Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thấy Rõ Khổ Để Bớt Khổ

11/08/201101:15(Xem: 3467)
Thấy Rõ Khổ Để Bớt Khổ
dau-kho
THẤY RÕ KHỔ ĐỂ BỚT KHỔ

Viên Ngộ


Sống ở đời, chúng ta ai cũng có những nỗi khổ niềm đau, dù ít hay nhiều. Bởi thân thể ta đau nhức là khổ, giận hờn là khổ, tiếc thương cũng khổ… Có rất nhiều yếu tố làm cho ta khổ, nhưng chung quy mọi khổ đau đều xuất phát từ chính mình.

Khổ là một sự thật hiển nhiên. Không ai có thể phủ nhận lẽ thật ấy (Khổ đế). Bất cứ ở nơi nào trên thế giới này, cho dù ở đó ta có nhiều tiền bạc, bằng cấp, địa vị hay uy quyền thì vẫn bị phiền não, khổ đau chi phối. Bởi khi ta chưa nhận diện và chuyển hóa được những hạt giống giận hờn, tham lam, buồn tủi, lo lắng, sợ hãi, ghen tị, trách móc… ở trong mảnh đất tâm của mình, thì sẽ bị sợi dây phiền não trói buộc và sai sử.

Tuy nhiên, hạnh phúc hay sự vắng mặt khổ đau cũng là một sự thật (Diệt đế); nếu như ta thấy rõ ràng những diễn biến xảy ra ở thân tâm mình cùng hoàn cảnh hiện tại trong trạng thái sáng suốt, khách quan và trung thực, thì khổ đau sẽ không có cơ hội để biểu hiện. Vì vậy, trong kinh Tứ Niệm Xứ, Đức Thế Tôn dạy rằng:

“…Này các Tỷ-kheo, ở đây Tỷ-kheo sống quán thân trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời; sống quán thọ trên các thọ, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời; sống quán tâm trên tâm, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời; sống quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời…”(Kinh Trung Bộ I).

Nhiệt tâm hay tinh cần ở đây, không phải là sự cố gắng, nỗ lực của cái ta tham vọng mà chỉ cần không giải đãi hoặc không hời hợt trong việc chú tâm quán sát những đối tượng đang là. Chánh niệm là ta không bỏ quên thực tại hay bị dao động theo trần cảnh, mà luôn trực diện với thân tâm chính mình. Tỉnh giác là cái thấy biết trong sáng, khách quan, trung thực không bị che mờ bởi sự điều động của ý thức hay quan điểm, tư tưởng chủ quan.

Vậy thì, “nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, để chế ngự tham ưu ở đời” có nghĩa là chỉ cần thấy rõ ràng những diễn biến đang xảy ra ở thân tâm mình cũng như hoàn cảnh hiện tại, và ta có mặt trọn vẹn với chính nó. Hiện cảnh ấy như thế nào, thì mình nhận biết y như thế đó, chứ đừng thêu dệt hay thêm bớt gì nữa cả, thì ta sẽ không bị tham, sân, si trói buộc.

Thực ra, khổ chỉ xuất phát khi tâm ta vướng mắc vào đối tượng, hay là có ý niệm muốn loại trừ đối tượng đó. Còn ngược lại, khi ta tiếp xúc với mọi hoàn cảnh, nhưng chỉ ghi nhận đơn thuần thôi, mà không khởi tâm muốn chiếm hữu hay là loại trừ, thì khổ đau sẽ không có cơ sở để sinh khởi. Căn bệnh lớn nhất của chúng ta là muốn chiếm hữu những gì mà mình cho là tốt đẹp, và chạy trốn hoặc chống đối lại những gì mà mình không thích. Đây là nguyên nhân tạo ra phiền não, khổ đau. Bởi ta cố mong cầu để được một cái gì đó, thì rơi vào tâm tham. Khi mình ao ước và mong muốn được cái đó, nhưng giấc mơ ấy không thành tựu, thì khổ đau sẽ có mặt (cầu bất đắc khổ). Còn khi ta cố gắng để loại trừ những gì đang có mặt trong hiện tại, mà mình cảm thấy khó chịu, thì đó chính là tâm sân. Và nếu, ta muốn loại trừ chúng nhưng không được, thì cũng khổ (oán tắng hội khổ). Như vậy, trong cuộc sống hàng ngày, khi nào ta rơi vào hai trạng huống này thì sẽ bị trở ngại và bất an.

