Bản có một sứ mệnh đặc biệt để hoàn thành trong thời đại này của chúng ta và trong cơ cấu của toàn thể nhân loại. Sứ mệnh này là chỉ cho thế giới thấy rằng một quốc gia có thể hoàn toàn có cấu trúc kỹ thuật hiện đại mà đồng thời vẫn bảo vệ được truyền thống cổ xưa trong tính nguyên vẹn về tinh thần và nghệ thuật của nó. Thực hiện điều này, theo ông, phải là công việc quan trọng nhất của giới trẻ Nhật bản. Cốt lõi của quan điểm tổng quát của Bác sĩ Suzuki là nước Nhật phải giới thiệu cho thế giới một giải pháp tận gốc và độc đáo, vốn nằm ở chỗ quân bình - sự cân bằng - giữa những nhu cầu ngoại tại trong đời sống hiện đại và những nhu cầu nội tâm cấp thiết của sự chiêm nghiệm và cuộc sống truyền thống, như thể hiện trong Phật giáo và Thần đạo. Cuộc sống hiện đại đại diện cho những ngẫu nhiên của hiện hữu, trong khi cuộc sống truyền thống, từ sự chiêm nghiệm hướng về nghệ thuật và thủ công, đại diện cho cái Tuyệt đối, cái Vô hạn, vốn mang ý nghĩa cho thân phận con người.

Bác sĩ Suzuki là một trong những tâm hồn lớn nhất trong thời đại của ông, là một thiện nhân khả ái. Chúng ta, những người bạn ngưỡng mộ ông, sẽ đau buồn khi mất ông, nhưng thiên tài của ông vẫn còn mãi qua sự nghiệp ông để lại cho chúng ta.

DAIEI KANEKO
HỒI TƯỞNG VỀ D. T. SUZUKI

Thật đau buồn trước hung tin bất ngờ về cái chết của Bác sĩ Daisetz Suzuki, nhà lãnh đạo Phật giáo trong thời đại chúng ta.

Ai cũng biết, tri thức của Bác sĩ Suzuki về Phật giáo thấm đẩm tinh thần satori (ngộ). Từ bước khởi đầu tầm Đạo, ông đã mong tìm giải đáp cho vấn đề ách yếu nhất - chuyện sinh và tử của con người. Mọi nỗ lực của tuổi trẻ ông đều tập trung vào mục đích này. Cuối cùng ông đã nhận ra vấn đề đã được giải quyết từ lâu trong satori hay là kinh nghiệm về tuyệt đối khẳng định. Từ đó ông hướng mục tiêu vào việc ghi lại kinh nghiệm này trong văn học Phật giáo, nhất là văn học Thiền, và phổ biến nó ra thế giới. Việc làm này cũng chính là lời thệ nguyện của ông.

Bác sĩ Suzuki là một người say mê đọc sách. Ông thông thạo tín ngưỡng, sự uyên áo và những tư tưởng của Đông và Tây phương, cổ cũng như kim, một cách đáng kinh ngạc. Thú đọc sách rộng rãi của ông được tập trung vào chủ đề nói trên, và ông gạt qua bất cứ hệ thống tư tưởng nào không soi rọi ánh sáng cho vấn nạn đó. Ông không quan tâm tập hợp các dòng tư tưởng hay học thuyết Phật giáo chính yếu của những nhà sáng lập các trường phái lớn của Phật giáo. Trực giác và trải nghiệm là đặc tính nổi bật trong tư tưởng của ông.

Tuy thế, rõ ràng Bác sĩ Suzuki không chỉ là một Thiền giả đã chứng ngộ theo kỷ luật của một vị thầy. Người ta nói, khi các tín đồ Thiền trình bày chỗ hiểu của họ về Thiền, Bác sĩ Suzuki thường trả lời: "Đó là chỗ xa chân lý nhất." Lời nói và tư tưởng của ông đôi khi làm cho người nghe hay độc giả có ấn tượng ông quả là ‘nhà tư tưởng’ Phật giáo vĩ đại theo nghĩa đặc trưng của thuật ngữ này. Ông có đôi mắt của nhà tiên tri nhìn thấu suốt xương tủy của sự vật. Ông thấu rõ bản chất của con người và đồng cảm sâu xa trước những bất hạnh của họ. Ông luôn biết lắng nghe. Ông thường phê phán một người mà trên quan niệm rộng hơn vẫn cho thấy ông xem trọng họ. Suy cho cùng, ông là ‘chiếc bình chứa’ mênh mông vô hạn.

Bác sĩ Suzuki và tôi, ngoài việc là đồng nghiệp ở Viện đại học Otani, thỉnh thoảng còn gặp nhau trong tư cách diễn giả ở những buổi thuyết trình về Phật giáo do các Hội đoàn Phật giáo tổ chức. Những dịp như vậy chúng tôi có cơ hội lắng nghe lẫn nhau. Sự phê phán của ông về tôi là một nguyên tắc chân thành và thẳng thắn. Ông thường nói: "Bài giảng của ông nghe ra quá trừu tượng và tư biện. Tôi không thích lắm, nó không hợp với tôi." Tôi sung sướng tiếp nhận lời phê bình của nhà học giả lão thành đáng kính này của chúng ta, và luôn suy xét chúng cặn kẽ. Tuy nhiên phân tích đến cùng sẽ thấy sự khác biệt cơ bản giữa hai cách tiếp cận Phật giáo của chúng tôi.

Về điểm này tôi có một điều phải suy nghĩ. Bác sĩ Suzuki thường giới thiệu tên tôi với các học giả và văn giới ngoại quốc muốn tìm hiểu Phật giáo Tịnh độ. Ông gợi ý họ đến thăm tôi. Phải chăng điều này có nghĩa là ông thừa nhận tư tưởng của tôi đáng được giới thiệu cho người ngoại quốc từ một quan điểm rộng rãi hơn, bất kể ông thích hay không thích nó? Dù thế nào, tôi vẫn rất cảm kích cử chỉ biểu hiện tinh thần cởi mở và chân tình này của ông.

Ngày 13 tháng 6 năm nay (1966), dưới sự bảo trợ của Hiệp hội Phật tử Tại gia, tôi đã đến Liêm thương để đối thoại với Bác sĩ Suzuki về chủ đề "Bản Nguyện". Bác sĩ Suzuki đã vui mừng tiếp đón tôi một cách nồng nhiệt, như gặp lại người em ruột thịt xa cách đã lâu. Đó là lần cuối cùng tôi được gặp ông. Giờ đây tôi vẫn nhớ như in sự tĩnh lặng của những bụi cây mọc hai bên con đường dài dẫn lên đỉnh đồi và thư phòng của Bác sĩ Suzuki, trong khu vườn điểm xuyến đầy hoa cỏ mùa hè và những vật dụng tự nhiên khác. Tất cả đều hoàn toàn hòa vào tính cách con người Bác sĩ Suzuki.

EVA VAN HOBOKEN -

NỤ CƯỜI

Eranos Tagung đã được tổ chức vào năm 1954 ở Ascona, Thụy sĩ, nơi tôi đang sống với gia đình bên bờ hồ Lago Maggiore. Nhiều học giả danh tiếng đã thuyết trình về tôn giáo Đông phương, chủ nghĩa thần bí Thiên chúa giáo, thi ca, và Phân tâm học phái Jung - đặc biệt trong quan hệ với "hiện tượng nguyên tượng" của nó như được biểu hiện trong những giấc mơ, những tập quán tôn giáo, phong tục dân gian, và trong sự hoang tưởng của người điên cũng như trong tư cách sinh hoạt hàng ngày.

Trong danh mục các buổi thuyết trình đó có một buổi của Bác sĩ Suzuki, một giáo sư Nhật Bản về Thiền. Lúc ấy tôi chưa biết đến đề tài này cũng như chưa từng biết Bác sĩ Suzuki hoặc đọc sách của ông; tâm tôi lúc ấy trắng tinh như một tờ giấy mới. Và một người đàn ông mảnh dẽ nhỏ thó đã xuất hiện trên giảng đường, với một cô gái khả ái đi theo, cô Okamura. Ông mỉm cười với cô, nhìn qua khán thính giả, cúi đầu chào họ với nụ cười tươi tắn, và bắt đầu buổi thuyết trình.

Ông có giọng nói rất trầm, rất dễ hiểu, và nhiều người còn gắng ghi lại những từ ông đang dùng. Nhưng không may, cái mi-crô lại hỏng. Bác sĩ Suzuki bèn không thực hiện một bài giảng theo cách thông thường là bắt đầu bằng dẫn đề A, triển khai nó thành B để rồi kết luận đại loại A là A và B phải là B. Ông không thừa nhận cái gì không thể giải thích, cái đó là ‘thần bí’ hay ‘huyền nhiệm’. Ông cũng không hứa hẹn bất cứ điều gì có thể thỏa mãn những tâm hồn khát khao và đơn độc. Cho nên bài thuyết trình của ông như dường một con ếch nhảy tỏm xuống hồ, chỉ khua động vài gợn nước rồi tan nhanh không để lại dấu vết.

Lúc ấy tôi chẳng hiểu nổi một lời của ông; ông kể chuyện gì đó về ba vị tổ của Thiền tông đang luận bàn một điều mà tôi mù tịt, tuy nhiên tôi giật mình trước lối diễn tả "và những hòn đá, hay một hòn đá, gật đầu."

Làm sao một hòn đá biết gật đầu? Tôi tìm mua những quyển sách của Bác sĩ Suzuki và đọc trong sự suy ngẫm về câu hỏi này, nhưng không thấy ở đâu, cho tới tận ngày nay, đoạn nào nói về những hòn đá gật đầu. Tuy thế sự kiện một hòn đá biết gật đầu đối với tôi bây giờ là chuyện hoàn toàn tự nhiên.

Năm sau Bác sĩ Suzuki đã trở lại Eranos để thuyết giảng về Mười bức tranh chăn trâu. Ông phân phát cho thính giả một tập sách mỏng in hình tranh với lời bình. Ông không kết thúc được buổi giảng vì đã vượt quá thời hạn, và thính giả lại một phen bối rối. Tôi muốn gặp riêng ông, và sau nhiều trở ngại, cuối cùng cũng được một cái hẹn. Nghĩ là người ta không phải lúc nào cũng tốt đối với ông, tôi đã mang đến tặng ông hoa, hương, và một bức tranh cuộn vẽ núi Phú sĩ của Hokusai, lấy từ bộ sưu tập của chúng tôi, để gợi nhớ về phong cảnh quê hương ông. Trông thấy bức tranh, ông già ốm yếu nhảy lên ghế với sức lực trẻ trung không ngờ để tìm một cây đinh treo tranh. Cô Okamura đã kéo áo ông và hỏi tại sao chúng tôi không nhìn thấy một cây đinh đã có sẵn trên tường. Bác sĩ Suzuki sung sướng nhìn ngọn Phú sĩ sau một hồi lâu chăm chú, rồi ông mỉm cười và khởi đầu câu chuyện bằng tình yêu sông hồ, cây cỏ và núi non của ông khiến tôi thấy mình ‘điếc đặc’. Tôi không còn thiết đến buổi mạn đàm và chỉ chực cáo lui.

Sau buổi gặp này, dù không trao đổi chuyện gì đặc biệt, Bác sĩ Suzuki, với lòng tử tế muôn thuở, đã giúp tôi vượt qua hầu hết các giai đoạn khó khăn có tính quyết định trong sự học Thiền của tôi. Tôi được mời viếng thăm Nhật Bản như một món quà đáp lại 25 năm cộng tác của chồng tôi, Bác sĩ Anthony van Hoboken, nhà âm nhạc học đã thực hiện vựng tập đầu tiên về các tác phẩm của Joseph Haydn, quyển vựng tập mà 100 năm sau khi nhạc sĩ mất vẫn chưa có ai hoàn thành.

Bác sĩ Suzuki, vẫn còn ở Mỹ, đã giới thiệu tôi đến Hòa thượng Furukawa, Viện trưởng Myôshin-ji (Diệu tâm tự), Hòa thượng Asahina chùa Engaku-ji (Viên giác tự), và Lão cư sĩ Kôryu Osaka thượng thủ Hannya Dôjô (Bát nhã Đạo tràng) ở Tokyo. Khi tôi đến thăm, lão sư Osaka không có ở nhà, nhưng tôi được gặp ông Akizuki và người này đã dạy tôi cách ngồi Thiền, một sự hướng dẫn hoàn toàn ngẫu nhiên. Trở lại châu Âu tôi bắt đầu tập ngồi theo tư thế của phụ nữ Nhật và thấy ngày càng đau đớn, cần phải có người chỉ dẫn thêm. Nhưng ở đây chẳng có ai để hỏi. Nên khi nghe tin Bác sĩ Suzuki trở qua châu Âu, tôi viết cho ông và cô Okamura xin gặp ở Luân đôn. Vấn đề được giải quyết ngay. Bác sĩ Suzuki mỉm cười, bảo ông không nhớ ngồi kiết già (tư thế hoa sen) thì để chân trái lên trước hay chân phải. Tôi còn nhớ bấy giờ chúng tôi đang ở trong phòng khách của khách sạn Rembrandt, Bác sĩ Suzuki ngồi kiết già trên ghế, còn tôi và cô Okamura ngồi trên sàn nhà theo kiểu phụ nữ Nhật bản. Sau cuộc chuyện trò thân mật, Bác sĩ Suzuki giản dị chào tạm biệt tôi: "Hẹn gặp lại ở Nhật Bản".

