Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Những Vì Sao

23/09/201808:08(Xem: 4271)
Những Vì Sao

nhungvisaodem_1
NHỮNG VÌ SAO

        Bầu trời trên cao xa, có đêm thì trăng sáng rực trần gian, chị hằng như đang mĩm cười nhìn xuống trần gian, còn chú cuội bên cây đa đang thiêm thiếp ngủ, có bữa thì tối thui như đêm ba mươi, ngữa bàn tay không thấy. Lúc thì trời quang mây tạnh, mưa thuận gió hòa, khi thì phong ba bão táp, tàn hại thiên nhiên, phá bỏ biết bao công trình vĩ đại mà con người đã bỏ thật nhiều  sức lực tiền của để xây dựng qua nhiều thế kỷ, nhiều triều đại. Nhưng dù sao đi nữa, trời đất có biến đổi, vũ trụ cứ xoay vần chúng ta vẫn mang ơn trời đất đã cho mình đầu đội trời, chân đạp đất, mang ơn cha mẹ sanh thành dưỡng dục; mang ơn thầy tổ tác thành giới thân huệ mạng cho mình, để từ đó làm thềm thang bước lên đạo hạnh thanh cao, làm một con người cao cả hơn trên tất cả mọi chúng sanh đang hiện diện trên hành tinh này. Mang ơn những bạn hiền cùng sách tấn tu tập hoặc chia xẻ chân tình, giúp nhau những công việc trong đời sống thường nhật, mang ơn những người bạn có lúc làm mình đau lòng đến chảy nước mắt; mang ơn đàn na tín thí đã nhịn ăn nhín mặc hổ trợ tứ sự cho hành giả an tâm tu tập; xin hồi hướng tất cả phước báu đến cho muôn loài ngạ quỷ, súc sanh đang chịu nhiều khổ đau trong chốn địa ngục.

“Tỳ Gia đêm nay người cứu tinh

Trần gian trăng sao ngàn lung linh

Ánh mai vừa chói ngàn tia sáng

Là đấng Như Lai hiện bóng hình.”

       Đức Thế Tôn Thích Ca xuất hiện trên thế gian là ánh hào quang rực sáng, chiếu rọi khắp nhân sinh, xua tan bao u minh đang ngự trị trong tâm hồn của chúng sanh từ vô lượng kiếp. Ngài là ngọn hải đăng cho những người đi trong đêm tối không sợ lầm đường lạc lối; là vị thầy hay chữa lành bịnh thân tâm cho muôn người; là vị cứu tinh của những con người đang bị ngược đãi bởi những kỳ thị sang hèn; giải tỏa những khổ đau của những vị vua vì tham quyền cố vị mà tàn sát tình thâm cốt nhục. Giải cứu, giáo hoá những kỷ nữ đi vào phật pháp chứng được thánh quả, là vị cứu mạng của những đàn thú vật đang đến lò mỗ, thiêu sống...suốt một đời đem thân mạng mình phụng sự tha nhân mà không hề mong được đáp trả. Rồi một sáng tinh sương giữa hai cây Ta la nơi rừng Câu Thi Na thuộc nước …Đức Phật đã vào cõi vô dư tịch tịnh, pháp âm trong bài kinh Di Giáo vẫn là nền tảng để chư đệ tử hành trì tu tập sau khi không còn Như Lai trên trần thế.

         Đức Như Lai như ánh sáng đêm rằm, soi sáng tâm hồn những ai có duyên trực tiếp hoặc gián tiếp được một lần thọ nhận không ít thì nhiều cũng có ích lợi cho thân tâm. Tuy Như Lai không còn hiện diện trên trần thế, nhưng Giáo pháp bắt nguồn từ Ấn Độ vẫn luân lưu tuôn chảy qua các quốc độ, dù văn hóa phong tục địa phương, địa lý, có nhiều tông phái phát triển cách hành trì có khác nhau nhưng mục đích duy nhất là đưa con tu tập người đến chỗ tịnh hoá thân tâm, ví như trăm sông đều đổ về biển  cả,  giáo pháp Như Lai cũng vậy chỉ có một vị duy nhất là giác ngộ giải thoát.

