Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đức Đạt Lai Lạt Ma đàm luận với Hoàng Tử Panu của Thái Lan, 1960 - Ấn Độ

11/05/201200:16(Xem: 6631)
Đức Đạt Lai Lạt Ma đàm luận với Hoàng Tử Panu của Thái Lan, 1960 - Ấn Độ
Dalailama_1
ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA ĐÀM LUẬN
VỚI HOÀNG TỬ PANU CỦA THÁI LAN, 1960 - ẤN ĐỘ
Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển

Không có cuộc viếng thăm Ấn Độ nào hoàn toàn nếu khôngcó việc gặp gở vị hiền nhân trẻ tuổi phi thường này. Hoàng Tử Panu danh dự được có buổi đàm luậnvới vị Thánh Vương (God King)Tây Tạng. Ông mang tặng phẩm và họ đã trao đổi tấm khăn choàng truyền thống với tháiđộ tôn kính. Hoàng Tử Panu đã thỉnh cầuĐức Đạt Lai Lạt Ma mở lòng tuyên bố ... với thế giới.

ĐứcĐạt Lai Lạt Ma đã nói rằng, "Đôi khi tiến trình trong lãnh vực khoa họccho phép người ta khai thác thiên nhiên làm nên những lợi ích và hạnh phúc chonhân loại. Tuy nhiên, bất hạnh thay nhữngtiến bộ vĩ đại nhất của khoa học lại được sử dụng để phát triển vũ khí tànphá. Ngay cả tệ hại hơn là những kẻ mạnhmẽ hơn đã biểu lộ nhằm để thống trị đàn áp người yếu thế. Loài người vì thế phải sống liên tục trong sợhãi và khốn khổ. Nổi khổ đau này có thểtruy tầm đến lòng vị kỷ của con người, là điều làm cho người ta chỉ nghĩ trongdạng thức của chiến thắng cho người ấy và đánh bại người khác. Phương thức chửa trị duy nhất cho sai lầm nàylà việc khôi phục chí nguyện hướng về tôn giáo và làm mới sự thực tập hướng đếnchân lý tôn giáo. Đức Thế Tôn rất vui mừngkhi chúng ta tầm cầu sự quy y trong ba ngôi tôn quý, Đức Phật, giáo huấn củaNgài và đệ tử của Ngài, niềm tin và quán chiếu trong chuỗi nhân quả, nhận ra lỗilầm và đạt đến đạo đức. Tất cả chúng taphải nhận ra rằng tất cả chúng sinh là thân quyến với nhau và chúng ta phảihành động vì lợi ích của họ. Nếu loàingười chấp nhận ý tưởng này thì nền hòa bình thế giới không thể nào không hiệnhữu. Tất cả mọi người bất chấp chủng tộctạo nên hòa bình và hạnh phúc. Không aimuốn khốn khó và khổ đau. Con người cóthể vượt lên trên thế giới loài vật chỉ khi mà họ từ bỏ việc làm tổn thương kẻyếu, và chỉ khi người ta tôn trọng quyền của những người yếu đuối nhất. Duy chỉ chấp nhận và thực hành chân lý nàychúng ta mới có thể bảo tồn những thành tựu vĩ đại của loài người.

Tôi xin nhân cơ hội này để cảm ơn mọi người trênthế giới, Phật tử và không Phật tử, những người đã biểu lộ lòng cảm thông vàgiúp đở đồng bào tôi và cá nhân tôi vào lúc đau buồn và thảm kịch này. Tôi không muốn nói bất cứ điều gì gợi lại ký ứcthương đau trong cảm nhận của tôi, nhưng hầu hết quý vị đã biết những gì đã xảyra và đang xảy ra ở Tây Tạng. Sự cảmthông của quý vị đã ban cho đồng bào Tây Tạng và chính tôi sự an ủi, khích lệvà hy vọng trong những ngày đau thương này của chúng tôi."

dalailama-panu2Hoàng Tử Panu sau đấy đã đề cập rằng, Đức ĐạtLai Lạt Ma đã được xem như một vị Phật Sống hay một vị Thánh Vương, và ông thỉnhcầu vị hiền nhân trẻ tuổi hãy hy vọng trong thảm kịch này.

ĐứcĐạt Lai Lạt Ma đã nói rằng, "Có gì đáng chú ý, tôi chỉ là một môn đệ của ĐứcThế Tôn."

Cùnglúc Hoàng Tử Panu đã hỏi, có phải Đức ĐạtLai Lạt Ma đã đở đầu cho một sự đối kháng với việc xâm lược của Trung Cộng đơngiản nhằm để tái lập quyền lực và sự giàu sang.

ĐứcĐạt Lai Lạt Ma nói rằng, "Điều gì sẽ xảy ra nếu tôi chỉ khao khát quyền lựcvà giàu sang mà tôi có thể đạt được thật sự bằng việc từ bỏ quyền lợi của những người chống lai sự xâm lược của Trung Cộng. Từ lúc thiếu thời tôi đã chỉ được dạy về sựcao thượng ...(!), tất cả hàng Phật tử phải biết rằng hàng Tăng Già, hàng tu sĩxa lánh những đam mê khoái lạc trần tục và phải từ bỏ những tài sản vật chất.