Tám tháng sau tôi nhận được một món quà quí từ Tokyo gởi đến dưới cái tên Sazô Idemitsu, một người lúc ấy tôi hoàn toàn không quen biết. Đó là một quyển lịch gồm các tranh vẽ của Sengai, cùng với bức thư đề được gởi theo yêu cầu của Bác sĩ Suzuki. Lại một trùng hợp thú vị, bởi mấy tháng nay tôi có nhận một vựng tập về cuộc triển lãm của Sengai được tổ chức ở California, do một người quen gởi cho. "Vũ trụ" là bức tranh mà ngày nào tôi cũng không khỏi ngắm nhìn.

Quyết định thăm lại Nhật Bản lần nữa đã được thực hiện nhanh chóng. Trong chuyến đi này tôi đã gặp Bác sĩ Suzuki ở Tokyo và Atami. Sau đó tôi bắt tay dịch tác phẩm Mười bức tranh chăn trâu sang Đức ngữ, và theo đề nghị của Bác sĩ Suzuki, ông Akizuki đã giúp kiểm tra phần Hán văn. Tôi cũng gặp ông Sazô Idemitsu và được ông ưu ái cho xem vài họa phẩm của Sengai mà nhiều bức trước đây tôi chỉ được biết qua các phiên bản. Rồi tôi gia nhập Hannya Dôjô (Bát nhã đạo tràng) để học Thiền truyền thống phái Lâm Tế. Ở Tokyo, tôi được gặp Lão sư Shônen Morimoto và Đại đức S. N. Kobori. Bác sĩ Suzuki, với lòng tốt bẩm sinh của ông, đã lo cho tôi hết mọi sự. Hầu như ngày nào chúng tôi cũng gặp nhau nhờ sự thu xếp chu đáo của cô Okamura, một người có tấm lòng tận tâm luôn mở rộng. Chuẩn bị cho kỳ phát hành vựng tập của Sengai lần tới, tôi được ông Idemitsu đề nghị dịch các bài của Bác sĩ Suzuki viết về Sengai ra tiếng Đức, Ý, và Pháp. Lúc ấy việc dịch Mười bức tranh chăn trâu cũng đang tiến triển thuận lợi. Việc này đòi hỏi chúng tôi gặp nhau thường xuyên. Tôi vẫn nhớ như in những buổi gặp này thường tràn ngập những nụ cười tuyệt diệu và những tràng cười thân mật đã khích lệ tôi rất nhiều trong công việc. Nụ cười luôn đến trên gương mặt Bác sĩ Suzuki ngay cả lúc ông nghiêm trang hay bực mình, và làm nhẹ đi khi ông mệt mỏi hay lo lắng, hoặc lúc đang đối phó với một vấn đề thực tiễn hóc búa, đang ngồi thư giãn trên chiếc ghế của ông, hay đang cùng chúng tôi trên những chiếc taxi chạy đua bạt mạng đến một phòng triển lãm thi họa Thiền nào đó.

Năm 1961, tôi được Bác sĩ Suzuki, ông Sazô Idemitsu và tổ chức Kokusai Bunka Shinkò Kai (Quốc tế Văn hóa Tiến hành Hội-ND) đề nghị hỗ trợ cho cuộc triển lãm của Sengai có thể đến với nhiều quốc gia ở châu Âu. Những cuộc triển lãm này đã trở thành một thắng lợi tinh thần thực sự, kể cả thành công thực tế ở các viện Bảo tàng, vì đó là chân Thiền được thể hiện qua phương tiện các nụ cười trong vắt và tinh thần trào phúng của Bác sĩ Suzuki, kèm theo những bản dịch và lời bình của ông. Tinh thần chân chính bất biến không có cách nào giải thích được, chính điều này giúp cho, trong nhiều phương diện, sự thông hiểu nhau tốt hơn qua trực giác. Chúng tôi đã tổ chức triển lãm ở mười hai nước châu Âu, từ Bắc xuống Nam, Đông sang Tây, từ Stockholm đến Madrid, Vienna đến London, với tất cả mười bốn cuộc triển lãm đầy thành công. Điều này chỉ có thể thực hiện nhờ sự thông hiểu và giúp đỡ toàn diện của ông Idemitsu, và cũng nhờ lòng tin tưởng tuyệt đối của ông nơi tôi và các thành viên cùng làm việc trong nhóm. Trong bốn năm ở châu Âu mọi người đều ngạc nhiên trước sự thành công của các lần triển lãm. Bác sĩ Suzuki thực sự vui mừng và nụ cười của ông càng đậm đà ý vị khi chúng tôi nói về việc giới thiệu Sengai đến châu Âu.

Cuộc chia tay thật sự của chúng tôi diễn ra vào tháng 12 năm 1965, ở Liêm thương trong ngôi nhà của ông. Khi tôi chào ông và bước qua khu vườn, ông đã kêu tôi lại. Tôi quay lại và cúi đầu chào, cúi mình thật thấp theo kiểu người Nhật thường làm. Ông mỉm một nụ cười mà tận thâm tâm tôi cảm thấy nó bất diệt - một nụ cười tôi thật sự nhận được khi nói lời cảm ơn ông vì những điều ông đã làm trong suốt cuộc đời. Lần cuối cùng tôi nhìn thấy ông là lúc ông đang vẫy tay chào một cách vui vẻ và tươi cười trước khi tôi bước lên xe ra phi trường. Ông nói: "Đi đường bình an, hẹn gặp lại, ở đây hoặc ở đâu đó".

Và công việc của chúng ta vẫn tiếp diễn. Nó giúp ta quên đi những căng thẳng hay nỗi sợ, và cả nụ cười trong suốt của Bác sĩ Suzuki cùng với nụ cười của Sengai. Tôi muốn nói rằng người thầy vĩ đại này không bị giới hạn trong những từ ngữ ông đã viết và những cái được in ra trong sách của ông. Tri thức về Thiền của ông là không thể nghĩ bàn. Nhưng sự truyền đạt của ông về cái-bất khả truyền để lại những dấu ấn sâu xa trên thế giới giữa những con người bình dị. Và những tảng đá gật đầu.

JOHN C. H. WU
KỶ NIỆM CỦA TÔI

Trong những năm 1949 - 1951, tôi là giáo sư thỉnh giảng về triết học và văn chương Trung hoa ở viện Đại học Hawaii. Người sinh viên xuất sắc trong lớp tôi lúc ấy là Richard DeMartino, cùng lúc đang học Thiền dưới sự dẫn dắt riêng của Bác sĩ Suzuki, và qua anh mà tôi đã có dịp gặp ông. Ngay từ phút đầu gặp gỡ ông đã cho tôi ấn tượng đây không chỉ là một người dạy triết, ông còn sống thực với triết.

Tác phẩm Sống Thiền của ông cũng ra mắt trong khoảng thời gian này. Tôi hoàn toàn bị thu hút bởi sự trình bày của ông về những kiến giải vi diệu của các đại Thiền sư như Mã Tổ, Triệu Châu, Lâm Tế, và Vân Môn. Cho tới lúc ấy kiến thức của tôi về Thiền tông chủ yếu dựa trên bộ Đàn Kinh của Lục tổ Huệ Năng, quyển sách tôi đã đọc từ nhiều năm trước và coi là một trong ba tác phẩm uyên bác nhất trong lịch sử Trung Hoa; hai quyển kia là cuốn Luận ngữ của Khổng tử và Lão tử Đạo đức Kinh. Đến khi đọc Sống Thiền tôi bắt đầu nhận ra ảnh hưởng sâu rộng của tư tưởng Huệ Năng và, còn hơn thế, được tiếp cận phong vị Thiền tông đã phát triển qua lời dạy của những hậu duệ vĩ đại của ngài. Từ đó tôi rất thích văn học Thiền và sức hấp dẫn của nó không ngừng lớn mạnh trong tôi.

Lần thứ hai tôi gặp Bác sĩ Suzuki ở Honolulu. Đó là mùa hè năm 1959, khi viện Đại học Hawaii tổ chức cuộc Hội thảo các triết gia Đông-Tây lần thứ ba. Cả hai chúng tôi đều có tên trong danh sách diễn giả. Một buổi chiều, tôi nghe ông nói như vầy khi đang báo cáo về triết lý sống của Nhật Bản: "Người Nhật sống với Khổng giáo và chết với Phật giáo". Tôi bất ngờ trước lời tuyên bố lạ lùng này. Dĩ nhiên tôi hiểu ý ông muốn nói gì, vì điều này cũng ít nhiều đúng như ở Trung quốc. Nhưng dù sao tôi vẫn cho rằng đó là sự cường điệu cần cho sự cải thiện và làm sáng tỏ vì lợi ích của chúng ta những người Tây phương. Vì vậy, ngay khi ông kết thúc bản báo cáo, tôi đã xin phép vị chủ tọa đặt một câu hỏi với ông, và đã được chấp thuận. "Tôi thật sự bị thu hút trước nhận xét của Bác sĩ Suzuki rằng người Nhật sống với Khổng giáo và chết với Phật giáo. Vậy thì, mấy năm trước đây tôi đã có dịp đọc quyển Sống Thiền của Bác sĩ, Thiền tông có phải là một trường phái Phật giáo đang thịnh hành ở Nhật? Nếu đúng, hẳn phải có nhiều người Nhật đang sống với Phật giáo chứ. Như vậy, theo tôi hiểu, dường như nói người Nhật chết với Phật giáo là nói theo nhu cầu một sự xét lại nào đó". Vị chủ tọa đã cẩn thận chuyển câu hỏi của tôi cho Bác sĩ Suzuki (vì ông hơi bị lãng tai), và cả nhóm thảo luận nóng lòng chờ câu đáp của ông. Nhưng ngay sau khi vị chủ tọa trình bày xong vấn đề, Bác sĩ Suzuki trả lời với sự đột ngột và tự nhiên của một Thiền sư thực sự: "Thì sống cũng là chết!" Câu đáp làm cả hội trường rộn lên. Mọi người cười ồ, như thể cười tôi. Chỉ mình tôi bừng tĩnh. Hiển nhiên đâu phải ông trả lời câu tôi hỏi, mà ông đẩy tôi lên một bình diện cao hơn, bình diện vượt ngoài lý và luận, vượt khỏi sinh và tử. Tôi muốn vỗ vai ông một cái để biểu thị rằng tôi đã thấm lời ông. Nhưng đáo cùng, chẳng phải tôi vẫn phải sống với Khổng giáo đó sao, nhất là trước những vị giáo sư khả kính như thế này?

Qua kinh nghiệm thú vị này tôi càng cảm thấy gần ông hơn. Chúng tôi hiểu nhau từng ánh mắt, dù nhiều bạn hữu người Mỹ vẫn nhắc tôi rằng Bác sĩ Suzuki chưa giải đáp vấn đề tôi nêu, và họ hết sức hoang mang khi tôi bảo điều đó còn hơn là một lời giải đáp. Chỗ nào hai triết gia Đông phương hoàn toàn nhất trí thì hai triết gia Tây phương có thể chẳng thấy gì ngoài sự bất đồng.

Mùa hè năm 1964, chúng tôi lại gặp nhau trong Hội thảo các triết gia Đông-Tây lần thứ tư ở Honolulu. Chúng tôi sung sướng họp lại và cô Okamura, người tự nguyện làm thư ký cho ông, đã chụp cho chúng tôi mấy kiểu hình. Ông hài lòng khi biết tôi đang viết một quyển sách về thời hoàng kim của Thiền tông, nói về các Thiền sư dưới triều đại nhà Đường. Ông đã vui vẻ nhận lời viết giới thiệu sách khi tôi viết xong. Ông đã xem qua một trong các chương của sách, và khích lệ tôi nên tiếp tục.