Thế nên, sở dĩ ta bị khổ đau giam hãm, trói buộc là do không thấy rõ được sự sinh khởi của nó. Thực ra, khi trong tâm mình khởi lên một ý niệm buồn chán, thì ta chỉ cần thấy rõ và gọi đúng tên nó thôi là đủ. Chào bạn Buồn, dạo này bạn có khỏe không? Mời bạn ngồi xuống uống trà với tôi. Hoặc khi trong tâm khởi lên ý niệm giận hờn ai đó, thì mình cũng thấy rõ và gọi đúng tên nó. Chào bạn Giận, bạn tới tìm tôi đó hả? Nếu mình tiếp đón lịch sự với khổ rồi, thì không có gì phải lo ngại cả. Khi ta sống hòa bình, thân thiết và đối xử tốt đẹp với khổ, thì có gì xa lạ nữa đâu mà sợ hãi hay chạy trốn. Giống như trong thời chiến tranh, người lính đêm ngày leo đồi, lội suối, băng rừng gian nan vất vả. Ăn cơm nguội, uống nước sông, ngủ giữa rừng cây, chịu mưa gió lạnh buốt và họ không biết là mình sẽ chết lúc nào vì đạn bom loạn lạc. Sau khi hết chiến tranh, người lính ấy được trở về sống yên bình với làng quê, thì cho dù đời sống kinh tế của họ gặp khó khăn bao nhiêu chăng nữa, cũng không ăn nhằm gì so với lúc còn ở ngoài chiến trường, bởi người ấy đã từng sống chung với khổ và học được rất nhiều kinh nghiệm từ đau khổ. Do vậy, nhiều khi khổ không hẳn là thứ xấu xa cần phải loại trừ, mà nó là bậc thầy chỉ dạy cho mình thấy ra được giá trị của hạnh phúc. Cũng giống như bông hoa sen kia, sở dĩ nó được thơm ngát tươi đẹp như thế, là nhờ từ trong bùn lầy tanh hôi mà có.

Thực ra, kháng cự hay phản ứng lại đối tượng, là do bản ngã của ta xen vào. Còn các pháp, thì nó luôn vận hành đúng theo tiến trình nhân quả của nó. Sở dĩ có việc gì đó xảy ra, là do nhiều nguyên nhân đã được kết tạo từ trong quá khứ, và bây giờ nó hình thành. Ví như, khi ta tiếp xúc với một người, và không biết lý do nào đó mà họ vu oan, la mắng ta. Thông thường, thì ta sẽ phản ứng trở lại để biện minh sự thật, hoặc là ta sẽ chửi họ một trận cho hả lòng, vì cái tội vu oan. Thế nhưng, hành động đó không hóa giải và đem lại sự hài hòa cho cả hai phía, mà đôi lúc oán thù càng chồng chất lên thêm. Trong trường hợp này, ta chỉ cần bình thản và nhận diện rõ ràng những cảm thọ sinh khởi ở thân tâm mình là đủ rồi. Khi tâm ý được lắng dịu, thì ta sẽ thấy ra mọi gốc rễ của vấn đề.

Trước hết, họ nói những lời sai với sự thật và không được dễ thương, tức là con người ấy đang đau khổ. Còn, người mà có an vui hạnh phúc thì họ không bao giờ nói ra những lời lẽ tiêu cực để gây đau khổ cho ai. Thứ đến, người không biết sử dụng lời nói dễ thương là người thiếu hiểu biết. Do tâm trí không được sáng suốt, nên họ hành xử theo lối mòn phản kháng của bản ngã. Phần còn lại là do sự yếu kém ở nơi mình. Bởi có nhiều khi, họ nói với ta một vài câu không được dễ thương, và chỉ xảy ra trong vòng năm phút thôi, nhưng mình ôm ấp cái giận hờn đó suốt cả ngày, để rồi ta ăn không ngon, ngủ cũng không được yên. Ta thật là dại khờ, luôn bị hoàn cảnh bên ngoài đánh lừa và sai sử. Và hạnh phúc của ta, gần như nó tùy thuộc vào từng hoàn cảnh; nếu như gặp sự việc diễn ra tốt đẹp, dễ thương thì ta an vui hạnh phúc, ngược lại là khổ đau.

