Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tản Mạn ....Hoa Và Đạo

24/10/201813:01(Xem: 3642)
Tản Mạn ....Hoa Và Đạo

hoa phuong tim
TẢN MẠN ....HOA VÀ ĐẠO 

 

Đông và Tây có lẽ gặp nhau nhiều nhất trong việc chọn lựa tên cho con cái, nhất là  đứa trẻ được chào đời ấy sẽ  là trai hay gái, nếu là trai thì chọn những đức tính tốt hoặc lương thiện: Dũng, Đức, Nhân, Hùng, Ái , Nghĩa, Toàn ...riêng với bé gái tượng trưng cho sự mảnh mai, yếu ớt thì lại chọn tên các loài hoa như: Lan, Huệ, Mai, Cúc, Hồng v.v...và vì thế tôi cũng được nằm trong số những bé gái mang tên một loài hoa ...

Nhưng sau nầy khi có dịp nghiên cứu chơi chơi về tử vi và số mệnh của đời người, trong những lúc thất bại vào giữa tuổi trung niên, thì tôi lại nghiệm ra cái tên lại có ảnh hưởng đến  phần nào cuộc đời của người đó, chứ không hề biết rằng Hoa rất quan trọng đối với người Phật tử ...

Hoa luôn mang đến cho trái tim người ngắm nó một ý tưởng vui tươi, trong sạch và lành mạnh, không ai bị phiền não hay có ý  định bất chánh trước cảnh đẹp của muôn hoa, vì đặc tính của nó là: 

1- Trang điểm cho thiên nhiên và 

2 - Làm cho đời người thêm tươi thắm.

Hoa còn được dùng để cúng dường trước Từ dung của Chư Phật và Bồ tát vì cái đẹp của nó bên cạnh hương trầm và ánh sáng hoa đăng đã được xem là lễ vật cao quý nhất.

Các màu sắc của Hoa cũng diễn tả được ước nguyện tư tưởng của người dâng hoa đến Tam Bảo như sau:

  • Màu Trắng biểu hiện cho sự bình yên, mạnh khỏe, chống lại mọi sự nguy hiểm.
  • Màu Đỏ mang một ý nghĩa kính trọng. 
  • Màu Vàng thì làm tăng sự phong phú thịnh vượng.

Sau này khi học sâu hơn và được xem những bài luận giải của các Danh Tăng về kinh, nhất là khi học đến Hoa Sen trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa thì tôi mới hiểu được nghĩa thâm thúy của chữ Hoa.

Gần đây nhất, với lòng kính ngưỡng Đức Đệ Ngũ Tăng Thống Thích Quảng Độ, Thầy Thích Nguyên Tạng đã cho phổ biến bài thơ Ngắm Hoa cho các đệ tử chúng tôi và các bạn liên hữu gần xa tham khảo, thì tôi lại bàng hoàng và suy nghĩ mãi về hai câu thơ cuối của bài thơ đó là: 

Vòng luân hồi tùy nguyện vào ra

Mà ai biết chỉ ta với hoa tri kỷ.

Thì không biết duyên may gì sáng nay khi học đến Phẩm thứ 14 trong Kinh Kim Cang, trong phần luận giải của một Ân Sư ( quyển sách này được in từ 1983), thì tôi bỗng chốc ngộ ra điều mà Đức Tăng Thống muốn truyền trao cho chúng sinh hậu bối biết rằng Ngài đã đạt  được địa vị Bồ Tát, không cần biết ở địa nào nhưng chắc chắn Ngài đã tìm thấy ông chủ của mình. Đó là câu NHƯ LAI TỨC LÀ NGHĨA NHƯ CỦA VẠN PHÁP. 

Tuy biết mình chưa hội đủ GIÁO, CƠ, THỜI, QUỐC (có nghĩa là phải biết căn cơ của mình  ở đâu, biết việc nào nên làm, không nên làm, việc nên nói, việc không nên nói và nói với ai, ở đâu, lúc nào), nhưng tôi xin mạn phép được tóm tắt và ghi lại  phần luận giải về chữ Hoa liên quan đến chữ  Như của Vạn Pháp để phổ biến một điều mà từ bài thơ đã ngầm chỉ rõ "Đức Đệ Ngũ Tăng Thống, Đại lão Hòa thượng Thích Quảng Độ, qua bài thơ Ngắm Hoa đã ẩn hiện cho chúng ta sự đạt đến cứu cánh của người Tu Phật, đó là đã hòa nhập bản thể Nhất Như " . 

Kính xin  được ghi lại lời giải thích về đặc tánh của Hoa theo Luận sư trong sách ấy như sau: "Hoa có thêm đặc tánh nữa là bất biến trong thời gian và không gian ".

