Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hoạt dụng của Thiền Định

01/10/201819:22(Xem: 5096)
Hoạt dụng của Thiền Định

 phatthanhdao


HOẠT DỤNG CỦA THIỀN ĐỊNH

 

Ngày nay chủ đề Thiền không còn xa lạ đối với những ai muốn tìm hiểu và muốn định nghĩa một cách minh bạch, nhưng mấy ai hiểu và cảm nhận một cách chính xác và minh bạch về những hoạt dụng của Thiền.Tùy mỗi trường phái, mỗi góc độ để nhìn và hiểu về Thiền khác nhau, từ đó, việc hành hoạt cũng khác biệt.

 

Theo Tổ sư thiền, thoại đầu hay công án là phương tiện diệu dụng nhưng khó nuốt, đòi hỏi căn cơ bén nhạy, nhưng Như Lai thiền lại dễ hành trì, không đòi hỏi trực giác để kiến tánh như Tổ sư thiền, y cứ vào giáo pháp Như Lai mà tuần tự hành trì.Các phương pháp hành thiền này đều dựa vào kinh, luật và luận như thiền Quán niệm hơi thở, thiền Tứ niệm xứ, Thiền Sổ tức v.v.. Loại thiền này được gọi là Như Lai Thiền. Còn Tổ Sư Thiền thì ngược lại không có thứ bậc, là pháp trực tiếp chỉ thẳng vào bản thể chân tâm Phật tánh. Tổ sư thiền đòi hỏi dụng công  miên mật, không an trú vào đề mục như Như Lai thiền, luôn đặt tâm thức vào tình trạng căng thẳng của nghi tình,trong trạng thái hưng phấn; nghi đây không phải nghi ngờ mà là nghi vấn (thắc mắc), một nghi vấn không tìm lời giải đáp. Điều này hơi khó hiểu đối với một số vị chưa quen với pháp hành.

 

Ngày nay, trường phái thiền Vipassana đang hưng thịnh. Vipassana không phải trường phái thiền mới được sáng tạo như Tổ sư thiền trước kia, nó có từ thời đứcPhật. Vipassana là một trong những phương pháp thiền định cổ xưa nhất của Ấn Độ. Nó được Đức phật khôi phục lại cách đây trên 2500 năm, đó là phương pháp cốt lõi mà Đức phật đã tu tập và giảng dạy.Được truyền thừa đến ngày nay, nhiều Thiền đường nổi tiếng phát xuất từ Miến Điện Và Thái Lan; từ đó phát triển khắp nơi,đồng thời quay trở lại nơi “chôn nhau cắt rốn” tại Ấn để gieo hạt phục hoạt.

Pháp Quán Niệm Hơi Thở Theo Bài Kinh Tứ Niệm Xứ xuất phát từ bộ kinh An Ban Thủ Ý do ngài An Thế Cao dịch. Trong nội dung lời chú giải có mười sáu đề mục quán niệm hơi thở.

Khác với những đề mục quán tưởng khác, quán niệm hơi thở bao gồm cảhai phương pháp Chỉ và Quán hay Minh sát Vipassana).

Quán Niệm Hơi Thở có mười sáu giai đoạn, chia ra làm bốn phần, mỗi phần có bốn cách tập. Chủyếu là tạo ý thức tỉnh giác , căn bản của tuệ giác, và bốn giai đoạn quán niệm là bốn lãnh vực tỉnh thức về thân, thọ, tâm, pháp. Nó cũng không giống với các phương pháp thiền định khác do chính Phật truyền dạy như 10 đề mục quán bất tịnh, bất tịnh nơi thân thể v.v…