      Chư Lịch Đại Tổ Sư tiếp nối ngọn đuốc, Tổ Tổ tương truyền trãi qua hơn hai mươi lăm thế kỷ, từ Tây Thiên qua Đông Độ đến Việt Nam các nước Á Châu như Thái Lan, Lào, Miến Điện, CamPuChia, hiện tại Phật Giáo đang dần đâm chồi nẩy lộc ở các nước tây phương. Mỗi ngọn đèn, có diệu dụng khác nhau, có ngọn tỏa sáng rực, có ngọn hơi sáng, có ngọn lu lu nhưng tất cả có công năng xua tan màn đêm đen tối. Như các ngôi sao trên trời, có vì sao thì tỏa sáng như các ngôi sao bắc đẩu, nhưng có vì sao không được sáng lắm bởi những vần mây bao phủ. Cũng tùy vào ngày tháng, như những ngày không có trăng thì sao toả sáng hơn, ngày có trăng thì ánh sáng trăng quá lớn, đã che bớt ánh sáng của sao, nhưng không vì thế mà diệu dụng của các vì sao bị giảm đi. Tâm tánh của mỗi chúng sanh cũng thế, ai ai cũng có sẵn bản tính Phật, có người nghe pháp liền tỏ ngộ, như các bậc Thanh Văn thời Đức Phật, nghe Như Lai thuyết pháp liền chứng thánh quả, các bậc Bích Chi Phật quán vô thường thấy hoa rơi lá rụng liền ngộ đạo, còn chúng ta vì nghiệp chướng sâu dày, vô minh bao phủ nên tỉnh đó liền mê, tuy hàng ngày đi nghe giảng nhiều nơi, tu tập nhiều chỗ, nhưng bản tánh tham sân si vẫn còn dẫy đầy. Đức Phật được tôn xưng là bậc toàn giác, còn phàm phu thì gọi là phần giác, nhưng dù nhanh hay chậm trong mỗi chúng sanh đều có sẵn viên minh châu phải nổ lực chuyên cần mài rửa trau dồi nó sẽ rực sáng, còn nếu không thì mỗi  ngày càng  xa dần chơn tâm phật tánh.

        Chư vị Thầy Tổ chúng ta mỗi vị một hạnh không ai giống ai. Có vị thì du phương hành đạo, không kể ngày đêm cực khổ, sống rày đây mai đó, suốt một đời hy hiến thân mình cho đạo pháp không màng danh lợi, không khuất phục uy quyền. Có vị cả đời dịch thuật trước tác kinh sách, có vị vì hạnh nguyện độ sanh giáo dục đàn hậu học mà suốt đời đứng trên bục giảng rao giảng những lời vàng ngọc của Phật Tổ, đưa vô số Tăng Ni hiểu sâu vào phật pháp, trang nghiêm tự thân, để từ đó chánh pháp được đi sâu vào thế gian. Có vị đào giếng đắp đường, có vị thì nhập thất tịnh tu, có vị nuôi trẻ mồ côi làm việc từ thiện xã hội, có vị thì chuyên lau chùi nhà xí, dọn dẹp chùa chiền, quét rác lượm củi, nấu cơm cho đại chúng dung, có vị phát nguyện nuôi chúng ăn học … nhưng mục đích duy nhất là tự thân mình nếm được vị ngọt của chánh pháp, rồi đem những gì mình đã đạt được đến cho chúng sinh để mọi người cùng hưởng pháp lạc an vui trong hiện tại cho đến tương lai. Nhưng các bậc tiền bối làm mà không trụ không chấp vào những việc mình đã làm nên dù có được tôn kính hay bị khinh chê ngược đãi các Ngài vẫn không động tâm, không phải có người khen ngợi ca tụng mới làm nhiều, còn chê trách là bỏ bê lười biếng. Tâm của các vị như như: 

                                                                 “Trời trong cánh nhạn bay qua

Bóng in đáy nước xóa nhòa một khi

Nhạn không để dấu làm chi

Nước không giữ bóng bởi vì vô tâm.”

