Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phật giáo và sáng tạo

08/04/201311:37(Xem: 4101)
Phật giáo và sáng tạo

hoave_1

1. Sáng tạo ra cuộc đời của mình

Theo tinh thần thuyết Nghiệp trong đạo Phật, thì chính con người chứ không phải thần linh hay Thượng đế, sáng tạo và an bài cuộc đời của mình, bằng ý nghĩ, lời nói và hành động của chính mình. Trong quá khứ, trong hiện tại và cả trong tương lai nữa, tình hình là như vậy, không thể khác được, dù con người có muốn hay không muốn cũng thế.

Có người hỏi, và câu hỏi của họ rất chính đáng! Thế thì niệm Phật và Bồ tát, cầu sự gia hộ của Phật và Bồ tát là không đúng hay sao? Câu trả lời có thể là thế này: Ai bảo niệm Phật và Bồ tát, cầu sự gia hộ của Phật và Bồ tát là không đúng? Niệm Phật và Bồ tát, quán tưởng hình ảnh từ bi và đầy đủ tí tuệ của Phật và Bồ tát là một phương pháp tu hành rất tốt, có thể đối trị cái tâm phàm phu hay nghĩ bậy và bay nhảy không yên của chúng ta.

Nhưng nếu hỏi, ai suy nghĩ, ai nói, ai hành động, ai tạo nghiệp và chịu kết quả nghiệp báo thì phải nói rằng chính chúng ta, chứ không ai khác. Chúng ta làm thì chúng ta chịu, chứ không ai chịu thay cho chúng ta cả.

Đức Phật dạy:

"Không trên trời dưới biển,

Không lánh vào động núi,

Không chỗ nào trên đời,

Trốn được quả ác nghiệp”.

(Kinh Pháp Cú, kệ 127)

Thi hào Nguyễn Du, trong các vần thơ kết thúc Truyện Kiều, cũng đã viết:

"Đã mang lấy nghiệp vào thân,

Xin đừng trách lẫn trời gần trời xa”.

Lời dạy của Phật thật là minh bạch rõ ràng trong vấn đề tạo nghiệp và chịu kết quả của nghiệp. Chúng ta không nên nghĩ rằng, cứ làm điều ác, cứ tạo nghiệp ác nơi ý nghĩ, nơi miệng nói, và thân hành động, rồi chỉ cần đảnh lễ Phật là tất cả mọi nghiệp ác tức khắc được tiêu trừ! Ông thầy nào dạy chúng ta như vậy có khác nào nói Phật không công minh, can thiệp vào sự vận hành của luật nhân quả, cưu mang kẻ làm ác, tạo nghiệp ác, có khác chi khuyến khích tội ác!

Lời dạy của Phật là: Mọi người hãy chịu trách nhiệm, làm chủ nhân của cuộc đời mình, làm chủ nhân cuộc sống của mình, hãy xem đó là sự sáng tạo lớn nhất, cao quý nhất của con người.

2. Sáng tạo ra cuộc sống của mình, bắt đầu từ nội tâm

Có thể khẳng định, vấn đề rất quan trọng này, Phật và Nho giáo là hoàn toàn nhất trí:

Khổng Tử từng nói rằng, Kinh Thi có đến 300 thiên, nhưng có một câu bao quát cả 300 thiên đó, tức “tư vô tà”! Nghĩa là đừng có nghĩ bậy!(1).

Tâm nghĩ bậy, hại như thế nào cho người, Đức Phật đã nói thật rõ ràng:

"Kẻ thù hại kẻ thù,

Oan gia hại oan gia

Không bằng tâm hướng tà

Gây ác cho tự thân!”.

(Kinh Pháp Cú, kệ 42)

Tâm hướng tà, cũng như đoạn câu của Khổng Tử “tư vô tà” có nghĩa là nghĩ bậy.

Có thể nói công phu tu hành của chúng ta tập trung vào ba chữ “Đừng có nghĩ bậy”. Vì rằng, nghĩ bậy là đầu mối của bất hạnh và khổ não, cũng như nghĩ thiện là đầu mối của an lạc và hạnh phúc. Để minh họa sinh động hơn nữa vai trò của tâm hay ý đối với cuộc sống hàng ngày của chúng ta, Đức Phật nói hai bài kệ 1 và 2, mở đầu kinh Pháp Cú như sau:

"Ý dẫn đầu các pháp

Ý làm chủ, ý tạo,

Nếu với ý vô nhiễm,

Nói lên hay hành động.

Khổ não bước theo sau,

Như xe chân vật kéo”.

"Ý dẫn đầu các pháp

Ý làm chủ, ý tạo,

Nếu với ý thanh tịnh,

Nói lên hay hành động,

An lạc bước theo sau,

Như bóng không rời hình”.