 Về sau, khi Phật giáo lưu truyền sang các quốc gia hướng Bắc, để thích nghi với căn cơ và thổ nhưỡng đương thời, chư Tổ đã phương tiện chế tác ra pháp hành theo chủ trương của đức Bồ Đề Đạt Ma “Giáo ngoại biệt truyền, bất lập văn tự, trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật”. Khán thoại đầu hay thiền công án, nếu sở đắc, cũng chỉ hạn chế đối với một đương cơ nhất định, khác với trường phái thiền Nguyên thủy như Vipassana, mang tính phổ biến cơ bản, một lớp thiền 10 ngày đầu, những thiền sinh tham gia, ít nhiều cảm nhận được sự huyền nhiệm của  tâm thức, có một thay đổi nhất định trong tâm thức và đời sống thường nhật, làm căn bản cho những khóa thiền với thời gian dài hơn, tiếp theo.Đã có những thiền sinh sở đắc phần nào tuệ giác theo cách quán sát 16 giai đoạn trên “thân thọ tâm pháp”. Tuy nhiên, năm chướng ngại căn bản của tâm thức, không những cản trở bước tiến, đôi khi lạc dẫn thiền sinh vào ảo giác khi mà hành giả không phân biệt được thế nào là ảo giác, thế nào là tuệ giác khởi hiện.

 

Đức Phật giảng dạy tóm tắt việc chế ngự năm triền cái ấy như sau:

“… Vị Tỳ-khưu lựa một chỗ thanh vắng, tịch mịch, như rừng, gốc cây, khe núi, hang đá, bãi tha ma, lùm cây, ngoài trời, đống rơm. Sau khi đi khất thực về và ăn xong, vị ấy ngồi kiết-già, lưng thẳng tại chỗ nói trên và an trú chánh niệm trước mặt. Vị ấy từ bỏ tham ái ở đời, sống với tâm thoát ly tham ái, gột rửa tâm hết tham ái. Từ bỏ sân hận, vị ấy sống với tâm không sân hận, lòng từ mẫn thương xót tất cả chúng hữu tình, gột rửa tâm hết sân hận. Từ bỏ hôn trầm thụy miên, vị ấy sống thoát ly hôn trầm thụy miên, với tâm tưởng hướng về ánh sáng, chánh niệm tỉnh giác, gột rửa tâm hết hôn trầm thụy miên. Từ bỏ trạo cử hối tiếc, vị ấy sống không trạo cử, nội tâm trầm lặng, gột rửa tâm hết trạo cử hối tiếc. Từ bỏ nghi ngờ, vị ấy sống thoát khỏi nghi ngờ, không phân vân lưỡng lự, gột rửa tâm hết nghi ngờ đối với các thiện pháp…”

Ở đây, năm chướng ngại ấy trong  tiến trình tu tập hành thiền của hành giả là:

1. THAM DỤC 

2. SÂN HẬN 

3. HÔN TRẦM

4. TRẠO CỬ

5. HOÀI NGHI

                                                                    ***

Qua những trãi nghiệm của các hành giả khi thực thụ bước vào lãnh vực “chánh định”, giữa cận định và chánh định, thường xuất hiện những hiện tượng như là ảo giác, ảo ảnh, xuất  hiện ánh sáng rực rỡ, tâm thái an lạc, hoan hỷ, tình thương tràn đầy, hay âm thanh vi diệu…

Đó là những chủng tử có sẵn trong a lại ya thức, tâm nhiễm ô thì chúng lặn, tâm thanh tịnh  chúng xuất hiện. Khi chúng xuất hiện ở ngưỡng cửa chánh định mà khởi tâm đắm trước, trở thành một chướng ngại lớn cho việc tiến tu, việc hành trì sẽ bị dẫm chân tại chỗ.

 

Căn cơ chúng sanh không đồng thì cũng không thể áp dụng duy nhất một pháp hành, cũng như nhiều căn bệnh, hay một loại bệnh có nhiều nguyên nhân, đòi hỏi liệu trình chửa trị phải khác nhau. Câu chuyện sau đây sẽ minh chứng cho điều đó:

 

“Đệ tử trẻ của Tôn giả Xá lợi phất: "Hãy thay bến nước khác" (Bổn sanh Tittha, Jàt. 182).

Chuyện kể rằng theo lời dạy của Tôn giả, một người đệ tử trẻ đã thực hành quán tưởng bất tịnh trong bốn tháng nhưng vẫn không có tiến bộ trong việc phát triển Thiền quán. Tôn giả quán biết người đệ tử có duyên được Phật độ, đã đưa người đệ tử đến yết kiến Thế Tôn và trình lên Thế Tôn sự việc.