Mùa đông năm 1965, cuốn sách cơ bản được hoàn tất, và tôi viết gởi ông hai lá thư, bức thứ hai như sau:

43 Cottage Street
South Orange, N.J. 07079
ecember 20, 1965

Bác sĩ Suzuki kính mến,

Tôi rất vui mừng báo thầy biết tôi đã hoàn tất cuốn Thời hoàng kim của Thiền tông, trong đó có 44 trang kèm theo là Lời Bạt của sách. Tôi xin gởi thầy phần này trước vì nó liên quan tới vài điều có tính riêng tư. Vả chăng, đó là việc đọc nhẹ nhàng thích hợp trong kỳ nghỉ lễ. Các chương còn lại như sau:

Phần mở đầu: từ Bồ Đề Đạt Ma đến Hoằng Nhẫn
Lục tổ Huệ Năng: Cuộc đời và các môn đồ xuất chúng của ông.
Những kiến giải căn bản của Huệ Năng (đây là phần đã trình ông xem mùa hè năm ngoái)
Mã Tổ Đạo Nhất
Bách Trượng và Hoàng Bá
Triệu Châu Tùng Thẩm
Những Thiền sư lỗi lạc trong dòng Thần Tú.
Qui Sơn: Tổ sáng lập phái Qui Ngưỡng
Lâm Tế Nghĩa Huyền: Tổ sáng lập phái Lâm Tế
Động Sơn: Tổ sáng lập phái Tào Động
Vân Môn Văn Yễn: Tổ sáng lập phái Vân Môn
Pháp Nhãn Văn Ích: Tổ sáng lập phái Pháp Nhãn

Lời bạt (gởi kèm theo đây)

Tôi còn dự tính bao quát cả những thời kỳ tiếp theo, nhưng nền văn học Thiền phong phú đến độ muốn viết một biên sử thích đáng về Thiền tông Trung hoa tôi cần ít nhất là năm năm nghiên cứu cật lực. Như ở đây, chỉ riêng các Thiền sư triều đại nhà Đường, tôi đã viết đến ba trăm trang sách.

Tất cả các chương trên đều đã được in rô-nê-ô trừ chương đầu còn đang viết. Tôi đang đọc lại hai tác phẩm uy tín của thầy về Kinh Lăng già. Thực ra, những kiến giải sâu sắc của thầy đã hướng dẫn tôi viết sách này. Nhưng để viết chương mở đầu, cần phải thấu đáo những nghiên cứu cặn kẽ của thầy.

Tôi đã theo những kiến giải quan yếu của thầy nhưng không với tinh thần nô lệ, mà bởi vì khi đã nghiên cứu cẩn thận những tư liệu gốc trong Hán văn, tôi không thể không đồng ý với thầy trên nhiều phương diện. Chẳng hạn như những điều thầy nói về sự tương đồng căn bản giữa Đạo của Lão tử và Trang tử và Thiền tông - trong bài giới thiệu bản dịch Trang tử của James Legge - chính xác một cách sâu sắc đến độ không ai có thể bài bác. Sự thật là Thiền tông đã mang nhiều ảnh hưởng của Triệu luận, và theo tôi biết, Tăng Triệu là người thực sự hiểu Trang tử.

Tôi sẽ gởi đến thầy tất cả các chương trên ngay khi thầy bảo. Mong thầy sẽ giúp cho tôi lời giới thiệu sách như thầy đã nói mùa hè năm ngoái.

Có những người bạn ở Đài loan đã đề nghị tôi viết một tiểu sử của Bác sĩ Tôn Dật Tiên bằng tiếng Anh. Tôi phải đi Đài bắc vào mùa xuân tới, nhưng tôi vẫn muốn ghé qua Nhật vài ngày để thăm thầy trước khi đến Đài Loan, có được không? Chúng ta sẽ cùng thưởng ngoạn mùa hoa Anh đào năm nay?

Trong Lời bạt (tr. 11ff) thầy sẽ thấy một phần tường thuật cá nhân về "Phong vị Thiền của Suzuki". Mùa hè năm trước, nhiều thành viên cao niên của Hội thảo vẫn cho rằng dù sao thầy cũng chưa trả lời câu hỏi của tôi! Vì vậy tôi nghĩ đây là dịp để kết thúc sự im lặng của tôi.

Thầy sẽ thấy trong Lời bạt tôi đã lấy tư liệu hầu hết từ những nguồn sau thời Đường. Điều này nêu bật ý kiến của tôi trong chừng mực nào đó. Tôi hy vọng phần viết về Đại Tuệ Tông Cảo không quá khắc khe. Có lẽ tôi có ấn tượng tốt hơn về ông ấy nếu tôi tìm hiểu ông ấy kỹ hơn. Thầy nghĩ sao về trường hợp này?

Cha Thomas Merton, một người bạn thân của tôi, vừa cho xuất bản cuốn Đạo của Trang Tử. Tôi rất mừng thấy ông củng cố thêm ý kiến của thầy về Trang Tử và Thiền. Ở trang 15, ông viết: "Những người kế thừa chân chính tinh thần và tư tưởng của Trang Tử chính là những Thiền giả triều đại nhà Đường".

Mong thầy hằng an vui và một cuộc sống trường thọ ít ra cũng như Cổ Phật Triệu Châu.

Học trò nhỏ của thầy,
John C. H. Wu

Xin thầy vui lòng chuyển giúp lời chúc mừng Giáng sinh và Năm mới đến cô Okamura. Tôi gởi kèm theo đây bản dịch sang chữ Hán bài thơ haiku của Ba Tiêu, không biết thầy có thích không? Tôi có thể dịch nhiều bài khác nữa sang Hoa ngữ.

Ước gì tôi có thể diễn tả niềm vui sướng rộn ràng khi nhận được thư trả lời của ông vào tháng hai năm đó. Nó là một kho tàng vô giá mà tôi muốn chia sẻ với độc giả:

Matsugaoka Bunko
1375 Yamanouchi
Kamakura, Japan

Ngày 30 tháng Giêng, 1966

Bác sĩ Wu thân mến,

Cảm ơn ông đã gởi hai bức thư. Nó đến đúng lúc, nhưng tôi bận đi vắng một thời gian. Hơn nữa gần đây thị lực của tôi yếu kém nên thật khó đọc thư và bản thảo, càng khó hơn với những cuốn sách in chữ nhỏ xíu. Vì thế mà hồi âm trễ, xin vui lòng miễn thứ.

Bản thảo "Lời bạt" của ông rất hay. Bản dịch bài haiku của Ba tiêu về con ếch đã đạt đến tinh yếu của mọi kinh nghiệm xác thực về tôn giáo. Tôi mong được gặp ông khi ông đi Đài Loan. Bằng mọi giá cũng ráng đến Liêm thương để tôi được hàn huyên cùng ông về những đề tài chúng ta quan tâm. Việc viết lách làm mất rất nhiều thời giờ. Cho biết tin khi nào ông dự tính lên đường.

Rất mong được gặp ông và chúc ông mọi sự tốt lành.

Thân ái,

Daisetz T. Suzuki

Tái bút: xin vui lòng tìm giúp một bức ảnh chụp ở Hawaii năm 1959.

Phần Lời bạt nói trên đương nhiên là quá dài để có thể chép ra đây. Tôi chỉ muốn ghi lại phần có liên quan tới bài thơ haiku của Ba Tiêu vì ông rất tâm đắc:

Thời gian và Vĩnh cửu

Một trong những liên thơ quen thuộc nhất trong văn học Thiền Trung hoa là hai câu sau:

Một trời miên viễn:
Một ngày gió trăng.

Nó đưa chúng ta về buổi bình minh của sáng thế. Và không có gì khuấy động tâm trí chúng ta hơn là nhớ lại cái run rẫy đầu tiên của thời gian ở giữa lòng vĩnh cửu. Một Cõi Không vô hạn, tuyệt đối tĩnh lặng. Trong một khoảnh khắc nảy ra sự sống và sự chuyển động, hình và sắc. Ai biết nó diễn ra thế nào! Nó là một ẩn mật huyền bí. Nhưng chỉ cần nhận ra sự huyền bí này cũng đủ cho một người mẫn cảm say sưa trước niềm vui thú kỳ tuyệt.

Đây là bí ẩn của nét đẹp trong bài thơ của Ba Tiêu:

Ao xưa
Con ếch nhảy vào -
Bõm!

Cái ao là hình tượng của "Môt trời miên viễn", con ếch nhảy vào và khua động mặt nước như "Một ngày gió trăng". Còn kinh nghiệm nào đẹp hơn và rung động tâm hồn hơn kinh nghiệm nắm bắt được sự tĩnh lặng ngàn đời lần đầu tiên vỡ tan thành tiếng hát? Hơn bao giờ hết, mỗi ngày là bình minh của sáng tạo, bởi mỗi ngày là duy nhất một ngày đầu tiên và cuối cùng. Thượng đế không là Thượng đế của sự chết, mà của sự sống.

Ngày mồng một tháng năm năm đó (1966) tôi từ New York bay đi Tokyo trong vài ngày để thăm Bác sĩ Suzuki ở Liêm thương. Đó là lần thứ ba tôi gặp ông, cùng với người bà con của tôi, ông C. F. Liu và thư ký của ông, ông Ikeba. Cô Okamura đón chúng tôi, cho biết Bác sĩ Suzuki đã trông đợi tôi từ mấy ngày nay và xem trọng tình bạn này đến mức cho rằng nó làm ông cảm thấy ông không sống vô nghĩa! Và con người vĩ đại ấy đã xuất hiện cùng với những nụ cười, chào đón chúng tôi. Mọi người đều ngạc nhiên thích thú trước dáng vẻ khỏe mạnh của ông. Tôi đưa tặng ông bản thảo cuốn Thời hoàng kim của Thiền tông mà ông sẽ viết lời giới thiệu. Ông đã hào phóng cho tôi nhiều quyển sách, trong đó có những tác phẩm công phu của ông viết về Đàn Kinh, những đoạn sưu tập về Bồ Đề Đạt Ma, và ngữ lục của Triệu Châu. Cô Okamura lại chụp cho chúng tôi thêm vài tấm ảnh.

Rõ ràng ông có thiện cảm với Đại Tuệ Tông Cảo hơn tôi, vì ông đã bình luận một cách ưu ái về những trước tác của ông này, và khuyên tôi nên tìm hiểu thêm. Tôi đã nghe theo và ấn tượng của tôi về Đại Tuệ có cải thiện, tuy nhiên, phải thừa nhận rằng tôi vẫn cảm thấy con người này hơi quá đa đoan lý sự.

Chúng tôi đã dành trọn buổi chiều hôm đó với ông, và chúng tôi nhận thấy ông vẫn rất sôi nổi so với tuổi tác. Làm sao biết được chỉ hai tháng sau là ông hoàn tất cuộc hành trình trên cõi đời này. Tôi chỉ một lần mơ thấy ông, vẫn đang nói về Triệu Châu. Nhưng nếu, như ông đã bảo "sống ấy là chết",thì chết cũng là sống vậy thôi.

Suzuki là một Chân nhân, người thuộc về cả thế giới ở mọi thời đại. Chỉ một đất nước vĩ đại như Nhật Bản mới sinh một con người vĩ đại như Suzuki.Ông đã trở về cõi vĩnh hằng, nhưng đáng yêu làm sao một ngày lộng gió và trăng!

JEANNETTE SPEIDEN GRIGGS
HỒI KÝ 1950 - 1961

Lần đầu tiên tôi gặp Bác sĩ Suzuki vào mùa xuân năm 1950 khi ông đến Claremont, California, để giảng ở Đại học Claremont về "Luận lý học của Thiền Phật giáo".

Trong buổi nói chuyện mở đầu, Bác sĩ Suzuki đã đề cập theo một phong cách thú vị lạ đời rằng ông hiểu rất rõ sự phù phiếm khi tìm cách giảng dạy bằng thuyết trình, bởi lẽ sinh viên chỉ hiểu những gì vị giáo sư nói trong phạm vi kinh nghiệm của họ mà thôi. Lời lẽ vị giáo sư nói ra chỉ có thể soi sáng sinh viên nào đã thực sự sáng tỏ, mà như vậy thì không cần lời lẽ nữa. "Tuy nhiên", Bác sĩ Suzuki nói với nụ cười không ai bắt chước được, "tôi vẫn tiếp tục giảng dạy vì đặc tính của con người là cần được thông tri". Chính thái độ vui vẻ chấp nhận những giới hạn của ngôn từ này đã thúc đẩy tôi đếnvới ông và dự khóa thỉnh giảng của ông.

Đó chỉ là một lớp học nhỏ nhưng có nhiều học giả nổi tiếng tham gia. Khách mời lần lượt tiếp xúc với chúng tôi bằng những bài thuyết trình, và trong số họ có những người cho đến nay tôi vẫn xem là bạn quí. Trong suốt học kỳ, Bác sĩ Suzuki đã mô tả tiến trình của tư tưởng Phật giáo trong nền văn hóa Nhật từ thời kỳ Nara đến Kyoto (Fujiwara) rồi đến kỷ nguyên Kamakura. Chúng tôi dần biết đến nhiều vị Thiền sư, bắt đầu bằng hình ảnh của Huệ Năng vị tổ thứ 6 của Thiền tông. Huệ Năng người miền Nam Trung quốc dạy rằng "Phật Tánh" vốn có sẵn nơi mọi người bất kể người sanh ở đâu. Ông vẫn nói với chúng tôi như nói với các huynh đệ của ông: "Chớ niệm thiện, chớ niệm ác, mà hãy nhìn xem gương mặt thật của anh ngay lúc này là gì, cái gương mặt của anh từ trước khi sinh ra". "Nhìn vào bản tánh của mình" là cách của Huệ Năng truy tìm Trí tuệ tối thượng mà đức Phật đã sở đắc.