         Đọc lại hành trạng chư vị Phật, chư vị Tổ Sư chúng ta cúi đầu sát đất đảnh lễ, dù xã bỏ thân mạng cũng không đền đáp được công ơn sâu dày cao quý mà các Ngài đã gian nan tìm ra chân lý vi diệu. Tuy các Ngài đã đi vào cõi Vô Dư Niết Bàn nhưng công hạnh và đạo đức sáng ngời vẫn tỏa rạng trên nền trời Phật pháp, nuôi dưỡng bao thế hệ kế thừa vẫn không ngừng đâm chồi phát triển. Mạch nguồn phật pháp vẫn tỏa rạng tuôn chảy, cho dù có lúc hưng thạnh cũng có lúc suy vi theo vận mệnh nước nhà, nhưng phật pháp là pháp bất định nên tùy theo hoàn cảnh, địa phương, tập quán, phong tục mà uyển chuyển cho thích hợp để tồn tại với thời gian.

     Những vì sao luôn chiếu sáng tâm linh cho những ai nguyện bước theo con đường giải thoát, là ngọn hải đăng cho hành giả trên lộ trình tìm về bản lai diện mục của mình. Ôi những vì sao lung linh huyền diệu trên bầu trời trong xanh, nhưng thật gần gũi bên cạnh những hành giả chân tu thật học. Xin thành kính đảnh lễ nguyện bước theo cho dù trên đường đi có thật nhiều chông gai thử thách, nguyện noi theo từ đây cho đến vô lượng đời vị lai

Không bao giờ thối chuyển.