Thế Tôn biết tâm hướng của người đệ tử trẻ ấy thích hợp với đối tượng quán tịnh hơn,

do vì nhiều kiếp trước sinh vào gia đình thợ vàng chuyên thấy vành thanh tịnh. Thế Tôn bèn cho người đệ tử trẻ ấy, mặc y phục trong và ngoài tốt đẹp, dẫn đi khất thực các thức ăn thượng vị, cho nghỉ trưa ở hương phòng, rồi cho đi ngắm một hồ sen tuyệt đẹp (hồ sen do thần lực của Thế Tôn thị hiện), ở đó có đóa hoa tuyệt thắm, đẹp mắt. Thế Tôn bảo người đệ tử trẻ ngắm sen và chờ Thế Tôn về hương phòng một lát sẽ trở lại.

Đang lúc mải ngắm đóa sen tuyệt thắm, đóa sen bổng dưng héo và rụng. Người đệ tử hốt nhiên bừng sáng lý vô thường, tâm hoàn toàn ly tham, trực đắc A la hán quả.”

Đây là một trường hợp điển hình về đối tượng quán tưởng tương ưng với tâm lý của hành giả.

Khi Bồ Đề Đạt Ma đến Trung Hoa, do căn cơ Phật pháp hạn chế, quen với truyền thống hành trì cầu phúc, nghe Tổ phủ nhận phúc báu xây chùa tạo tượng, Lương Vũ đế bèn cho Tổ là ngoại đạo vì chưa hiểu được tinh thần thượng thừa của nhà Phật. Suốt thời gian dài 9 năm quay mặt vào vách, được một truyền nhân duy nhất là Huệ Khả, cứ thế thầy truyền cho trò đến Tồ thứ sáu là Huệ Năng.Qua 6 đời, mỗi đời chỉ đào tạo duy nhất được một người kế thừa. Do pháp kén chọn căn cơ nên lượng số thiền sinh đạt chuẩn quá hạn chế, trong khi pháp hành Vipassana hoặc những phép quán tương tợ, thiền sinh dễ hành trì và tuần tự tuệ giác phát sanh.Mục đích đức Phật trao truyền mang tính đại chung chứ không chỉ có thế một thầy một trò tương ứng với nhau.

Từ Bồ Đề Đạt Ma cho đến chư Tổ về sau, vẫn bị truyền thống lễ nghi tôn giáo trong nhà Phật lúc bấy giờ xem là tà giáo ngoại đạo,trãi qua thời gian dài thử thách, những gì là chân lý luôn tồn tại và phát triển, lúc bấy giờ, một bộ phận Tăng sĩ cấp tiến và giới trí thức kiểm chứng pháp hành của Tổ sư thiền, xác nhận vẫn hàm tàng “tam pháp ấn” và đích đến vẫn là giải thoát khỏi tam giới. Câu nói “ai thấy Phật là thấy Pháp, ai thấy Pháp là thấy Phật”, bởi vậy – “Phật pháp tại thế gian, bất ly thế gian giác, ly thế mịch Bồ đề, cáp như cầu thố giác”. Lá rơi, suối reo, gió động, vô thường…đều là pháp trợ duyên cho hành giả quán nhân duyên mà đắc pháp. Vô lượng pháp môn tu là thế.

Càng lâu dài, càng phát sanh nhiều pháp môn mang nhãn mark Phật giáo, nhưng đôi khi đưa hành giả lạc vào ma trận đồ; người khai sáng ra pháp mới lạ, tuệ giác chưa đủ công năng bạt trừ nghiệp chướng tự thân, làm sao giúp đệ tử khỏi bị lạc dẫn vào mê lộ tà thuật, ngã mạng cống cao. Kinh Lăng Nghiêm giúp cho hành giả bất cứ pháp hành nào nắm vững ngũ ấm ma nội tâm, sẽ tự điều chỉnh  từng công đoạn lộ trình tiến tu đạo nghiệp.