Trong một bài giảng đáng nhớ khác, Bác sĩ Suzuki đã nói về "Tánh không" (Sunyata) trong đó tồn tại những mặt đối lập của thế giới đối đãi này. Khi ông viết lên bảng những ký tự Phạn, Hán, Nhật và Anh, tôi còn nhớ biểu hiện nơi gương mặt ông cho thấy không có ký tự nào của bất cứ ngôn ngữ nào có thể chuyển tải trọn vẹn kinh nghiệm về "Không". Ông nói: "Giác ngộ không phải là một kinh nghiệm thụ động mà là một kinh nghiệm tích cực đến mức vượt ngoài mọi năng lực của văn tự. Chúng ta chỉ có thể bàn về nó bằng cách nói tới những gì không phải là nó".

Có những dịp bên ngoài giảng đường Bác sĩ Suzuki đã nói bằng những từ đơn giản nhất về kinh nghiệm ‘Satori’. "Thần bí là trái tim của tôn giáo. Theo tôi, ý thức tôn giáo giống nhau trong mọi truyền thống, ở mọi thời đại". Một hôm ông viết chữ ‘Advaita’ trên một mẩu giấy nhỏ màu vàng mà tôi vẫn còn lưu giữ và nhấn mạnh ý nghĩa ‘Bất-Nhị’ mà là ‘Một’, cái Một gồm cái Nhiều, cái Không, mà trong đó mọi đối lập được hóa giải, "ngọn gió Nó cũng Vô-Tâm". "Trong Thiền", ông lưu ý, "chúng ta nói Satori hay ngộ là nói Trí (Prajĩà) và Bi (Karuịa)". Ta biết rõ trong khi ta sử dụng hai từ khác nhau, trong kinh nghiệm Trí và Bi là ‘Bất-Nhị’.

Suốt mùa thu năm 1951, Bác sĩ Suzuki đã trở lại Claremont và thỉnh thoảng ông là khách mời của gia đình chúng tôi. Trẻ con trong nhà cảm nhận được tính giản dị độ lượng của ông. Ông rất vui tính và thân tình, luôn dễ dãi mà điềm đạm. Lũ trẻ cảm thấy ngay nét trầm lặng và trí tuệ uyên áo của ông dù chúng chẳng biết gì về Thiền. Với ông chúng được trải qua kinh nghiệm sống Thiền nơi một người mà sự hiện diện nói lên tất cả không cần ngôn ngữ.

Cách Claremont chừng 50 dặm có một tu viện Vedanta dành cho những môn sinh của giáo phái Ramakrishna tu học. Bác sĩ Suzuki tỏ ra muốn thăm viếng Trabuco nên tôi đã thu xếp cùng vài người bạn ở đó đưa ông đi một buổi trưa. Chúng tôi đến nơi vào giờ cơm trưa. Bác sĩ Suzuki quả là một vị khách hoạt bát và sôi nổi, ông thích thú trước mọi chi tiết của cuộc sống và giáo luật phái Vedanta. Ông thoải mái kể lại thời kỳ tu học của mình ở Engakuji. Những tăng sinh trẻ của giáo phái nhận thức được ông là người đã tìm thấy dưới tên gọi ‘Satori’ cái kinh nghiệm mà họ đang mưu tìm dưới tên gọi ‘Samadhi’. Họ tỏ ra kính trọng và quí mến ông vô cùng, và rất thích cuộc viếng thăm này. Trên đường về, Bác sĩ Suzuki, mệt mỏi sau nhiều
giờ liền tiếp chuyện, đã thiếp ngủ trên xe. Nhìn gương mặt nhỏ thó đang thư giãn bên cạnh mình, bất giác tôi cảm thấy trách nhiệm vô cùng phải hết sức cẩn thận không làm xáo động sự nghỉ ngơi của ông.

Mười năm trôi qua, Bác sĩ Suzuki đã chu du diễn thuyết ở châu Âu và ở Columbia, New York. Sự diễn giải của ông về Thiền đã khiến ông trở thành nhân vật quốc tế mà tôi thường nghe nhắc đến. Năm 1961, Viện Nghiên cứu Cao cấp Văn hóa và Tôn giáo thế giới Blaisdell đã giúp tôi thực hiện dự định qua Nhật để viếng thăm các Thiền viện và tiếp xúc với các nhà lãnh đạo Thiền tông. Cùng đi với tôi trong chuyến này còn có con gái tôi, Sylvia 18 tuổi. Vừa đến Tokyo chúng tôi đã được tin nhắn của Bác sĩ Suzuki và lời mời dự buổi cơm tối ở Bắc Liêm thương. Bác sĩ Suzuki và cô Okamura đưa chúng tôi đến một quán trọ nằm dưới thung lũng phía dưới nơi cư ngụ của họ. Tôi sẽ không bao giờ quên bữa cơm Nhật Bản đầu tiên đó. Quán trọ mở cửa ra một khu vườn đỗ quyên và những cây đậu tía đang ra hoa màu tím nhạt. Khi thức ăn được dọn ra, Bác sĩ Suzuki nói về
những món ăn được pha chế cho có màu sắc tươi đẹp và có nhiều hương vị. Những cái tô bằng sơn mài đen dát vàng theo kiểu cổ hay màu đỏ ấm, cầm rất nhẹ tay và thích thú. Và Bác sĩ Suzuki kể chuyện Thiền giữa bữa ăn ung dung nhàn nhã. Ông nói về chuyện một cánh hoa duy nhất được coi là tuyệt mỹ, nhưng ông cũng giải thích thái độ của người Nhật trước những cây hoa bị người làm vườn đốn bỏ để tôn vinh vẻ tuyệt trần của duy nhất một bông hoa. Yêu sự toàn mỹ bao hàm cả tình yêu hiếm có dành cho sự bất toàn.

Khi bữa tiệc tuyệt vời kết thúc, chúng tôi muốn tìm lời bày tỏ sự trân trọng chủ nhân và người phục vụ đã dày công chuẩn bị và trình bày món ăn cách hoàn hảo như thế. Nhưng ý tại ngôn ngoại và kể cả những cái cúi chào cung kính chừng như cũng chưa xứng. Bác sĩ Suzuki dẫn chúng tôi băng qua thung lũng, leo lên những bậc thang dốc đứng hướng về nhà ông. Ông là người nhanh nhẹn nhất trong đoàn, bước thoăn thoắt trên những bậc đá như đi trên đất bằng. Chúng tôi theo sau, kinh ngạc. Con gái tôi bị hấp dẫn bởi chủ nhân hào hiệp đến mức muốn ở lại Nhật Bản, học tiếng Nhật, và vào trường Nhật. (Hộ chiếu du lịch của chúng tôi không cho phép làm như vậy nên nó phải miễn cưỡng quay về, cùng với những kỷ niệm sẽ còn giữ
mãi.) Về đến nhà, chúng tôi dừng lại ngắm những cành mẫu đơn đỏ tía bên khung cửa. Bác sĩ Suzuki mỉm cười và đứng nói chuyện bên một bụi mẫu đơn cao lớn khi tôi quay phim ông. Rồi ông mời chúng tôi vào nhà và chúng tôi nhìn thấy một bức họa vẽ cảnh Phật nhập Niết bàn, một "quốc bảo". Ông chỉ cho chúng tôi xem những quyển sách minh họa các "Bảo khố Shôsôin" và chúng tôi sững sờ trước những thớ vải mỏng manh và đồ khí tự tinh xảo từng được sử dụng từ thế kỷ thứ tám trong hoàng triều Nhật Bản vẫn được giữ gìn nguyên vẹn trên 1000 năm nay.

Đọc những quyển sách trong đó ông đã đưa những "chân lý bất diệt" của truyền thống Thiền đến với thế giới nói tiếng Anh, tôi vô cùng cảm ơn đã vinh dự được quen biết Bác sĩ Suzuki, vô cùng biết ơn ông vì ông chính là ông. Tôi thấy mình thật may mắn so với những người khác khi được biếtông một giáo sư thông thái, một thiên tài ngôn ngữ, một khách mời đáng trân trọng và một gia chủ mến khách tuyệt vời. Ông sẽ luôn được nhớ đến như một "Người giác ngộ" ung dung tự tại, như một Công dân thế giới đã mang đến chúng ta vẻ đẹp của nền văn hóa Nhật Bản và trí tuệ vuột thời gian của Thiền tông. Daisetz Teitaro Suzuki, chúng tôi xin kính cẩn cúi chào Ông, một Người mà Phật-Tánh hiển hiện trong một chúng sanh ấm áp tình người.

DOUGLAS V. STEERE
LỮ HÀNH THƯ

(Mùa thu năm 1954, Giáo sư Douglas Steere, một tín đồ giáo phái Quaker, đến thăm Bác sĩ Suzuki và đã viết bức thư cho đăng báo về cuộc viếng thăm này. Nó cho thấy phần nào chân dung Bác sĩ Suzuki mà nhiều bạn hữu của ông thừa nhận. Trong thư gởi Ban biên tập, ông viết: - Tôi mới gặp lại Bác sĩ Suzuki hôm 29 tháng 4 năm nay (1966) và đó là cuộc gặp gỡ thú vị. Ở tuổi 95, ông vẫn rất sinh động và một mực đòi tự tay châm nước pha trà cho chúng tôi. Tôi kể cho ông chuyện một người bạn của tôi, cũng 96 tuổi, đã nói rằng ông không hiểu tại sao ông vẫn còn sống trên đời này nhưng ông nghĩ có lẽ vì Thượng đế cũng chưa biết làm gì với ông. Bác sĩ Suzuki cười nhẹ nhàng và bảo có lẽ đó cũng là trường hợp của ông. - Ed.)

"Một trong những điều đầu tiên tôi nghe nói khi đặt chân đến Nhật là Giáo sư Daisetz Suzuki, một học giả có hạng về Thiền Phật giáo, đã trở về từ New York và đang ở tại Liêm thương. Từ ba năm nay, tôi mời ông làm khách quý của chúng tôi mỗi năm một lần ở Đại học Haverford, vì vậy tôi đã thu xếp đến thăm ông vào ngày hôm sau. Anna Brinton và tôi đã di chuyển bằng hệ thống xe điện tuyệt hảo, đi qua nhiều vùng ngoại ô Tokyo trong một hoặc hai tiếng. Liêm thương từng là một trong các thủ phủ chính trị và tinh thần của Nhật Bản, được điểm xuyến đó đây bằng những tu viện và đền đài Phật giáo tuyệt đẹp do các Nhiếp chính thời đó xây dựng.

Tư thất và tàng kinh các của Giáo sư Daisetz Suzuki nằm trên khu vực vốn là đất chùa, phía cao trên thành phố. Ở đó nhìn qua đồi là Engakuji, một Thiền viện Phật giáo mà vị trụ trì là Sôgen Asahina vừa đến thăm Haverford mùa xuân vừa qua. Sau một hồi mải miết trèo lên những bậc cấp, chúng tôi gặp cô Mihoko Okamura, một cô gái Nhật-Mỹ duyên dáng đi theo làm thư ký cho Giáo sư Suzuki. Cởi giày ra như người Nhật thường làm trước khi vào nhà, chúng tôi mang những đôi dép mềm của gia chủ đưa cho và được đưa tới một gian phòng đơn sơ có trải một chiếc chiếu tatami. Chúng tôi ngồi xuống những tấm nệm mỏng bên một cái bàn thấp theo kiểu Nhật.

Bác sĩ Suzuki bước vào trong bộ đồ Kimino, gương mặt sáng lên với những nụ cười chào đón chúng tôi. Ông quì xuống cạnh cái bàn đối diện với chúng tôi và bắt chuyện ngay, nói từ khi trở về Nhật ông không thể làm việc được vì tất cả bạn hữu đồng hương đến thăm ông suốt cả ngày; đó là chưa kể vô số người thỉnh nguyện. Ông sẽ quay lại New York vào tháng giêng năm sau không chỉ vì khóa dạy của ông ở Đại học Columbia, mà còn để tìm sự yên ắng cho công việc mà ở Nhật ông không thể có được.