Trước  đây hàng vạn năm và sau này triệu triệu năm sau nữa đặc tánh ấy vẫn không thay  đổi Nhưng lúc nào loài hoa cũng tùy duyên, tùy hoàn cảnh, tùy môi trường khi thì sinh ra hoa Sen, khi thì sinh ra hoa Hồng, hoa Lan, hoa Huệ, khi nào phải phô bày màu trắng, màu cam, màu hồng ...vàng, đỏ tất cả màu sắc không thiếu màu nào mà thế  gian chưa ai có thể pha màu chính xác như thiên nhiên được. 

Ngàn năm trước dù trong không gian nào, đặc tánh bất biến mà tùy duyên của loài hoa, của vạn pháp như thế nào thì ngàn năm sau dù ở không gian nào đặc tánh cũng như thế. Đó là chữ NHƯ của vạn pháp. 

Chữ Như hàm ý bình đẳng, vô phân biệt, nhứt như, như thật và trong câu NHƯ LAi TỨC LÀ NGHĨA NHƯ CỦA VẠN PHÁP,  thì Như Lai là bậc đã chứng nhập Chơn Như, lúc nào cũng hiển thị hai chữ NHƯ THẬT trong tư tưởng, lời nói và hành động. Là bậc thể hiện được các đặc tánh của Chơn Như, đặc tánh bất biến mà tùy duyên, thường hằng mà năng sanh. 

Cũng như từ lâu Tôi cũng được học rằng: Các Đức Như Lai đều có cùng thọ  mạng vô lượng,  vô lượng công đức, đều nói pháp Nhất Thừa, các Ngài đều như một, không khác, vì các Ngài đã Phản Bổn Hoàn Nguyên, đã hòa nhập bản  thể nhất như ... 

Phản bổn hoàn nguyên là cứu cánh của người tu Phật, sau khi đã quán chiếu thấy được các tướng trạng của các pháp đều đồng một thể tánh, thấy được Tướng Tánh viên dung, nhứt như,  nghĩa là trong sai biệt thấy được bình đẳng, trong bình đẳng vẫn còn sai biệt. Và vì thế Phật mới bảo với Ngài Tu Bồ Đề rằng "Như Lai là nghĩa Như của vạn pháp " .

Thật là một  điều vui mừng của tôi khi đọc lại lời luận giải này và kính xin tri ân Thầy Thích Nguyên Tạng đã giúp tôi và các bạn đọc được nghe, họa bài thơ tuyệt diệu “Ngắm Hoa” của Đức Đệ Ngũ Tăng Thống, để có tâm trạng hoan hỷ và vui mừng khi được biết thêm rằng, dù ngay trong thời Mạt Pháp nếu ai cố gắng tu tập rốt ráo cũng sẽ được giải thoát, cũng sẽ có chứng đắc, "dù chứng đắc không phải là chứng đắc ... mà tạm gọi là chứng đắc vậy thôi". Kính mong được trình bày với ý nghĩ thô thiển của một người vừa được ân phước tìm hiểu về Đạo trong những năm tháng cuối đời ...

 

Nam Mô A Di Đà Phật.