                                                       ***


QUAN ĐIỂM DỊ BIỆT

 

Tùy mỗi pháp, có một lý giải khác nhau, lý sự tương đồng pháp hành mới vững chải.Tuy nhiên đứng một góc độ toàn triệt, Krishnamurti hiểu về tham thiền có khác:

 

Giải thoát khỏi mọi hành vi vị ngã mà không có cố gắng
(Krishnamurti)

“Câu hỏi được đặt ra là: có thể nào giải thoát khỏi mọi hành vi vị ngã mà không có cố gắng, không nỗ lực giải trừ nó, để rồi tạo nên vấn đề không? Tôi hy vọng đã đặt câu hỏi rõ ràng, bằng không thì những điều được trình bày kế tiếp sau đây sẽ thiếu minh bạch hoàn toàn. Danh từ "tham thiền", đại khái, có nghĩa là suy xét một điều gì, khám phá nó, dừng lại với nó; hoặc cũng có thể danh từ ấy chỉ một tâm thái chiêm ngưỡng trong đó không có tư tưởng. Danh từ ấy rất ít có ý nghĩa đối với phần đất này của thế giới, nhưng nó mang một nghĩa lý phi thường ở Đông phương. Người ta đã viết nhiều về đề tài này, có nhiều trường phái giảng dạy những phương pháp và những hệ thống khác biệt về tham thiền. Theo tôi, tất cả những cái đó đều không phải là tham thiền. Tham thiền là tự "làm trống rỗng" tâm thức mình, chứ ta không thể tự cưỡng bách làm trống rỗng tâm thức mình bằng cách thực hành một phương pháp, theo một trường phái hay hệ thống.”

Với tuệ giác toàn triệt của Krishnamurti, điều này đúng, nhưng một thiền sinh bước đầu thâm nhập vào lãnh vực tâm linh, “tự mình làm rỗng tâm thức” hay “cưỡng bách làm rỗng tâm thức” đều là một, khác chăng chỉ là dụng công cố gắng. Cho dù “tự mình làm rỗng tâm thức” cũng lạc vào “ngoan không” khi mà hành giả chưa thực thụ đứng hẳn vào khu vực tuệ giác như Krishnamurti.

 

 

“Thực hành một phương pháp tham thiền là đuổi bắt cảm giác và nhận thức, đó là toan tính sống một kinh nghiệm cao hơn hay "cùng tột", và khi ta đã thấu hiểu bản chất của tất cả mọi kinh nghiệm rồi, thì ta dẹp hết mọi phương pháp, ta gác chúng qua một bên, ta xa rời chúng vĩnh viễn, bởi vì ta không còn là đệ tử của ai cả, ta không còn tìm cách sống những kinh nghiệm nữa, ta không còn muốn có những thấy – biết nữa. Tất cả mọi tìm kiếm để thấy biết, tất cả mọi sự căng thẳng giả tạo về cảm giác – bằng những chất ma túy, bằng những giới luật, bằng những nghi thức lễ bái, sùng thượng, bằng cầu nguyện – đều toàn là hành vi vị ngã.”

Nếu bảo thực hành một phương pháp tham thiền là đuổi bắt cảm giác và nhận thức, đó là toan tính sống một kinh nghiệm cao hơn hay “cùng tột”…thế thì mọi pháp hành do đức Phật để lại đều vô nghĩa??? Buông bỏ tất cả, vô tu vô chứng, mọi sự đều không không, không thầy không đệ tử, không giới luật…???

 

“Cái gì đã là tràn đầy ánh sáng, tất không đòi hỏi thêm ánh sáng – tự nó là ánh sáng rồi, và tất cả mọi ảnh hưởng nhiễm độc, mọi kinh nghiệm xâm nhập vào vùng ánh sáng ấy liền được thiêu hủy từng phút từng giây, để tâm thức luôn luôn sáng tỏ, vô nhiễm mới có thể thấy được chỗ siêu xuất khỏi giới hạn đo lường của thời gian.”