Tôi trích lời Jacques Maritain, "một người tư bản là một người không có thời giờ", và chúng tôi cười về sự hăm hở muốn trở lại cái bình yên, tĩnh lặng, vô danh của ông ở giữa lòng thành phố New York để có thể viết tiếp những quyển sách về Thiền. Tôi còn muốn tăng thêm gánh nặng cho ông khi nhận lời đề nghị của ông từ mùa xuân trước để giới thiệu tôi với vài người giỏi nhất trong giới Phật giáo Thiền tông Nhật Bản, cho tôi cảm nhận được sức sống của nó trên đất Nhật ngày nay. Sau tuần trà xanh và ăn bánh ngọt, ông viết cho tôi 4, 5 cái thiệp giới thiệu tôi với những người ở Tokyo và nhiều nơi khác mà ông nghĩ là hữu ích cho tôi. Sau này tôi mới biết, với những tấm thiệp đó tôi đã được tiếp đón nồng nhiệt hơn bất cứ phương tiện nào khác.

Việc thăm hỏi xong, ông dẫn chúng tôi đi xem hai gian nhà lớn bên cạnh tö thất ông, nơi lưu giữ toàn bộ kinh sách đáng kinh ngạc của ông. Nơi này tương lai sẽ là một trung tâm nghiên cứu Thiền Phật giáo khó có nơi nào sánh kịp ở Nhật Bản. Ngoài những thủ bản Thiền xưa cổ, ông còn có đầy đủ các kinh điển Thiên chúa giáo, thần học. Quả không dễ quay lưng trước một tàng kinh các như vậy khi ông chọn sống ở hải ngoại.

Nghị lực vô hạn, tư thái thong dong, nét sảng khoái nội tâm, phong cách nhã nhặn và độ lượng khôn dò nơi nhà học giả vĩ đại này, ở độ tuổi tám mươi ông đã tiễn chúng tôi trong một đám mây kinh ngạc khi lần bước theo những bậc thềm trên con đường quanh co sẫm tối mà người thư ký của ông đưa chúng tôi ra về. Cái gì trong Thiền đã nhen nhóm trong con người già nua này khiến ông rực sáng và khả ái đến vậy?

RICHARD GARD
GỞI BÁC SĨ DAISETZ TEITARO SUZUKI

Ojii-san kính mến,

Biết bao người trên thế giới này kính trọng và nhớ mãi đến Bác như một nhà tư tưởng, nhà văn, người thầy, người sưu tập kinh sách, và người bạn. Tôi cũng vậy, mong muốn được cùng họ hôm nay tỏ lòng chân thành biết ơn Bác.

Là một nhà tư tưởng, trong những cuộc mạn đàm của chúng ta ở Nhật Bản, Hawaii, và nhất là ở California, Bác đã khích lệ và hướng dẫn tôi không ngừng truy tìm những ý tưởng mới, và xem xét lại những cái cũ.

Là một tác gia, Bác đã cho tôi đọc vô số tác phẩm và luận đề bằng Anh ngữ cũng như Nhật ngữ, đặc biệt về tư tưởng Đại thừa, phương pháp luận của Thiền, và văn hóa Nhật.

Là người thầy, ở Ban Cao học Claremont Bác đã dạy tôi những kiến thức mới mẽ về thời đại Liêm thương giúp tôi thực hiện luận án bác sĩ của mình.

Là người sưu tập kinh sách, Bác đã cho tôi xem thư viện của Bác ở Kyoto vào năm 1940, bây giờ đã được xây dựng thành nhà Matsugaoka Bunko ở Liêm thương, đã khích lệ tôi phát triển bộ sưu tập chuyên đề về tư tưởng Á đông và Phật giáo của riêng mình.

Và là một người bạn, từ năm 1939, đã nhiều lần ở nhiều nơi chốn khác nhau, Bác đã chia xẻ những hy vọng và thất vọng riêng tư cũng như những thành tựu trong lĩnh vực học thuật. Đáp lại, tôi đã vô cùng sung sướng được giúp thu xếp cuộc định cư lâu dài lần thứ hai của Bác ở Hoa kỳ, thương lượng việc bổ nhiệm thầy ở Ban Cao học Claremont, làm người bảo lãnh Bác trên đất nước chúng tôi, và mời Bác lưu ngụ tại gia đình tôi ở Ontaraio, California, trong năm 1950.

Nhưng trên tất cả, tôi vẫn nghĩ về Bác trước hết là Ojii-san: tấm lòng từ ái đặc biệt của Bác đối với súc vật, nhất là mèo; Bác yêu thiên nhiên, nhất là hoa; và những nụ cười rộng mở trước tất cả mọi người, lạ cũng như quen.

Với Gasshò

Richard A. Gard

MARGARET J. RIOCH
NHỮNG KỶ NIỆM VỀ BÁC SĨ DAISETZ SUZUKI

Tôi gặp Giáo sư Suzuki vào khoảng năm 1952. Lúc ấy tôi được biết ông có buổi nói chuyện chuyên đề ở Viện Đại học Columbia mà ai cũng có thể đến dự. Vì tìm thấy trong các tác phẩm của ông có điều gì làm tôi nóng lòng muốn tìm hiểu rõ hơn, tôi đã nhân thời cơ này đến New York để tham dự khóa chuyên đề của ông. Thính giả ngồi quanh mép ngoài một căn phòng lớn và ông nói chuyện với một nhóm sinh viên quây tròn phía trong. Hôm đó, ông nói về nếp sống ở Thiền viện ("Một ngày không làm là một ngày không ăn") và cả tiến trình làm đồ gốm như một người thợ gốm Thiền vẫn làm. Ông mô tả chi tiết cách người thợ gốm cẩn thận chọn và trộn đất thó, lấy một ít ở chỗ này và một ít ở chỗ kia, nhận biết một cách tinh tế sự khác nhau của chất liệu ở những vùng khác nhau. Tôi có cảm giác vài người đã mất kiên nhẫn vì sự mô tả dài dòng như tính thủng thẳng mà người thợ gốm phải có khi quan sát các chi tiết. Nhưng rồi điều gây ngạc nhiên cũng đến khi ông bảo tất cả sự cẩn trọng, tài năng, và kinh nghiệm đó cũng chưa đủ để làm ra sản phẩm thật sự. Phải có yếu tố bất chợt, một ngẫu nhiên may mắn nào đó xảy ra. Có thể tôi chưa thật hiểu rõ, nhưng tôi nhớ lúc ấy đã xem ý tưởng này như sự tương đồng của Thiền tông với ân sủng của Thiên chúa. Và tôi tự nhủ người thợ gốm sẽ làm ra sản phẩm thật sự khi y và chất liệu và vũ trụ quanh y là một.

Không rõ đề tài đã chuyển đổi thế nào mà bỗng nhiên Bác sĩ Suzuki nói về chuyện săn bắn. Rõ ràng ông ghét cái ý tưởng rình bắn những con chim và ông nói một cách giận dữ là ông không thể nghĩ ra điều gì xấu hơn việc một con người rình rập để bắn một con chim nhỏ bé. Tôi nghĩ ông muốn nói người ta ít ra hãy đương đầu với cái xứng với tầm vóc của mình hơn, như một con sư tử chẳng hạn!

Sau đó vài năm tôi trở thành học trò của nhà tâm lý học người Pháp, Bác sĩ Hubert Benoit, và đã viết một tiểu luận trình bày tư tưởng của Benoit. Tôi gởi tập tiểu luận này cho Bác sĩ Suzuki và xin gặp ông để thảo luận thêm về đề tài này, ông đã vui vẻ nhận lời.

Tôi đến thăm ông tại gian phòng của ông ở New York. Trợ lý của ông, cô Okamura xinh đẹp, đưa tôi vào nhà. Tôi đoán chắc gia đình cô cũng sống trong tòa nhà này. Theo những điều tôi đã đọc về Thiền và Nhật bản, tôi đinh ninh sẽ nhìn thấy một gian phòng trống trải với một món đồ mỹ thuật duy nhất. Chưa bao giờ, thế mới biết, tôi lại nhìn thấy nơi nào bừa bộn một cách tuyệt hảo như vậy! Bác sĩ Suzuki đang ngồi thanh thản và mỉm cười, lọt thỏm giữa bao nhiêu bàn ghế chất chồng đầy sách, bản thảo, tạp chí trong cái đẹp ngỗn ngang. Còn có mấy chú chim trong chiếc lồng đôi đang hót líu lo liếng thoắng. Cô Okamura pha trà, loại trà cánh dày, xanh đậm được gởi từ Nhật sang; và Bác sĩ Suzuki hài lòng khi thấy tôi thích thú nếm. Thính giác của ông rất yếu, nhưng nếu ta ngồi đối diện ông và nói rõ ràng thì không có vấn đề gì.

Ông gật đầu tỏ ý tán thành bản thảo của tôi. Bác sĩ Benoit, ông xác nhận, đã hiểu trung thực về Thiền. Cô Okamura nói thêm: "Chẳng phải Thầy đã nói từ khi đọc bài tiểu luận của Bác sĩ Rioch Thầy mới thật sự hiểu những gì Bác sĩ Benoit muốn giải bày?" Ông bật cười đồng ý. Khi ngồi đối diện với ông bên chiếc bàn này, tôi thấy hầu như ông thường xuyên cười.

Tôi muốn biết làm sao để bắt đầu tham Thiền nên đã hỏi ý kiến của ông. Dường như câu hỏi này làm ông vui nên ông cười một cách chân tình. Tôi hỏi lại lần nữa và kết quả cũng như cũ. Bấy giờ tôi bối rối. Tôi đã hỏi một câu ngớ ngẩn và có nên thôi đi chăng? Hay đây là trường hợp tương tự của một môn sinh văn minh, hiện đại đứng dưới tuyết suốt mùa đông để chứng tỏ lòng chân thành cầu đạo? Tôi quyết định phải kiên trì nên đã hỏi lại lần nữa. Cuối cùng, ông khuyên tôi nên gặp Bác sĩ Hisamatsu khi ông này đến Harvard vào mùa thu tới. Ông nói Hisamatsu là một tay lão luyện về "ngồi" mà tôi nên tham vấn.

Mùa thu năm đó tôi đã có dịp gặp Bác sĩ Hisamatsu ở Cambridge, Massachusetts, trong một buổi chiều ở nhà của Bác sĩ và phu nhân Robert Lifton, cùng với ông DeMartino làm phiên dịch và Bác sĩ Suzuki ngồi ở cuối ghế sofa thiu thiu ngủ. Cô Okamura cũng có mặt. Cái khó của chủ đề cũng như trở ngại về ngôn ngữ đã hạn chế nhiều tác dụng của buổi mạn đàm. Bác sĩ Suzuki dường như để mặc chúng tôi xoay sở trong lúc ông ngủ gà gật. Nhưng thỉnh thoảng cần thì ông thức, tỉnh táo hoàn toàn. Và chỉ với vài lời ngắn gọn ông giúp chúng tôi hiểu rõ những gì Bác sĩ Hisamatsu đã nói, rồi lại liu thiu ngủ tiếp. Tất nhiên sự lãng tai của ông là một trở ngại, nhưng ông không bao giờ tỏ ra khó chịu vì nó. Một khi đã tham dự là ông thật sự "nhập cuộc". Khi ông không tham dự, chẳng vì thế mà chúng tôi cảm thấy ái ngại cho ông hay có ý nghĩ ông là người tàn tật hoặc "lơ là".

Trong năm đó ông đến Washington và cùng với Bác sĩ Hisamatsu dành ra một buổi chiều ở nhà chúng tôi để gặp gỡ nhóm các nhà tâm lý và phân tâm học yêu thích Thiền. Chuyện cũng diễn ra như trước. Ôõng là một người ốm yếu đáng kính thường tự làm tươi tỉnh bằng những cái chợp mắt ngủ ngắn nhưng vụt tỉnh dậy với tất cả khí lực mạnh mẽ. Nhờ có cô Okamura phụ giúp, ông nói, ông tự cho phép mình được nuông chiều một chút.

Có biết bao câu hỏi đặt ra cho ông. "Nhà khoa học có thể thành người giác ngộ không?" "Có thể", ông đáp. "Làm sao bắc được nhịp cầu nối hai bờ chủ thể-tôi và khách thể-nó, như tách trà kia? Ông có phải cố gắng đồng cảm với khách thể?" Ông lắc đầu, cầm lên chén trà đặt trước mặt ông và nói chắc nịch: "Không, không, không giống như vậy. Tôi không tự hòa mình vào chén trà. Tôi không tìm cách cảm nhận như chén trà. Tôi là chén trà."