                                                                                                                                                                       
                                                                                                                                          Thích Nữ Giới Định

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
27/05/2019(Xem: 4226)
Sống Trong Từng Sát Na là phương pháp thực tập sống tỉnh thức, sống và ý thức về sự sống trong từng mỗi phút giây. Đây là phương thức tu tập dựa trên tinh thần Kinh Bốn Lãnh Vực Quán Niệm. Kinh Bốn Lãnh Vực Quán Niệm (Satipatthana Sutta), còn gọi là Kinh Tứ Niệm Xứ, là bản kinh do Ngài đại đức Ananda thuật lại những lời thuyết giảng của Đức Phật lúc Đức Phật đang cư trú ở Kammasadamma, một thủ phủ của xứ Kuru.
13/05/2019(Xem: 4764)
Ngày xưa Đức Phật trong suốt 45 năm giáo hóa tại khu vực rộng lớn dọc theo hai bên bờ Sông Hằng ngài chỉ sử dụng mỗi một phương tiện duy nhất là đi bộ. Trong Kinh nói Đức Phật lúc nào cũng ở trong đại định, như vậy thì lúc đi bộ Đức Phật cũng thiền. Cho nên, ngày nay khi chúng ta nói đến thiền đi bộ thì không là vấn đề mới mẻ gì cả. Nhưng đôi khi chúng ta lại ít để tâm thực tập đúng theo phương thức để mang lại sự an tịnh cho thân tâm trong cuộc sống hàng ngày. Hai tác giả Arinna Weisman và Jean Smith sẽ làm sáng tỏ cách thực tập thiền đi bộ rất phổ thông này, qua sự hướng dẫn chi tiết dưới đây. Việc đi bộ có thể là cơ hội kỳ diệu khác để thực hành chánh niệm. Từng giây phút có thể tăng cường sự tỉnh thức và đôi khi là đối tượng dễ tiếp cận thiền hơn hít thở.
14/04/2019(Xem: 4079)
Nguyên lý của cuộc sống luôn luôn là bến bờ của hạnh phúc mà trong đó mọi sinh vật đều hướng đến bình yên theo từng nhịp thở. Nếu bạn không thở đúng nhịp đập của nội tại, thì bạn đánh mất chính mình và giá trị tồn tại của thực hữu. Thực hữu, dôi lúc, người ta hiểu mơ hồ về nó.
09/04/2019(Xem: 4268)
Huệ Khả Cầu Pháp: Đọc Từ Tạng Pali Nguyên Giác Ngài Huệ Khả xin Sơ Tổ Thiền Tông Bồ Đề Đạt Ma dạy pháp an tâm. Tích này có thể nhìn từ Kinh Tạng Pali ra sao? Bản thân người viết trước giờ chỉ quen dựa cột để nghe pháp, nơi đây không dám có ý kiến riêng, chỉ muốn tìm một số Kinh liên hệ để ghi chú. Câu chuyện này được ngài Trần Thái Tông (1218-1277) đưa vào nhóm 43 công án trong Niêm Tụng Kệ, một trong các sách giáo khoa của Thiền phái Trúc Lâm để khảo sát, nghiên cứu. Bản dịch của Hòa Thượng Thích Thanh Từ, người có công hồi phục Thiền phái Trúc Lâm, đã dịch toàn bộ các tác phẩm của Trần Thái Tông, trong đó câu chuyện ngài Huệ Khả tức khắc đốn ngộ, viết như sau: “8.- Cử: Nhị Tổ xin Sơ Tổ pháp an tâm. Sơ Tổ bảo: Đem tâm ra ta an cho ông. Nhị Tổ thưa: Con tìm tâm không thể được. Sơ Tổ bảo: Ta an tâm cho ông rồi. Niêm: Em bé lên ba ôm trống giấy, Ông già tám chục mặc áo cầu. Tụng: Tâm đã không tâm nói với ai, Người câm thức mộng mắt tròn xoe. Lão
06/01/2019(Xem: 7090)
Chúng ta thường nghe các nhà khoa học đề cập đến những hành động ý thức và vô ý thức khi họ nói về não bộ của con người. Do đó chúng ta biết được hoạt động của con người không phải lúc nào cũng hợp lý như chúng ta tưởng.
27/11/2018(Xem: 3900)
"Chân Lý" nghĩa là sự thật, cũng gọi là "Đế" như trong "Tứ Diệu Đế" của Đạo Phật. Có hai loại chân lý: Tương đối và Tuyệt đối:
24/10/2018(Xem: 3619)
Đông và Tây có lẽ gặp nhau nhiều nhất trong việc chọn lựa tên cho con cái, nhất là đứa trẻ được chào đời ấy sẽ là trai hay gái, nếu là trai thì chọn những đức tính tốt hoặc lương thiện: Dũng, Đức, Nhân, Hùng, Ái , Nghĩa, Toàn ...riêng với bé gái tượng trưng cho sự mảnh mai, yếu ớt thì lại chọn tên các loài hoa như: Lan, Huệ, Mai, Cúc, Hồng v.v...và vì thế tôi cũng được nằm trong số những bé gái mang tên một loài hoa ...
18/10/2018(Xem: 5240)
Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, dân tộc Việt Nam tự hào đã xây dựng cho riêng mình một thiền phái tôn giáo mang đặc trưng riêng có của con người Việt Nam. Đó chính là Thiền phái Trúc Lâm Yên tử, một thiền phái nhân văn và gần gũi với cuộc sống của người dân, do một vị vua Triều Trần khai mở và phát triển, Ông là vị vua thứ ba triều đại Nhà Trần, Trần Nhân Tông
05/10/2018(Xem: 4708)
Trong Kinh Kim Cang, có một đoạn vấn hỏi và đối đáp giữa Đức Phật và Ngài Huệ Mạng Tu Bồ Đề: “Này Tu Bồ Đề, ý ông thế nào? Như Lai có mắt trần không? Bạch Đức Thế Tôn thật vậy, Như Lai có mắt trần.” “Này Tu Bồ Đề, ý ông thế nào? Như Lai có mắt Trời không? ? Bạch Đức Thế Tôn, thật vậy, Như Lai có mắt Trời.” “Này Tu Bồ Đề, ý ông thế nào? Như Lai có mắt huệ không? ? Bạch Đức Thế Tôn thật vậy, Như Lai có mắt huệ.” “Này Tu Bồ Đề, ý ông thế nào? Như Lai có mắt pháp không? ? Bạch Đức Thế Tôn thật vậy, Như Lai có mắt pháp.” “Này Tu Bồ Đề, ý ông thế nào? Như Lai có mắt Phật không? ? Bạch Đức Thế Tôn thật vậy, Như Lai có mắt Phật.”
01/10/2018(Xem: 5096)
Ngày nay chủ đề Thiền không còn xa lạ đối với những ai muốn tìm hiểu và muốn định nghĩa một cách minh bạch, nhưng mấy ai hiểu và cảm nhận một cách chính xác và minh bạch về những hoạt dụng của Thiền.Tùy mỗi trường phái, mỗi góc độ để nhìn và hiểu về Thiền khác nhau, từ đó, việc hành hoạt cũng khác biệt.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567