Điều này Krishnamurti nói đúng, đã tràn đầy ánh sáng thì không cần đòi hỏi thêm ánh sáng. Mọi ảnh hưởng nhiễm độc không bị giải trừ thì “ánh sáng tuệ giác” làm sao hiển lộ? muốn giải trừ mọi nhiễm độc mà không dụng công là điều không tưởng.  Ánh sáng tuệ gác tự nó hiển lộ thì mọi nhiễm độc tự nó cũng hiển lộ vậy thôi.

 

“Khi tâm thức tự hiến và quên mình trong một sự đồng nhất trọn vẹn, tâm thức có thể hoàn toàn tịch lặng, nhưng nó rơi vào một trạng thái loạn thần. Ước vọng đồng nhất vào một mục đích, một ý niệm, một biểu tượng, một xứ sở, một chủng tộc, tức là mắc chứng loạn thần, như trường hợp tất cả những người gọi là tu hành mộ đạo. Họ tự đồng nhất vào Đấng Cứu thế, vào đức thầy, vào cái này cái nọ, điều đó tạo cho họ một niềm an ủi lớn lao và một cái nhìn hạnh phúc về đời sống. Thái độ này hoàn toàn là loạn thần.”

Nói như Krishnamurti, nhập vào Thượng đế, Atman nhập vào Brahman (Tiểu ngã hòa nhập vào Đại ngã), Phật tánh là năng lượng tuệ giác và từ bi, hành giả chứng đắc là đồng nhất với  tuệ giác và từ bi…đều là loạn thần??? Theo Krishnamurti chỉ có một loại tịch lặng đồng nhất do tâm thức tự hiến và quên mình, ngoài ra nếu có sự tịch lặng nào khác, đó là trạng thái tịch lặng loạn thần.!

Cũng thế, theo Krishnamurti, cái gọi là đạo đức theo mô hình xã hội hay tôn giáo chưa phải là đạo đức thực sự, đó là loại đạo đức rập khuôn, không có tự do.Nhưng một khi còn bị ràng buộc vào những định chế xã hội, tôn giáo, một khi tự thân chưa đủ năng lực tự mình “làm rỗng tâm thức”, làm sao thoát vượt được cái đạo đức rập khuôn đó nếu không từ bàn đạp tôn giáo để bước vào lãnh vực phi tôn giáo như ngài Krishnamurti?

                                                    ***

Tóm lại: Nơi đây ta không bàn đến trạng thái “nhập thần” và ngôn ngữ xuất thần như ngài Krishnamurti, chỉ tạm tìm hiểu các trạng thái “tịch mặc” của những hành giả bước qua ngưỡng cửa chánh định. Một câu hỏi sẽ xuất hiện – lấy gì làm căn cứ để xác định hành giả đó đang ở trong lãnh vực đắc pháp? Chúng ta đừng lầm lẫn giữa đắc pháp và đắc đạo, đắc pháp là tiến trình đưa đến ngộ đạo. Hành giả nắm được mấu chốt pháp hành, thường tinh tấn một cách miên mật, trong quá trình hành trì đó, trạng thái tâm sinh lý có nhiều chuyển biến tích cực; mọi tính hư tật xấu tự nó rơi rụng mà không cần dụng công loại trừ. Tâm thái an lạc,trầm tĩnh,từ tốn; trong tâm thức không tồn tại mọi thắc mắc ngờ vực,hay ham muốn mong cầu; lòng từ bi phủ trùm trong mọi ý nghĩ, hành động và lời nói; trí tuệ phát triển và có nhiều khả năng đặc biệt…

Tất cả mọi ưu điểm đó không do học hỏi trong đời này, chúng là những hạt giống chìm lặng trong tiềm thức khi mà bị những cơn sóng loạn động u trược phủ lấp.Hành giả thủ đắc trạng thái tịch mặc, những cơn sóng loạn động u trược đó biến thành mặt hồ tĩnh lặng, những hạt giống siêu xuất tự chúng hiển lộ. Đối trước mọi biến cố, mọi vấn nạn, hành giả thong dong như kẻ vô sự, đó là những hoạt dụng của Thiền định.