JIKAI FUJIYOSHI
DAISETZ SUZUKI VÀ SHIN’ICHI HISAMATSU

Mùa thu năm 1957, tôi đi Mỹ để phiên dịch cho Bác sĩ Shin’ichi Hisamatsu khi ông được mời giảng dạy về "Thiền và văn hóa Thiền" với tư cách giáo sư thỉnh giảng tại khoa Thần học viện Đại học Harvard. Cùng với Bác sĩ Suzuki, chúng tôi lưu trú tại khách sạn Continental ở Cambridge khoảng sáu tháng. Ông thường giúp chúng tôi tháo gỡ các vấn đề khó khăn trong việc dịch thuật ở hội thảo. Và khi Bác sĩ Hisamatsu có buổi giảng thuyết đại chúng ở thủ đô Washington, Bác sĩ Suzuki đã tình nguyện làm phiên dịch cho ông.

Bác sĩ Hisamatsu trẻ hơn Bác sĩ Suzuki mười bảy tuổi, là người mà ông gọi là Sư thúc, vì Bác sĩ Suzuki và Bác sĩ Kitarô Nishida, Sư phụ của Bác sĩ Hisamatsu, là bạn thâm giao từ thuở nhỏ. Bác sĩ Suzuki rất yêu và kính Bác sĩ Hisamatsu và coi ông như người có uy tín về Thiền tông.

Sau hôm đến Cambridge, tôi đi chợ cùng với Bác sĩ Suzuki. Trên đường đi ông bảo tôi: "Bác sĩ Hisamatsu rất giỏi về nghệ thuật Thiền. Ông có hiểu các họa phẩm Thiền không?" Tôi trả lời, "Không, con không rành lắm". "Thật sao? Tôi cũng không rành lắm. Vì Bác sĩ Hisamatsu là một người có thẩm quyền trong lĩnh vực nghẹõ thuật Thiền, tôi thường hỏi ý kiến của ông khi chọn tranh minh họa cho các sách của tôi. Nhưng ông ấy có khả năng phân biệt thật lạ lùng!" Ông nói, đầu hơi nghiêng nghiêng cúi xuống.

Trong khách sạn, phòng của Bác sĩ Suzuki nằm kế phòng của Bác sĩ Hisamatsu, còn phòng của tôi ở tầng trệt. Buổi tối, tôi thường thấy Bác sĩ Suzuki ngồi làm việc rất khuya. Gần như lúc nào ông cũng tham dự các buổi thuyết giảng đại chúng và các cuộc nói chuyện chuyên đề của Bác sĩ Hisamatsu. Có một hôm có chuyện rắc rối phải giải quyết, không đến được, ông bảo, "Thật tiếc tôi phải vắng mặt trong buổi hội thảo tối nay vì thấy hơi mệt." Bác sĩ Hisamatsu quí trọng nhất sự hiện diện đều đặn của Bác sĩ Suzuki ở các cuộc hội thảo, nên ông đáp, "Xin Thầy giữ gìn đừng để kàm việc căng quá có hại sức khỏe." Tối hôm đó, khi dự hội thảo về, tôi thấy Bác sĩ Suzuki đang ngồi Thiền. Ông ngồi trong ánh sáng lờ mờ, bên những nén nhang trầm tỏa cháy. Tôi sẽ không bao giờ quên hình ảnh của Bác sĩ Suzuki ngồi đó với cái cằm của ông hơi nhô ra.

Bài giảng của Bác sĩ Hisamatsu tiến triển, số người dự thính xin được ông hướng dẫn trực tiếp càng tăng. Người ta thường hỏi, "Hình như Thiền của Bác sĩ Suzuki hoàn toàn khác với Thiền của thầy. Theo thầy cái nào chính thống hơn?"

Loại câu hỏi như vậy giúp tôi thấy những khó khăn Bác sĩ Suzuki đã trải qua trên tiến trình đưa Thiền đến với phương Tây, và sự vĩ đại của ông trong việc làm cho nó trở thành phổ biến như ngày nay.

Ở Mỹ, Bác sĩ Suzuki được đông đảo người ngưỡng mộ. Ông gây sự chú ý của cử tọa ngay khi xuất hiện trên bục giảng, với dáng vẻ độc đáo và cách sử dụng tiếng Anh lưu loát ông chiếm ngay cảm tình của họ. Sau khi thuyết trình, nếu có câu hỏi, Bác sĩ Suzuki thường nhận được những câu viết để bổ sung cho thính giác yếu kém của ông. Đọc xong là ông trả lời lập tức từng câu một. Với những lời đáp sâu sắc và dí dỏm, thường là trường hợp trong các vấn đáp Thiền, cử tọa vỗ tay tán thưởng một cách thích thú. Có lần sau khi dự một cuộc thuyết trình như vậy, trên đường về tôi nói với Bác sĩ Hisamatsu: "Bác sĩ Suzuki quả là một người trác tuyệt, đúng không?" Bác sĩ Hisamatsu đáp: "Bác sĩ Suzuki độc đáo, nhưng chúng ta không nên cố bắt chước ông. Người ta phải tuyệt đối chính xác và trung thực khi nói về Thiền."

Trở về Nhật, Bác sĩ Suzuki với tư cách cố vấn Thiền viện F.A.S., thường đóng góp nhiều ý kiến quí báu cho chúng tôi. Ông nhận lời thuyết trình bất cứ lúc nào chúng tôi đề nghị. Một hôm, khi chúng tôi rảo bước từ Bắc môn chùa Myôshinji (Diệu tâm tự) đến Hôsekian (Bảo thạch am? am của Bác sĩ Hisamatsu), bất chợt Bác sĩ Suzuki nói, giọng xúc động: "Không biết Thiền sẽ như thế nào trong tương lai? Dù hiện tại chúng ta có những tự việntráng lệ như thế này, trừ khi chúng bị quét sạch hoàn toàn, chân Thiền sẽ không bao giờ có thể hiển lộ."

Sáng ngày 12 tháng 7, 1966, nghe tin tức trên đài tôi được biết Bác sĩ Suzuki đã từ trần. Ngay hôm sau tôi đi Liêm thương dự tang lễ của ông với tư cách đại diện của Viện F.A.S.. Tôi đến Tôkeiji (Đông khánh tự) buổi chiều ngày 13 đúng lúc quan tài ông đang được chuyển từ Đồ thư quán Matsugaoka xuống khu chính của chùa. Tại đây chúng tôi đã thức suốt đêm bên di thể của ông. Bằng hữu của ông từng người lần lượt nói lời vĩnh biệt. Sau chót, Cô Mihoko Okamura, thư ký của ông, đặt một xấp giấy trên ngực ông, và nắp quan tài được đóng lại. Cô khóc.

Không thể dự tang lễ của Bác sĩ Suzuki vì bịnh, Bác sĩ Hisamatsu đã gởi đến bức điện: "Vĩnh viễn chia tay, hằng hội ngộ". Cô Okamura, trong lúc đau buồn, nói là cô vô cùng cảm ơn những lời này. Khi tôi trở lại Đồ thư quán Matsugaoka, cũng chính trong căn phòng đã đặt quan tài của ông, tôi nhìn thấy bức trướng đề bài thơ của Sengai mà Bác sĩ Suzuki rất thích:

Ở giữa lòng thiện ác,
Ta nghe trong chiều
Gió mát.

Hôm sau, tang lễ của ông được cử hành tại chùa Tôkeiji, tôi thật sự xúc động trước bài kệ tống biệt của ngài Sàm chủ, Hòa thượng Sogen Asashina:

Kệ tống biệt
Vô vị chân nhân,
Con người vĩ đại;
Chín mươi lăm năm
Quay Bánh xe Nguyền;
Chợt biến mất.
Người đi đâu?
Trên Đồi Thông,
Lá xanh tươi;
Tháng Sáu.
Đèn Thiền lên tiếng,
Tỏa rạng thế gian.
Công đứữc người ai tưởng,
Kém La-thập, Huyền Trang?
Kwatz!

Lặng nghe những lời này, tôi cảm thấy bản thân Bác sĩ Suzuki đúng là "một chân nhân vĩ đại không danh hiệu". "Chín mươi lăm năm Quay Bánh xe Nguyền" quả đúng là người. Và ấn tượng hơn hết là hai câu này:

Chợt biến mất.
Người đi đâu?
Trên Đồi Thông,
Lá xanh tươi;
Tháng Sáu.

Sau này cô Okamura nói với tôi ngày ông ra đi, Bác sĩ Suzuki mặc bộ kimono mà Bác sĩ Hisamatsu đã tặng ông nhân dịp sinh nhật lần thứ 88 của ông. Bác sĩ Hisamatsu nói ông "thật xúc động" khi nghe tôi kể lại chuyện này.

Sinh nhật lần thứ 88 của ông, chúng tôi đang ở Đại học Harvard, đã tổ chức buổi tiệc nhỏ trong một nhà hàng Trung hoa ở Cambridge. Lúc ấy trông ông rất khỏe mạnh và ông đã vui vẻ thổi tắt tám ngọn nến, cho rằng ông phải sống thêm ít lâu nữa để có thể làm việc. Ông bảo: "Tôi thường nói với những người muốn thác sanh cõi Tịnh độ rằng bạn muốn làm gì ở đó? Tịnh độ không là nơi để ở lâu. Các bạn nên xuống địa ngục hơn, để cứu giúp bao người đang đau khổ ở đó." Và ông tiếp: "Thiết nghĩ lòng Từ bi nên có trước Adiđà và Tịnh độ. Chưa thấu rõ lòng Từ bi, các bạn không thể hiểu A-di-đà và cõi Tịnh độ. Trừ phi bạn ôm chặt lòng Từ bi, các bạn sẽ không bao giờ hiểu được Di-đà hay Tịnh độ."

Ngoài những trước tác về Thiền tông, ông còn để lại cho chúng ta nhiều tác phẩm viết về học thuyết Tịnh độ như Tính cách tâm linh Nhật Bản, Luận về tư tưởng Tịnh độ, và Myôkônin (Diệu hảo nhân). Trong nỗ lực phi thần thánh hóa học thuyết Tịnh độ, ông đã làm được nhiều hơn cả Bultmann đã làm với học thuyết Cơ đốc giáo. Ông đã nhận thấy sự đồng nhất cơ bản của tư tưởng Thiền và Tịnh độ, vì thế ông đã giới thiệu với thế giới những vị Myôkônin mà hầu hết đều là những người không học vấn.

Ta không nên đánh giá sai một trong những đóng góp quan trọng của ông, đã trình bày với Tây phương Tín ngưỡng Tịnh độ thực chất là một so với Thiền tông, dù vẫn còn vài vấn đề cần lý giải trong lãnh vực này.

Ngài Tenkô Nishida ở Ittôen (Làng Nhất đăng) có bài đoản thi:

Nghỉ một chút thôi,
Rồi tôi sẽ trở lại nơi này
Khi Anh đào nở.

Bác sĩ Suzuki cũng vậy, chỉ tạm dừng chân nơi cõi Tịnh độ một chút thôi, có thể ông sẽ quay lại. Hay là, xuống địa ngục trước khi về Tịnh độ, biết đâu có ngày ông sẽ ôm đầu mình trong tay mà reo vang, "Xin chào! Số mệnh run rủi lại gặp các bạn ở đây!"

A. W. SADLER
NHỚ VỀ D.T. SUZUKI

Người nào có thể ôn chuyện cũ mà biết được điều mới, người đó đáng làm thầy.
Khổng tử, Luận ngữ, II, 11.

Tháng 2, New York. Đó là năm 1952, trong một giảng đường của tòa nhà Low Library trong khuôn viên Viện Đại học Columbia, một cuộc tụ hội những học giả, đã thành và chưa thành danh, đến để dự khai giảng khóa học của Daisetz Suzuki. Giảng đường có cái vẻ mênh mông thời đại Victoria và Tiên sinh Suzuki gần như mất hút trong đó; chỉ có thể nhận ra giọng nói nhỏ nhẹ và cặp chân mày quắc thước phát ra từ bục giảng. "Đây sẽ là một khóa giảng," ông nói, "về triết lý của phi thời gian và không gian không khởi đầu. Cho nên khóa này cũng không có khởi đầu." Tên chính thức của khóa học là Triết học Trung Hoa, nhưng tất cả chúng tôi đều đến dự vì biết đó là khóa giảng của Daisetz Suzuki.

Buổi khai giảng này rõ ràng là một biến cố ở Columbia; trên hàng ghế phía sau ngồi đầy các học giả tên tuổi. Bác sĩ Suzuki nói tiếp: "Chúng ta phải bắt đầu với Đức Phật. Hầu hết các nhà văn lãng quên những kinh nghiệm mà ngài từng trải qua: họ nói về nhân cách đã đi qua những kinh nghiệm này. Tư tưởng của ngài biểu hiện kinh nghiệm của ngài, trong bối cảnh thời đại mà ngài sống. Mọi diễn đạt của bất cứ con người nào đều được tôi luyện bởi kinh nghiệm của ngài. Làm thế, chúng ta có thể diễn đạt những kinh nghiệm của ngài trong khuôn khổ thời đại của chúng ta. Chúng ta cần phải minh xác những diễn đạt ghi lại nói là của Đức Phật." Để giúp chúng tôi làm việc này, ông sẽ giới thiệu với chúng tôi khóa chuyên đề này về triết học Hoa nghiêm, mà tiếng Nhật nói là Kegon. "Hoa nghiêm được coi là thuyết giảng của Phật trong khi thành Chánh giác. Tất cả những lời dạy khác được Phật nói ra cho đệ tử sau khi ngài đã thành Chánh giác. Trong Hoa nghiêm, ngài không tùy duyên thuyết Pháp cho người nghe. Đó là sự diễn đạt trực tiếp ngay trong nội tâm Chánh giác của ngài. Không có người nghe; chỉ có Phật tự thân hiện hữu."