Chúng ta thấy rằng, tất cả những vui buồn, thương nhớ, giận hờn, thông minh, đạo đức…là của mọi người, không dành riêng hay ưu tiên cho bất cứ một ai. Thế thì, tại sao khi người ta giận, mình lại không đồng ý? Mình muốn người kia chỉ đối xử tốt đẹp, dễ thương với mình thôi, thì đâu có được. Bởi nhiều khi mình cũng sử dụng giận hờn, khó chịu để tiếp xử với họ cơ mà! Thực ra, trong tâm mỗi con người có đầy đủ, những ý niệm tiêu cực và tích cực. Nhưng, với người có tâm hồn bình thản và sáng suốt thì biết vận dụng được cái hay, cái đẹp để tiếp xử với nhau. Còn, người sống trong mê mờ quên lãng, thì tùy thuộc vào hoàn cảnh mà có vui hay buồn.

Cho nên, khi nào tâm ta bình thản và thấy rõ được khuôn mặt của khổ, thì lúc đó ta bớt hoặc hết khổ. Còn ngược lại, ta sống trong ảo tưởng, mê mờ, thì khi ấy khổ đau sẽ trói buộc. Do vậy, ta phải thường trực nhận diện những gì đang xảy ra trong thân tâm mình và hoàn cảnh hiện tại một cách rõ ràng, khách quan và trung thực với chính nó. Ta đừng khởi tâm áp đặt và bóp méo hiện thực ấy theo quan điểm của mình, mà chỉ lặng lẽ quan sát sự sinh diệt, thay đổi của các pháp thôi, thì sự bình yên và hạnh phúc chân thực sẽ được biểu hiện. 