Như vậy,bất cứ pháp hành nào xuất phát từ Phật giáo hay ngoài Phật giáo, mang tính giải thoát, ẩn tàng tam pháp ấn, đem lại hiệu quả nhất định, đều là con đường đưa đến chân lý. Cũng có không ít những bậc duyên giác, không tu theo Phật, không học với ngoại giáo, chủng tử hướng thượng sẵn có,đối diện với nhều khổ đau bất trắc, bổng chốc trực diện trước những cái bất ngờ ngoài trí tưởng tượng hiểu biết, một cảm xúc một trạng thái bất chợt “đứng hình”, khác nào trạng thái hành giả đứngtrước sự bế tắt một công án Đấy là một trong những hình thức đưa đến sự tịch lặng.Nếu đương cơ tiếp tục duy trì trạng thái đó lâu dài sẽ  bước vào đại định, ánh sáng tuệ giác sẽ hiển lộ.

Hoạt dụng của Thiền định thiên hình vạn trạng, tùy thuộc vào căn cơ của hành giả, khó mà lột tả.

 

MINH MẪN

01/10/2018

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
27/05/2019(Xem: 4226)
Sống Trong Từng Sát Na là phương pháp thực tập sống tỉnh thức, sống và ý thức về sự sống trong từng mỗi phút giây. Đây là phương thức tu tập dựa trên tinh thần Kinh Bốn Lãnh Vực Quán Niệm. Kinh Bốn Lãnh Vực Quán Niệm (Satipatthana Sutta), còn gọi là Kinh Tứ Niệm Xứ, là bản kinh do Ngài đại đức Ananda thuật lại những lời thuyết giảng của Đức Phật lúc Đức Phật đang cư trú ở Kammasadamma, một thủ phủ của xứ Kuru.
13/05/2019(Xem: 4764)
Ngày xưa Đức Phật trong suốt 45 năm giáo hóa tại khu vực rộng lớn dọc theo hai bên bờ Sông Hằng ngài chỉ sử dụng mỗi một phương tiện duy nhất là đi bộ. Trong Kinh nói Đức Phật lúc nào cũng ở trong đại định, như vậy thì lúc đi bộ Đức Phật cũng thiền. Cho nên, ngày nay khi chúng ta nói đến thiền đi bộ thì không là vấn đề mới mẻ gì cả. Nhưng đôi khi chúng ta lại ít để tâm thực tập đúng theo phương thức để mang lại sự an tịnh cho thân tâm trong cuộc sống hàng ngày. Hai tác giả Arinna Weisman và Jean Smith sẽ làm sáng tỏ cách thực tập thiền đi bộ rất phổ thông này, qua sự hướng dẫn chi tiết dưới đây. Việc đi bộ có thể là cơ hội kỳ diệu khác để thực hành chánh niệm. Từng giây phút có thể tăng cường sự tỉnh thức và đôi khi là đối tượng dễ tiếp cận thiền hơn hít thở.
14/04/2019(Xem: 4079)
Nguyên lý của cuộc sống luôn luôn là bến bờ của hạnh phúc mà trong đó mọi sinh vật đều hướng đến bình yên theo từng nhịp thở. Nếu bạn không thở đúng nhịp đập của nội tại, thì bạn đánh mất chính mình và giá trị tồn tại của thực hữu. Thực hữu, dôi lúc, người ta hiểu mơ hồ về nó.
09/04/2019(Xem: 4268)
Huệ Khả Cầu Pháp: Đọc Từ Tạng Pali Nguyên Giác Ngài Huệ Khả xin Sơ Tổ Thiền Tông Bồ Đề Đạt Ma dạy pháp an tâm. Tích này có thể nhìn từ Kinh Tạng Pali ra sao? Bản thân người viết trước giờ chỉ quen dựa cột để nghe pháp, nơi đây không dám có ý kiến riêng, chỉ muốn tìm một số Kinh liên hệ để ghi chú. Câu chuyện này được ngài Trần Thái Tông (1218-1277) đưa vào nhóm 43 công án trong Niêm Tụng Kệ, một trong các sách giáo khoa của Thiền phái Trúc Lâm để khảo sát, nghiên cứu. Bản dịch của Hòa Thượng Thích Thanh Từ, người có công hồi phục Thiền phái Trúc Lâm, đã dịch toàn bộ các tác phẩm của Trần Thái Tông, trong đó câu chuyện ngài Huệ Khả tức khắc đốn ngộ, viết như sau: “8.