Khóa chuyên đềử kéo dài, hàng quan khách tên tuổi dần thưa thớt và biến mất, chỉ còn lại các nghiên cứu sinh với Bác sĩ Suziki. Từng lời giảng của ông, ở mỗi lần lên lớp, là những lời như đã ghi nhận ở trên: được suy nghĩ cặn kẻ, chọn lọc, đầy tính phản biện mẫn tiệp, mà vẫn trực tiếp, mạnh mẽ và giản dị một cách hiệu quả. Anh ngữ không phải là ngôn ngữ quê hương ông, nhưng rõ ràng đó là phương tiện truyền đạt của ông.

Tôi xin trích thêm một đoạn trong các ghi chú của tôi ở trong lớp. Hôm ấy Bác sĩ Suzuki bàn về bài kệ cốt lõi trong Dhammapada, XI, 8, 9: Bài ca chiến thắng của Phật mà ngài đã tán thán trong lúc thành Chánh giác. ‘Ồ, người thợ xây, ta đã nhìn thấy ngươi.’ Điều này chứng minh khía cạnh lý trí của Giác ngộ. Chính sự thấy làm cho toàn thể ngôi nhà sụp đổ. Thế giới này là kết quả của sự khái niệm hóa. Bao lâu trí năng của chúng ta còn vận hành, nó còn tồn tại. Chỉ sự thấy một vật thông thường không thay đổi nó. Nhưng khi ta đưa trí năng vào sự thấy, vật sẽ thay đổi. Khi đức Phật nhìn người thợ làm nhà, sự thấy ấy khiến người thợ ngưng việc làm nhà. Vật được thấy thường là đối lập với chủ thể thấy; chúng luôn đối nghịch nhau. Trong kinh nghiệm của đức Phật, có thể chưa từng có đối nghịch. Khi thế giới hòa tan trước đức Phật, ngài cũng đã từng hòa tan với nó. Ngài không đứng lùi lại để nhìn sự hoại diệt. Ngài không thể nắm bắt được người thợ bởi y chính là chiếc bóng của ngài. Muốn bóng mất đi, chính ngài phải tan biến. Sự thấy như vậy là sự thấy tuyệt đối chứ không phải đối đãi. Khi Thượng đế nhìn chính mình ngài không còn là ngài nữa; khi đức Phật nhìn người thợ xây nhà đang lao động, ngài đã rọi cái bóng của riêng mình ra phía trước, cố nắm bắt nó, giải thoát khỏi nó. Ở đây đức Phật đã trải nghiệm sự thấy tuyệt đối của ngài. Ngài muốn giải thoát khỏi vòng sanh-tử, mà cũng phải giải thoát khỏi cả ý muốn này. Khi ngài thốt lên ‘ta đã nhìn thấy ngươi’ thì người thợ xây mà ngài nói đó chính là ngài. Nếu ngài còn ý nghĩ được giải thoát khỏi một cái gì bên ngoài mình, ngài đã chẳng thể được giải thoát. Điều ngài muốn nói là ‘Ta biết ta là ai’; ‘Ta biết ta là ta’. Ngài đã nhìn thấy chính mình."

Trong những ngày Bác sĩ Suzuki giảng dạy triết lý của ông ở Columbia, thì ở trường Dòng Union, Paul Tillich đang dẫn giải về Phương pháp luận Thần học của ông. Có lần Bác sĩ Tillich nói với chúng tôi ông đã trở về Đức sau chiến tranh và đã thuyết trình một buổi trước đông đảo cựu học viên của ông. Một người trong số họ đã chúc mừng và nói với ông: "Những năm tháng sống ở Hoa kỳ của thầy thật hữu ích. Bây giờ cuối cùng chúng tôi đã có thể hiểu được thầy". Và Tillich cho rằng có lẽ thiên hướng siêu hình kiểu Đức của ông cuối cùng đã hòa trộn với năng khiếu diễn đạt ngắngọn và trực tiếp kiểu Anglo-saxon. Lạ thay cả hai người này đều truyền đạt những tư tưởng uyên thâm thường là nghịch lý của họ bằng thứ ngôn ngữ xa lạ với họ, mà cả hai đều được học trò của mình yêu quí, một mặt vì tính nhân bản xuyên suốt của họ, nhưng mặt khác, theo tôi, cũng vì tư tưởng trong sáng hiếm hoi của họ đã được diễn đạt bằng thứ tiếng Anh mà hiếm người bản xứ ở Mỹ sánh kịp. Một thứ tiếng Anh tưởng là đơn giản; thực ra rất phù hợp để chuyển tải những tư tưởng mà, vì nó xới tận tâm can của cuộc sống, rất trong sáng và căn bản. Sự trong sáng trong diễn đạt dẫn ta đến sự trong sáng của tư tưởng. Và sự trong sáng của tư tưởng dẫn ta đến tính nhân bản của họ. Cuối cùng, đó không chỉ là một khóa học với Bác sĩ Suzuki.

LUNSFORD P. YANDELL
CHẾT: TRĂNG TRÔI

Có lẽ câu ngạn ngữ "Khi nào học trò sẵn lòng, thầy sẽ xuất hiện" sẽ rõ nghĩa hơn với những người học trò tương lai nếu nói "Trò đã sẵn lòng, thầy chưa xuất hiện". Bởi vì vấn đề chính không phải là sự mưu tìm của môn sinh như là sự sẵn lòng của y, vốn quyết định khả năng nhận ra người thầy. Dù vậy, ngày nay, như trong thời đại của Sòyen ông đã nói: "Rất hiếm khi người ta có dịp được giới thiệu với một vị minh sư".

Từ giã những công vụ rộn ràng từ năm 1950 để đi tìm lời giải đáp căn cơ cho câu hỏi của tuổi về chiều: "Chân lý là gì?", sự tìm kiếm này đã dẫn đến những bài học Yoga ở Ấn độ. Rồi quay về Trung Đông với những bài học của giáo phái Sufis và của G. Gurdjieff. Rồi tìm đến Krishnamurti, quay sang Ramana Maharshi - tất cả những bậc thầy và những bài học đã chứng nhận cho biết bao người khát khao tầm đạo. Nhưng giống như Huệ Khả, tôi đã vô vọng đi tìm một người để "an tâm cho mình". Sự tầm cầu vô vọng này kết thúc, và tôi bắt đầu hiểu, trong một giảng đường khoa Triết viện Đại học Columbia vào khoảng giữa thập niên 1950, dưới sự chủ trì của Daisetz Teitaro Suzuki.

Ngày nay, dù nhiều người đã biết Bác sĩ Suzuki từ lâu và còn gần gũi hơn, vẫn có một yêu cầu thân thương về những kỷ niệm và ấn tượng cá nhân. Dharmakàya (Pháp thân) đã từng được gọi là "lý tính, sự sống và qui tắc của tất cả hiện hữu cá biệt - yếu tính của nó thì vô hạn, nhưng hiện hình của nó thì hữu hạn". Những điều sau đây do đó sẽ được phân thành Hữu hạn hay Vô hạn.

HỮU HẠN

Ta không thể quên được những bài thuyết giảng về Thiền của Bác sĩ Suzuki ở Đại học Columbia, vì nhiều lý do ngoài nội dung hấp dẫn của chúng. Trước hết, vì sự "hiện hữu" của chính ông. Không có bài viết nào của ông có thể lột tả được thần thái ông - một "chân nhân". Sự hiện diện mạnh mẽ này càng được nâng cao bởi phong cách tận tụy và kính trọng của người thư ký phụ tá ông, Cô Mihoko Okamura.

Ở mỗi bài giảng thường có từ ba mươi đến bốn mươi người tham dự mà thành phần khác biệt của họ càng thêm thú vị cho lớp học. Đầu tiên là khoảng mươi sinh viên Đại học, cũng chừng ấy sinh viên sau Đại học mà nhiều người gốc châu Á, rất chú tâm tìm hiểu. Thêm vào đó là khoảng năm, sáu người trong các lãnh vực tâm thần học, tâm lý trị liệu và phân tâm học mưu tìm những phương cách trị liệu hiệu quả hơn, và có thể cả lời giải đáp cho những vấn nạn của chính họ. Cuối cùng là số ít người dự thính vì bận tâm với những nghiên cứu của riêng họ.

Những bài giảng của Bác sĩ Suzuki tự nó là kiểu mẫu của sự uyên bác, nhất là về triết học Hoa nghiêm. Có lần tôi đã hỏi trong chỗ riêng tư tại sao ông vẫn còn giảng thuyết, trong khi ông có thể trình bày sự phong phú của Thiền tông bằng tác phẩm với lượng độc giả rộng lớn hơn nhiều. Ông trả lời: "Bài giảng chiếm nhiều thời gian hơn, nhưng chúng bắt tôi phải suy nghĩ và thôi thúc tôi phải chuẩn bị chu đáo". (Ông nói điều này ở tuổi 85!)

Cuối mỗi tiết giảng, đứng trước tấm bảng đen đầy những biểu đồ giải thích cũng như những ký tự Nhật và Hán, ông mời mọi người nêu câu hỏi. Đây là khoảng thời gian sôi động nhất của nhóm nghiên cứu sinh, và trong một dịp như vậy việc sử dụng thuốc kích thích mescalin đã được mô tả một cách sinh động bởi một nghệ sĩ đã sử dụng nó để đạt những cảm nhận cao độ về màu sắc trước khi đến viện Bảo tàng Nghệ thuật Metropolitan. Điều này dẫn đến cuộc bàn cãi sôi nổi vì lúc ấy có nhiều bài viết về chất kích thích mescalin và cả chất gây ảo giác peyote. Chẳng mấy chốc, Bác sĩ Suzuki được hỏi liệu loại thuốc như vậy có ích gì cho việc mưu tìm sự thức tỉnh. Ông đáp, một cách bình thản và mắt không rời tập tài liệu: "Không có lối tắt để cảm nhận Chân lý".

Vì quan tâm sâu sắc đến những điều ông truyền đạt, tôi đã xin thọ giáo ông để được hướng dẫn riêng. Ông giải thích là mình chưa bao giờ nhận đệ tử, nhưng ông cho phép tôi thỉnh thoảng đến nhà gia đình Okamura ở New York là nơi ông đang lưu trú để trao đổi những vấn đề vượt quá tầm hiểu biết của tôi. Trong những dịp đó, những gì Bác sĩ Suzuki phát biểu thật rõ ràng như để giải thích mọi việc ông đã nói.

Có lần tôi đã mang đến một trong những tập sách đẹp của Krishnamurti, Commentaries on Living (Bình luận về cuộc sống) và đọc to cho ông nghe nhiều luận đề, vì tôi thấy ông có vẻ đồng ý là chúng diễn đạt nhiều luận điểm tương tự như trong Thiền tông. Có hai đoạn được ông nhận xét là "Rất gần với Chân lý. Phải, cái cách của nó là như vậy". Nhưng ông cũng nêu rõ hầu hết các nhà tư tưởng Ấn độ đều có khuynh hướng phân biệt "là" và "trở thành" - bay lượn trên trời và phủ nhận mặt đất. "Nhưng Là cũng là Trở thành", ông nói, một cách xác quyết.

Tôi còn hỏi ông việc huy động sinh lực từ xương sống đến trung tâm thần kinh, như trong Mật tông và như được mô tả trong Kim hoa bí điển (The Secret of the Golden Flower), có phải là phương cách để đạt sự tỉnh ngộ. "Không phải bằng cách đó", ông đáp, "Một ngày nào ngồi lặng lẽ, ông sẽ hiểu."

Lần khác tôi lại hỏi ông, người ta sẽ hành động thế nào sau khi chứng ngộ, nếu gặp một đứa trẻ hay con vật bị đối xử thô bạo. Ông nói: "Họ sẽ hành động như mọi người có thể hành động, nhưng không bắt nguồn từ cái tôi của mình".