Quyềnlực và phú quý với tôi? Tôi không phảitrở thành Đạt Lai Lạt Ma để sử dụng sức mạnh và quyền lực tại sao tôi phải cố gắngđể có chúng. Tôi muốn và tôi chỉ sở hữugiáo huấn của Đức Thế Tôn. Như một lãnhtụ và là một môn đệ của Đức Phật, lợi ích của đồng bào tôi và đất nước tôi làtrách nhiệm của tôi. Lời buộc tội rằngtôi mong ước quyền lực và giàu sang là một lời nói xấu xa của những kẻ thù nghịchtôi là những người Trung Cộng. Những kẻthù nghịch của tôi đã trở nên độc ác thật sự, họ đã tàn phá nhà cửa của chúngtôi, đã chỉa súng đạn vào chúng tôi. Đồngbào chúng tôi phải sống trong sự thiếu thốn và khổ đau."

HoàngTử Panu hỏi tiếp theo là, Đức Đạt Lai Lạt Ma tiên liệu gì cho tương lai?

ĐứcĐạt Lai Lạt Ma trả lời rằng, "Như một lãnh tụ tôn giáo của Tây Tạng, tôihy vọng đồng bào tôi sẽ chiếm được lòng cảm thông và hổ trợ của tất cả nhữngngười trên thế giới tôn trọng nhân quyền và tự do của con người. Xin hãy quan tâm rằng chỉ có chín triệu ngườiTây Tạng, chắc chắn được biết đến rõ nhất, đấy chỉ là một con số ít ỏi so vớidân số của Trung Hoa, Ấn Độ hay Hoa Kỳ. Mặc dù con số là ít ỏi, mặc dù chúng tôi chỉcó vài triệu người, nhưng người ta hay bất cứ quốc gia nào có quyền gì phủ nhậnnhững quyền con người căn bản của chúng tôi. Tôi không thể..., chúng tôi có quyền tự do và những quyền lợi của chúngtôi đơn giản là sự tồn tại của chúng tôi. Trong hoàn cảnh hiện tại, tôi chỉ có sự hy vọng của tôi, đấy là một sựhy vọng nhỏ nhoi, nhưng là điều không thể hủy diệt được. Tôi hy vọng rằng chúng tôi có thể bền bỉ chốnglại sự áp bức cho đến khi công lý được thực thi."

Cuối cùng HoàngTử Panu gợi ý rằng người dân những nước nhỏ phải có sự nhẫn nại và chịu đựng.

ĐứcĐạt Lai Lạt Ma trong lời đáp lại là, "Vâng tôi đồng ý, chúng tôi là những người dân của một nước nhỏ trong nhiều năm cho đến khi sự kiện này xảyra, chúng tôi đã chịu đựng một cách không nhẫn nại, nhưng có một sự giới hạncho đạo đức này, khi sức ép trở nên to lớn hơn sức chịu đựng của con người, ngườita phải phản kháng lại. Không phải tất cảmọi người đều đạt đến niết bàn, người ta cũng không đạt đến tình trạng mà ngườita có thể loại bỏ những cảm xúc của con người."

Cuốicùng Đức Đạt Lai Lạt Ma ...ngài nói rằng ngài nhân cơ hội này để cảm ơn mọi ngườitrên thế giới không phải Phật tử cũng như những Phật tử những người đã giúp đởvà bày tỏ sự cảm thông đến đồng bào cùa tôi và đồng bào tôi vào lúc này, thờiđiểm đau thương và tuyệt vọng, sự cảm thông của ông đã cho chúng tôi sự an ủi,khích lệ và hy vọng lớn lao trong những ngày tháng đen tối của đau thương này củachúng tôi.

Nguyêntác: 1960 Interview with HH the Dalai Lama in India by Prince Panu of Thailand