- Cử: Nhị Tổ xin Sơ Tổ pháp an tâm. Sơ Tổ bảo: Đem tâm ra ta an cho ông. Nhị Tổ thưa: Con tìm tâm không thể được. Sơ Tổ bảo: Ta an tâm cho ông rồi. Niêm: Em bé lên ba ôm trống giấy, Ông già tám chục mặc áo cầu. Tụng: Tâm đã không tâm nói với ai, Người câm thức mộng mắt tròn xoe. Lão
06/01/2019(Xem: 7090)
Chúng ta thường nghe các nhà khoa học đề cập đến những hành động ý thức và vô ý thức khi họ nói về não bộ của con người. Do đó chúng ta biết được hoạt động của con người không phải lúc nào cũng hợp lý như chúng ta tưởng.
27/11/2018(Xem: 3900)
"Chân Lý" nghĩa là sự thật, cũng gọi là "Đế" như trong "Tứ Diệu Đế" của Đạo Phật. Có hai loại chân lý: Tương đối và Tuyệt đối:
24/10/2018(Xem: 3619)
Đông và Tây có lẽ gặp nhau nhiều nhất trong việc chọn lựa tên cho con cái, nhất là đứa trẻ được chào đời ấy sẽ là trai hay gái, nếu là trai thì chọn những đức tính tốt hoặc lương thiện: Dũng, Đức, Nhân, Hùng, Ái , Nghĩa, Toàn ...riêng với bé gái tượng trưng cho sự mảnh mai, yếu ớt thì lại chọn tên các loài hoa như: Lan, Huệ, Mai, Cúc, Hồng v.v...và vì thế tôi cũng được nằm trong số những bé gái mang tên một loài hoa ...
18/10/2018(Xem: 5240)
Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, dân tộc Việt Nam tự hào đã xây dựng cho riêng mình một thiền phái tôn giáo mang đặc trưng riêng có của con người Việt Nam. Đó chính là Thiền phái Trúc Lâm Yên tử, một thiền phái nhân văn và gần gũi với cuộc sống của người dân, do một vị vua Triều Trần khai mở và phát triển, Ông là vị vua thứ ba triều đại Nhà Trần, Trần Nhân Tông
05/10/2018(Xem: 4709)
Trong Kinh Kim Cang, có một đoạn vấn hỏi và đối đáp giữa Đức Phật và Ngài Huệ Mạng Tu Bồ Đề: “Này Tu Bồ Đề, ý ông thế nào? Như Lai có mắt trần không? Bạch Đức Thế Tôn thật vậy, Như Lai có mắt trần.” “Này Tu Bồ Đề, ý ông thế nào? Như Lai có mắt Trời không? ? Bạch Đức Thế Tôn, thật vậy, Như Lai có mắt Trời.” “Này Tu Bồ Đề, ý ông thế nào? Như Lai có mắt huệ không? ? Bạch Đức Thế Tôn thật vậy, Như Lai có mắt huệ.” “Này Tu Bồ Đề, ý ông thế nào? Như Lai có mắt pháp không? ? Bạch Đức Thế Tôn thật vậy, Như Lai có mắt pháp.” “Này Tu Bồ Đề, ý ông thế nào? Như Lai có mắt Phật không? ? Bạch Đức Thế Tôn thật vậy, Như Lai có mắt Phật.”
23/09/2018(Xem: 4272)
Bầu trời trên cao xa, có đêm thì trăng sáng rực trần gian, chị hằng như đang mĩm cười nhìn xuống trần gian, còn chú cuội bên cây đa đang thiêm thiếp ngủ, có bữa thì tối thui như đêm ba mươi, ngữa bàn tay không thấy. Lúc thì trời quang mây tạnh, mưa thuận gió hòa, khi thì phong ba bão táp, tàn hại thiên nhiên, phá bỏ biết bao công trình vĩ đại mà con người đã bỏ thật nhiều sức lực tiền của để xây dựng qua nhiều thế kỷ, nhiều triều đại.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567