Chúng tôi còn bàn về việc uống ruợu, ông cho rằng "Nó đã bị lạm dụng để ức chế bản ngã", và tiếp tục nồng nhiệt nói về bản dịch Thi phẩm Ba tư (Rubaiyat) của Fitzgerald, cho đó là bản dịch hay nhất từ trước tới nay. Ngoài ra, cũng về việc dịch thuật, ông coi Trang Tử là nhà tư tưởng vĩ đại nhất Trung hoa xưa nay. Và dù đã viết một bài giới thiệu ca ngợi bản dịch của Legge mới đây, Bác sĩ Suzuki vẫn xem bản dịch của H. A. Giles là hay nhất.

Đối với Lão giáo, có lần tôi nói tôi cảm thấy một tác giả đương đại quen thuộc viết về Thiền có vẻ Lão giáo hơn Thiền tông. Ông đáp: "Phải, Lão giáo dễ hiểu hơn Thiền".

Một câu hỏi nữa là, nếu không có mong cầu, làm sao người ta có thể duy trì tâm trạng hài lòng? Dùng cây viết chì vạch hai đường nằm ngang và một đường dợn sóng ở giữa, ông giải thích người ta luôn sống trên hai bình độ ý thức xen kẻ nhau - bình độ tương đối và bình độ tuyệt đối. Rồi ông bảo: "Khi ở Tokyo, tôi muốn đến New York. Khi ở New York, tôi muốn đến Tokyo. Nhưng tự căn bản, tôi mãn nguyện".

Trong thời gian những cuộc chuyện trò này ở New York đang trình chiếu một bộ phim về sự nở hoa của hãng Walt Disney, quay từng phút để cho toàn bộ tiến trình sinh trưởng khai nở một đóa hoa xuất hiện trên màn ảnh đầy màu sắc. Nghĩ rằng sự vén mở điều tuyệt diệu của "cái đang là" như vậy chắc sẽ hấp dẫn Bác sĩ Suzuki, tôi đã mời ông đi xem. Sau khi xem phim, ông nhận xét: "Khoa học ngày nay thật tài tình. Nhưng dù đã xem những hình ảnh kỳ tuyệt này, người ta vẫn chưa biết về hoa".

Trong chuyến đi New York lần cuối của ông vào tháng 6, 1964, tôi thấy ông không sút giảm chút nào ngoại trừ thính giác. Mà về mặt tinh thần, ông đang sung mãn nhất. Ông kể lại ngày hôm trước khi tôi đến, Cha Thomas Merton đã đến thăm ông, và ông sôi nổi nói về kiến giải sâu sắc bất ngờ của Cha Merton về Thiền tông. Đưa cho tôi đọc một bài viết về Thiền của Cha đăng gần đây trên tạp chí định kỳ Continuum, ông nói: "Trong bài báo này có nhiều hiểu biết về Thiền hơn bất cứ tác giả Tây phương nào tôi từng biết." Về phần Cha Merton, ông đã viết một tuần sau cái chết của Bác sĩ Suzuki: "Tôi chia xẻ sự đau buồn sâu xa của quí vị khi mất đi một người vĩ đại như Bác sĩ Suzuki, người mà tôi coi như một trong các bậc thầy tôn giáo trong thời đại của chúng ta."

Từ những giai thoại tương tự mà chủ đề của họ - ‘Tôi rất vinh dự quen biết ông ấy’ - đã thoát khỏi một cách phi thường điều người Pháp thường gọilà "tính khoa trương khốn kiếp của các học giả" vốn tạo nên bao cuộc tranh luận nơi chốn hàn lâm. Ông biết rõ dù thế nào Chân lý cũng vượt ngoài ngôn tự. Tuy vậy, để chỉ ra con đường vào tri thức nằm ở đâu, ông phải trải qua vô vàn khó nhọc. Có lần tôi đã viết: "Làm thế nào mà việc ‘chăn được trâu’, Yoga, hay bất cứ hình thức tự rèn luyện nào tương tự cũng thất bại không thể củng cố cái bản ngã đáng lẽ bằng mọi giá phải lắng đọng xuống?" Nhiều tuần trôi qua không thấy hồi âm. Rồi một thư xin lỗi vì chậm trễ, nói rằng câu trả lời phải được viết ra, nhưng ‘nó chưa hoàn toàn chính xác’. Bẵng đi khoảng vài tuần nữa, một lá thư khác cho biết câu trả lời đã được viết lại, song đã bị thất lạc vì những chuyến đi trong mùa hè. Cuối cùng, một lời đáp dài 35 trang đánh máy - "Thiền và bản ngã" - đến cùng với lời xin lỗi.

Như một ví dụ khác về khó khăn lớn mà Bác sĩ Suzuki vấp phải nếu ông cảm thấy có một nhu cầu thực sự, mới đây tôi đã viết thư hỏi làm sao tìm được hai quyển sách đầu tay của ông ở đâu. Chúng được xuất bản khoảng năm 1906, một là bản dịch Anh ngữ cuốn Những bài thuyết pháp của Phương trượng của Sòyen Shaku, và cuốn Tóm tắt lịch sử triết học Trung Hoa thời kỳ đầu. Ông biết tôi đang truy tìm những cội nguồn minh triết đã nuôi dưỡng ông từ buổi đầu, và đã hồi âm tháng 6 vừa qua: "Trong kho ở đây hầu như chẳng còn gì. Tôi nghĩ phải sao chụp lại những sách này và sẽ gởi ông ngay khi có được." Mấy tuần sau khi ông mất, tôi nhận được bản sao hai quyển sách của ông, một lần nữa như lời nhắc nhớ thấm thía về những bài thuyết pháp của Sòyen Shaku, nêu bật tính cách hiếm hoi của một vị "thầy tinh thần đích thật".

Trong những lá thư viết vài năm trở lại đây, Bác sĩ Suzuki luôn nhắc đến hy vọng "có đủ thời gian" để chu toàn việc giới thiệu kho tàng Thiền tông cho thế giới Tây phương, bằng hình thức thuần túy những lời dạy của các bậc thầy xưa. Bởi lẽ ông biết rõ những ai viết hay diễn giảng về Thiền mà bản thân chưa có ánh sáng bên trong thì không những họ đang làm việc vô bổ mà còn có nguy cơ tác hại người khác. Và ông cảm thấy lo ngại gia tăng mãi trước những diễn giải và quan niệm sai lầm đang được nhiều tác giả viết về Thiền tông như vậy đưa ra. Tuy nhiên ông đã viết cách đây không lâu rằng ông được an ủi ít nhiều khi nhớ lại lời than của một Cổ Đức, rằng ngay trong thời đại của ông, những quan niệm và diễn giải sai lầm cũng "nhiều như mưa phùn mùa xuân". Lạ thay một tình trạng như thế mà Thiền vẫn cứ tồn tại.

Thật là một người hy hữu, ở tuổi chín mươi lăm vẫn lo mình chẳng đủ thời gian để chu toàn phận sự! Lo lắng dù ông đã để lại một khối lượng trước tác đồ sộ như thế! Thầy của ông, Sòyen Shaku, đã nói trong một lần thuyết pháp: "Chúng ta chỉ cần có một ý tưởng hay cảm xúc đáng để trình bày hay biến thành hiện thực, chúng ta sẽ đến với cuộc đời này nhiều lần theo yêu cầu để hoàn tất sứ mệnh đó, dù cho đến ngày tận thế." Trong những năm cuối đời mình, Bác sĩ Suzuki đã có thể nói "Bây giờ tôi cảm thấy điều đó chưa đúng hẳn", vì có lần tôi hỏi ông có tin vào sự tái sinh không, ông đáp: "Đối với tôi, tái sinh là tái sinh trong từng khoảnh khắc."

Và như vậy, trong lá thư cuối cùng của ông viết một tháng trước khi mất, ông đã nói về trích đoạn trong cuốn "Ngôi nhà Ngoài cùng" của Henry Beston mà tôi đã gởi cho ông:

Chúng ta cần một quan niệm khác hơn và thông minh hơn và có lẽ huyền nhiệm hơn về các động vật. Tách rời thiên nhiên phổ quát, sống với những cái giả tạo phức tạp, con người văn minh quan sát tạo vật qua lăng kính tri thức của nó, do đó chỉ nhìn thấy sợi lông được phóng đại và một hình ảnh méo mó. Chúng ta làm chủ chúng vì sự bất toàn của chúng, vì số phận nghiệt ngã của chúng có hình hài thấp kém xa chúng ta. Đây là chỗ chúng ta sai lầm, và sai lầm lớn. Vì không nên đo lường thú vật bằng tiêu chuẩn con người. Trong một thế giới cổ xưa hơn và hoàn hảo hơn của chúng ta, chúng tiến tới hoàn tất và hoàn chỉnh, có phạm vi giác quan mà chúng ta đã đánh mất hoặc chưa bao giờ có, sống với những âm thanh chúng ta chưa bao giờ nghe. Chúng không phải anh em đồng bào, cũng không phải bộ hạ tay chân; chúng thuộc những xứ sở khác, tình cờ gặp chúng
ta trong mạng lưới của thời gian và sự sống, cùng bị giam hãm trong dáng vẻ huy hoàng và nỗi nhọc nhằn của trần gian.

Trong thư hồi đáp vào tháng 6, Bác sĩ Suzuki viết:

Đoạn trích từ Breston thật thú vị và phản ánh tinh thần đích thực của trí tưởng tượng của người Hoa, và tôi hoàn toàn đồng ý với quan niệm của tácgiả cho rằng "thú vật tiến tới hoàn tất và hoàn chỉnh". Những con mèo của chúng ta chẳng hạn, tôi tin chắc tự chúng rất toàn hảo. Tuy vậy, tôi muốn nói thêm, có lẽ chúng ta những con người, cũng toàn hảo trong sự bất toàn của chúng ta. Sự toàn hảo của con người nằm ở nỗ lực miên viễn để nhận chân sự bất toàn, ý thức được sự bất toàn và cố gắng hoàn thiện nó. Sống là sự nỗ lực không ngừng hướng tới toàn mỹ. Toàn mỹ nhất là cái chết, tuy thế chúng ta chưa bao giờ đạt đến.

Bằng trực giác ông biết, cùng với Bankei, rằng ông chưa từng sinh - rằng vì bất sinh, do đó ông cũng bất tử. Và chúng ta cũng vậy.

VÔ HẠN

Có thể nói được gì với câu hỏi hữu hạn "Hắn đã đi đâu?" Lời đáp hẳn phải là "Hắn có thể đi đâu?" Ý thức rõ thực tế phi cá thể, đã từ lâu ông tự biết mình là CÁI NÀY trong tất cả những cái kia theo vẻ ngoài. Cũng như CUỘC SỐNG trong mọi cuộc đời cách biệt nhau theo vẻ ngoài, ông bây giờ đang tản bộ và trò chuyện với những "con người thời xưa" mà ông rất yêu không ít hơn với chúng ta hiện tại, thoát khỏi ảo tưởng về sự cách biệt, "sống trong Ánh sáng của Vĩnh cửu", nói theo ông, từ vô thỉ cho đến vô cùng. Ông không cần nói thêm "Ồ, tôi chưa thể hoàn thành phận sự của mình!" mà chỉ giản dị: "Ồ, CÁI NÀY!"

Còn chúng ta hiện tại có thể nói gì? Có lẽ chúng ta có thể diễn giảng bằng bài thơ này của Genro:

Y đã trở về nhà
Nhìn thấy tia nắng đẹp ban mai
Và ngắm sát trăng sao gần gũi
Thong dong bước trên đường
Tận hưởng làn gió nhẹ
Cuối cùng mở cửa kho tàng
Đã lâu lắm rồi y vẫn biết
Mình có nó từ vô thỉ.

Nếu Daisetz Teitaro Suzuki trở thành một tu sĩ, chắc chắn ông phải là vị Sư trưởng lẫy lừng trong tu viện của riêng ông. Ở đó, nếu chúng ta đến với ông, có lẽ ông sẽ nhóm lên những ngọn lửa giới luật tinh nghiêm.

Là cư sĩ, không những ông là một học giả, giáo sư và nhà văn tài ba, ông còn là nhà đại hiền triết, người đã đến với chúng ta, và thắp lên trong chúng ta ngọn đèn bằng chính ánh sáng của ông.

Với những người được ông thắp sáng lên ngọn đèn của mình, Ngọn đèn xưa vẫn cháy, tinh thần ông vẫn được nhen nhóm trong tâm hồn họ. Với những người này và với cả những người ông sẽ còn đến sau, qua ánh sáng truyền lại từ những tác phẩm vượt thời gian của ông, ông sẽ chiêm nghiệm dài lâu như họ sống - cả trong cái ở đây và bây giờ và "trong Ánh sáng của Vĩnh cửu."

Sống: mây qua đỉnh
Chết: trăng trôi.

Vô Môn.

---o0o---


Source:PhatViet (Phật Giáo Việt Nam)
Chân thành cảm ơn Ðạo Hữu Tâm Diệu

đã gởi tặng phiên bản diện tử Unicode này

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567