ẨnTâm Lộ ngày 4-5-2012

http://www.youtube.com/watch?v=vDo9EhGrnOE&feature=g-vrec

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/01/2011(Xem: 3837)
Chúng ta sử dụng suy nghĩ như một công cụ, như hành vi để biết sự sinh khởi, bởi vì công năng của thiền quán thì ở trên và vượt qua tiến trình suy nghĩ; nó dẫn chúng ta tới chỗ không bị mê vọng bởi sự suy nghĩ.
04/01/2011(Xem: 8434)
Trí toàn giác không thể không nhân mà có, vì nếu là như vậy, bất cứ điều gì cũng có thể là toàn giác. Nếu sự việc sinh ra không tùy thuộc vào điều gì khác, như vậy mọi sự đều có thể hiện hữu không câu thúc, sẽ chẳng lý do gì lại không thể là toàn giác. Chính vì sự vật chỉ phát sinh tùy lúc, nên bắt buộc phải tùy thuộc nhân duyên. Trí toàn giác cũng vậy, rất hiếm hoi, không phải bất cứ lúc nào, chỗ nào, cũng có thể sinh ra. Cho nên trí toàn giác nhất định phải tùy thuộc nhân duyên.
31/12/2010(Xem: 11644)
Quyển TRUNGPHONG PHÁP NGỮ này được hình thành từ sự tuyển dịch một số bài pháp ngữ củaThiền Sư Trung Phong khai thị đồ chúng trong bộ Thiền Sư Tạp Lục, 3 quyển, introng Tục Tạng Kinh, tập số 122. Nội dung sách tấn người học lập chí lâubền, gan dạ liều chết hạ thủ công phu tham cứu thoại đầu cho đến khi khối nghibùng vỡ, hoàn toàn liễu thoát sanh tử.
26/12/2010(Xem: 12691)
“Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán”đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này hầu tránh tình trạng nhầm lẫn, võ đoán và phiến diện trong lý thuyết cũng như trong thể nghiệm con đường giác ngộ giải thoát. Rất nhiều sách trình bày nhầm lẫn giữa Định và Tuệ hay Chỉ và Quán, đưa đến tình trạng định không ra định, tuệ chẳng ra tuệ, hoặc hành thiền định hóa ra chỉ là những “ngoại thuật” (những hình thức tập trung tư tưởng hay ý chí có mục đích khác với định nhà Phật), và hành thiền tuệ lại có kết quả của định rồi tưởng lầm là đã chứng được các bậc tuệ quán.
07/12/2010(Xem: 12695)
Ngày hôm qua Steve tới thăm với chú bé Mickey 7 tuổi. Gớm, thằng bé lớn mau quá đi thôi và nghịch ghê. Nó nói giỏi cả tiếng Pháp lẫn tiếng Anh. Nó còn nói được tiếng lóng học ở ngoài đường nữa. Trẻ con bên này được nuôi dạy khác với lối nuôi dạy trẻ con bên mình. Cha mẹ chúng để chúng “tự do phát triển”. Suốt hai giờ ngồi nói chuyện, Steve phải để ý tới thằng bé. Nó chơi, nó nghịch, nó xan vào cả câu chuyệncủa người lớn. Nó làm cho người lớn không nói chuyện với nhau được. Tôi đưa cho nó mấy quyển sách hình của trẻ con, nhưng nó chỉ lật xem sơ sơ rồi lại bỏ sách, xen vào giữa tôi và ba nó. Nó đòi sự chú ý của thế giới người lớn.
30/11/2010(Xem: 4683)
Tứ thiền (catvāri dhyānāni) là bốn phương pháp thiền định dùng cho cả nội giáo và ngoại giáo cùng tu tập thực hành, nhằm đối trị các lậu hoặc, là nhân siêu việt mọi lưới hoặc nghiệp của dục giới, là quả sinh lên cõi sắc giới, là y địa căn bản nơi sinh ra các công đức, cũng có nghĩa là bốn loại thiền định căn bản sinh ra các thứ công đức; đó chính là Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền thuộc Sắc giới
06/11/2010(Xem: 4813)
Sức khỏe đựơc định nghĩa “ là một tình trạng hoàn toàn sảng khoái (well-being, bien-être) về thể chất, tâm thầnvà xã hội, chớ không phải chỉ là không có bệnh hay tật “ (WHO, Tổ chức sức khỏe thế giới, 1946) . Một định nghĩa như thế cho thấy cái gọi là “sức khỏe” của một con người không thể chỉ khu trú vào chuyện có hay không có bệnh, tật; cũng như không thể đánh giá sức khỏe của một cộng đồng mà chỉ dựa vào tỷ lệ giường bệnh, tỷ lệ bác sĩ…!
06/11/2010(Xem: 5001)
Có một sự nhất quán, xuyên suốt trong lời dạy hướng dẫn kỹ năng thiền định của Phật, từ Tứ niệm xứ (Satipatthàna) tới Thân hành niệm ( Kàyagatàsati), rồi Nhập tức xuất tức niệm (Ànàpànasati), đó là thở: Thở vào thì biết thở vào, thở ra thì biết thở ra. Thở vào dài thì biết thở vào dài, thở ra ngắn thì biết thở ra ngắn… Tóm lại, đó là luôn bắt đầu bằng sự quán sát hơi thở, đặt niệm (nhớ, nghĩ) vào hơi thở.
31/10/2010(Xem: 7253)
Lịch sử Thiền tông Trung Hoa sơ kỳ xuất hiện với hai tên tuổi tiêu biểu. Một vị đương nhiên là Bồ-đề Đạt-ma, người khai sáng Thiền tông Trung Hoa, và vị thứ hai là Lục Tổ Huệ Năng, người định hướng dòng mạch Thiền tông bắt nguồn từ Tổ Đạt-ma. Nếu không có Tổ Huệ Năng và môn đệ trong tông môn của Ngài thì Thiền tông không thể nào phát huy và hưng thịnh vào đầu đời Đường Trung Hoa. Pháp Bảo Đàn Kinh của Lục Tổ chiếm một vị thế tối quan trọng trong nhà Thiền, và những thăng trầm thuộc về duyên nghiệp mà bộ kinh đã khứng chịu có nhiều điều rất lý thú.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567