Viên Ngộ

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/01/2011(Xem: 3839)
Chúng ta sử dụng suy nghĩ như một công cụ, như hành vi để biết sự sinh khởi, bởi vì công năng của thiền quán thì ở trên và vượt qua tiến trình suy nghĩ; nó dẫn chúng ta tới chỗ không bị mê vọng bởi sự suy nghĩ.
04/01/2011(Xem: 8450)
Trí toàn giác không thể không nhân mà có, vì nếu là như vậy, bất cứ điều gì cũng có thể là toàn giác. Nếu sự việc sinh ra không tùy thuộc vào điều gì khác, như vậy mọi sự đều có thể hiện hữu không câu thúc, sẽ chẳng lý do gì lại không thể là toàn giác. Chính vì sự vật chỉ phát sinh tùy lúc, nên bắt buộc phải tùy thuộc nhân duyên. Trí toàn giác cũng vậy, rất hiếm hoi, không phải bất cứ lúc nào, chỗ nào, cũng có thể sinh ra. Cho nên trí toàn giác nhất định phải tùy thuộc nhân duyên.
31/12/2010(Xem: 11665)
Quyển TRUNGPHONG PHÁP NGỮ này được hình thành từ sự tuyển dịch một số bài pháp ngữ củaThiền Sư Trung Phong khai thị đồ chúng trong bộ Thiền Sư Tạp Lục, 3 quyển, introng Tục Tạng Kinh, tập số 122. Nội dung sách tấn người học lập chí lâubền, gan dạ liều chết hạ thủ công phu tham cứu thoại đầu cho đến khi khối nghibùng vỡ, hoàn toàn liễu thoát sanh tử.
26/12/2010(Xem: 12704)
“Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán”đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này hầu tránh tình trạng nhầm lẫn, võ đoán và phiến diện trong lý thuyết cũng như trong thể nghiệm con đường giác ngộ giải thoát. Rất nhiều sách trình bày nhầm lẫn giữa Định và Tuệ hay Chỉ và Quán, đưa đến tình trạng định không ra định, tuệ chẳng ra tuệ, hoặc hành thiền định hóa ra chỉ là những “ngoại thuật” (những hình thức tập trung tư tưởng hay ý chí có mục đích khác với định nhà Phật), và hành thiền tuệ lại có kết quả của định rồi tưởng lầm là đã chứng được các bậc tuệ quán.
07/12/2010(Xem: 12706)
Ngày hôm qua Steve tới thăm với chú bé Mickey 7 tuổi. Gớm, thằng bé lớn mau quá đi thôi và nghịch ghê. Nó nói giỏi cả tiếng Pháp lẫn tiếng Anh. Nó còn nói được tiếng lóng học ở ngoài đường nữa. Trẻ con bên này được nuôi dạy khác với lối nuôi dạy trẻ con bên mình. Cha mẹ chúng để chúng “tự do phát triển”. Suốt hai giờ ngồi nói chuyện, Steve phải để ý tới thằng bé. Nó chơi, nó nghịch, nó xan vào cả câu chuyệncủa người lớn. Nó làm cho người lớn không nói chuyện với nhau được. Tôi đưa cho nó mấy quyển sách hình của trẻ con, nhưng nó chỉ lật xem sơ sơ rồi lại bỏ sách, xen vào giữa tôi và ba nó. Nó đòi sự chú ý của thế giới người lớn.
30/11/2010(Xem: 4691)
Tứ thiền (catvāri dhyānāni) là bốn phương pháp thiền định dùng cho cả nội giáo và ngoại giáo cùng tu tập thực hành, nhằm đối trị các lậu hoặc, là nhân siêu việt mọi lưới hoặc nghiệp của dục giới, là quả sinh lên cõi sắc giới, là y địa căn bản nơi sinh ra các công đức, cũng có nghĩa là bốn loại thiền định căn bản sinh ra các thứ công đức; đó chính là Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền thuộc Sắc giới
06/11/2010(Xem: 4818)
Sức khỏe đựơc định nghĩa “ là một tình trạng hoàn toàn sảng khoái (well-being, bien-être) về thể chất, tâm thầnvà xã hội, chớ không phải chỉ là không có bệnh hay tật “ (WHO, Tổ chức sức khỏe thế giới, 1946) . Một định nghĩa như thế cho thấy cái gọi là “sức khỏe” của một con người không thể chỉ khu trú vào chuyện có hay không có bệnh, tật; cũng như không thể đánh giá sức khỏe của một cộng đồng mà chỉ dựa vào tỷ lệ giường bệnh, tỷ lệ bác sĩ…!
06/11/2010(Xem: 5015)
Có một sự nhất quán, xuyên suốt trong lời dạy hướng dẫn kỹ năng thiền định của Phật, từ Tứ niệm xứ (Satipatthàna) tới Thân hành niệm ( Kàyagatàsati), rồi Nhập tức xuất tức niệm (Ànàpànasati), đó là thở: Thở vào thì biết thở vào, thở ra thì biết thở ra. Thở vào dài thì biết thở vào dài, thở ra ngắn thì biết thở ra ngắn… Tóm lại, đó là luôn bắt đầu bằng sự quán sát hơi thở, đặt niệm (nhớ, nghĩ) vào hơi thở.
31/10/2010(Xem: 7269)
Lịch sử Thiền tông Trung Hoa sơ kỳ xuất hiện với hai tên tuổi tiêu biểu. Một vị đương nhiên là Bồ-đề Đạt-ma, người khai sáng Thiền tông Trung Hoa, và vị thứ hai là Lục Tổ Huệ Năng, người định hướng dòng mạch Thiền tông bắt nguồn từ Tổ Đạt-ma. Nếu không có Tổ Huệ Năng và môn đệ trong tông môn của Ngài thì Thiền tông không thể nào phát huy và hưng thịnh vào đầu đời Đường Trung Hoa. Pháp Bảo Đàn Kinh của Lục Tổ chiếm một vị thế tối quan trọng trong nhà Thiền, và những thăng trầm thuộc về duyên nghiệp mà bộ kinh đã khứng chịu có nhiều điều rất lý thú.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567