Đệ tử Huệ Hương  

24/10/2018 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/01/2011(Xem: 3898)
Chúng ta sử dụng suy nghĩ như một công cụ, như hành vi để biết sự sinh khởi, bởi vì công năng của thiền quán thì ở trên và vượt qua tiến trình suy nghĩ; nó dẫn chúng ta tới chỗ không bị mê vọng bởi sự suy nghĩ.
04/01/2011(Xem: 8505)
Trí toàn giác không thể không nhân mà có, vì nếu là như vậy, bất cứ điều gì cũng có thể là toàn giác. Nếu sự việc sinh ra không tùy thuộc vào điều gì khác, như vậy mọi sự đều có thể hiện hữu không câu thúc, sẽ chẳng lý do gì lại không thể là toàn giác. Chính vì sự vật chỉ phát sinh tùy lúc, nên bắt buộc phải tùy thuộc nhân duyên. Trí toàn giác cũng vậy, rất hiếm hoi, không phải bất cứ lúc nào, chỗ nào, cũng có thể sinh ra. Cho nên trí toàn giác nhất định phải tùy thuộc nhân duyên.
31/12/2010(Xem: 11716)
Quyển TRUNGPHONG PHÁP NGỮ này được hình thành từ sự tuyển dịch một số bài pháp ngữ củaThiền Sư Trung Phong khai thị đồ chúng trong bộ Thiền Sư Tạp Lục, 3 quyển, introng Tục Tạng Kinh, tập số 122. Nội dung sách tấn người học lập chí lâubền, gan dạ liều chết hạ thủ công phu tham cứu thoại đầu cho đến khi khối nghibùng vỡ, hoàn toàn liễu thoát sanh tử.
26/12/2010(Xem: 12743)
“Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán”đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này hầu tránh tình trạng nhầm lẫn, võ đoán và phiến diện trong lý thuyết cũng như trong thể nghiệm con đường giác ngộ giải thoát. Rất nhiều sách trình bày nhầm lẫn giữa Định và Tuệ hay Chỉ và Quán, đưa đến tình trạng định không ra định, tuệ chẳng ra tuệ, hoặc hành thiền định hóa ra chỉ là những “ngoại thuật” (những hình thức tập trung tư tưởng hay ý chí có mục đích khác với định nhà Phật), và hành thiền tuệ lại có kết quả của định rồi tưởng lầm là đã chứng được các bậc tuệ quán.
07/12/2010(Xem: 12761)
Ngày hôm qua Steve tới thăm với chú bé Mickey 7 tuổi. Gớm, thằng bé lớn mau quá đi thôi và nghịch ghê. Nó nói giỏi cả tiếng Pháp lẫn tiếng Anh. Nó còn nói được tiếng lóng học ở ngoài đường nữa. Trẻ con bên này được nuôi dạy khác với lối nuôi dạy trẻ con bên mình. Cha mẹ chúng để chúng “tự do phát triển”. Suốt hai giờ ngồi nói chuyện, Steve phải để ý tới thằng bé. Nó chơi, nó nghịch, nó xan vào cả câu chuyệncủa người lớn. Nó làm cho người lớn không nói chuyện với nhau được. Tôi đưa cho nó mấy quyển sách hình của trẻ con, nhưng nó chỉ lật xem sơ sơ rồi lại bỏ sách, xen vào giữa tôi và ba nó. Nó đòi sự chú ý của thế giới người lớn.
30/11/2010(Xem: 4706)
Tứ thiền (catvāri dhyānāni) là bốn phương pháp thiền định dùng cho cả nội giáo và ngoại giáo cùng tu tập thực hành, nhằm đối trị các lậu hoặc, là nhân siêu việt mọi lưới hoặc nghiệp của dục giới, là quả sinh lên cõi sắc giới, là y địa căn bản nơi sinh ra các công đức, cũng có nghĩa là bốn loại thiền định căn bản sinh ra các thứ công đức; đó chính là Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền thuộc Sắc giới
06/11/2010(Xem: 4836)
Sức khỏe đựơc định nghĩa “ là một tình trạng hoàn toàn sảng khoái (well-being, bien-être) về thể chất, tâm thầnvà xã hội, chớ không phải chỉ là không có bệnh hay tật “ (WHO, Tổ chức sức khỏe thế giới, 1946) . Một định nghĩa như thế cho thấy cái gọi là “sức khỏe” của một con người không thể chỉ khu trú vào chuyện có hay không có bệnh, tật; cũng như không thể đánh giá sức khỏe của một cộng đồng mà chỉ dựa vào tỷ lệ giường bệnh, tỷ lệ bác sĩ…!
06/11/2010(Xem: 5039)
Có một sự nhất quán, xuyên suốt trong lời dạy hướng dẫn kỹ năng thiền định của Phật, từ Tứ niệm xứ (Satipatthàna) tới Thân hành niệm ( Kàyagatàsati), rồi Nhập tức xuất tức niệm (Ànàpànasati), đó là thở: Thở vào thì biết thở vào, thở ra thì biết thở ra. Thở vào dài thì biết thở vào dài, thở ra ngắn thì biết thở ra ngắn… Tóm lại, đó là luôn bắt đầu bằng sự quán sát hơi thở, đặt niệm (nhớ, nghĩ) vào hơi thở.
31/10/2010(Xem: 7318)
Lịch sử Thiền tông Trung Hoa sơ kỳ xuất hiện với hai tên tuổi tiêu biểu. Một vị đương nhiên là Bồ-đề Đạt-ma, người khai sáng Thiền tông Trung Hoa, và vị thứ hai là Lục Tổ Huệ Năng, người định hướng dòng mạch Thiền tông bắt nguồn từ Tổ Đạt-ma. Nếu không có Tổ Huệ Năng và môn đệ trong tông môn của Ngài thì Thiền tông không thể nào phát huy và hưng thịnh vào đầu đời Đường Trung Hoa. Pháp Bảo Đàn Kinh của Lục Tổ chiếm một vị thế tối quan trọng trong nhà Thiền, và những thăng trầm thuộc về duyên nghiệp mà bộ kinh đã khứng chịu có nhiều điều rất lý thú.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567