Kinh Pháp Cú dùng chữ ý ở đây, cũng như ở bài kệ 42, đã dẫn, dùng chữ tâm vậy. Sách Duy thức dùng từ ý thức hay thức thứ sáu là chỉ cho lớp tâm thức rất năng động, có phạm vi hoạt động rộng rãi nhất trong các lớp tâm thức của chúng ta. Tuy sách Phật phân biệt có tám thức, nhưng lớp tâm thức hoạt động mạnh mẽ hơn cả, có phạm vi hoạt động rộng hơn cả chính là ý thức hay là thức thứ sáu này. Đầu mối nghĩ bậy, tạo nghiệp ác cũng là ý thức này. Nhưng đầu mối tạo nghiệp lành, nghiệp thiện cũng là ý thức này.

Có thể nói, toàn bộ công phu tu hành của người Phật tử, một khi đã am hiểu cơ chế của nghiệp, chính là luôn luôn tỉnh giác với mọi hành động, mọi diễn biến của ý thức, cột chặt ý thức vào chánh niệm.

Đừng nghĩ rằng đây là chuyện dễ dàng. Trong kinh Pháp Cú (phẩm Tâm), Đức Phật từng ví tâm người (tức ý thức), như con cá bị quăng ra khỏi nước, nó vùng vẫy, nó hoảng hốt, dao động rất khó hộ trì, khó nhiếp phục, vì sao? Vì cái tâm ấy quay cuồng chạy theo các dục, v.v...

Trong Kinh tạng Nguyên thủy, kinh sách các bộ phái và trong kinh điển Đại thừa, có cả một kho tàng kinh nghiệm và biện pháp quý báu vô cùng, mà Phật tử chúng ta tha hồ lựa chọn, thực hành tùy theo trình độ, căn cơ, bối cảnh của mỗi người. Đó là kho tàng kinh nghiệm và biện pháp “biện tâm”, điều hòa tâm, nhiếp phục tâm được thử thách và tổng kết qua hơn 2.500 năm đạo Phật tồn tại và phát triển ở Ấn Độ cũng như ở khắp các nước mà đạo Phật đã du nhập.

3. Nắm vững cơ chế vận hành của nghiệp

Một khi đã làm chủ được nội tâm, cột chặt được tâm vào chánh niệm, thì dần dần tâm chúng ta được yên, được bình lặng. Mà tâm yên, tâm bình lặng, đó là hạnh phúc, là trí tuệ, là sự sáng suốt, là thấy được sự vật như thật, không còn bị mê hoặc.

"Lắng lòng đối cảnh, hỏi chi thiền”

(Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền)(2).

Đó là câu thơ kết thúc bài thơ chữ Hán của vua Trần Nhân Tông, trong bài phú “Cư trần lạc đạo” nổi tiếng. Cốt lõi của Thiền chính là làm cho tâm lặng. Tâm đã lặng thì sáng, đã sáng thì không còn bị mê hoặc bởi tham, sân, si. Đó là giác ngộ và giải thoát.

Tâm có lặng, có sáng thì chúng ta mới nắm vững được cơ chế vận hành của nghiệp và chủ động, một cách có ý thức, không còn nghĩ ác, nói ác và hành động ác nữa, trái lại thường xuyên nghĩ thiện, nói thiện và hành động thiện.

Ở đây, có vấn đề đã từng gây hiểu lầm là thuyết Nghiệp của đạo Phật đặt nặng vai trò của tâm ý có hay không dẫn tới hậu quả là Phật giáo có vẻ bàng quan đối với xã hội, đất nước hay không. Giáo hoàng Paul II, trong cuốn sách Ngưỡng cửa của hy vọng cũng đã phê phán đạo Phật chỉ lo đời sống nội tâm mà bàng quan với tình hình xã hội. Tôi xin phép không nhắc lại ở đây nội dung các bài trả lời của các nhà Phật học Việt Nam đối với lời phê phán này của Giáo hoàng.

Ở đây, tôi chỉ nói, nếu chúng ta hiểu cơ chế vận hành của nghiệp thì chúng ta sẽ không bao giờ nói như Giáo hoàng. Tuy thuyết Nghiệp đề cao vai trò chủ đạo của tâm ý trong tạo nghiệp, nhưng đạo Phật cũng không hạ thấp chút nào vai trò của tạo nghiệp bằng lời (khẩu nghiệp) và bằng thân hành động (thân nghiệp). Chỉ cần đọc qua những bài tụng của Luận sư Long Thọ mở đầu phẩm Nghiệp (phẩm 17) trong luận Trung quán, cũng đủ thấy thuyết Nghiệp của đạo Phật nên nhận thức thế nào mới đúng đắn, và áp dụng vào đời sống như thế nào mới có hiệu quả. Tôi thấy nên mượn lời của ngài Long Thọ, vốn được học giả đương thời và cả về sau này ca ngợi như là Đức Phật Thích Ca thứ hai.

"Đại thánh thuyết nhị nghiệp,

Tư dữ tùng tư sinh...”

Nghĩa là: Đại thánh, tức Đức Phật, nói hai nghiệp là tư nghiệp (tức ý nghiệp, nghiệp do tâm ý tạo), và nghiệp từ tư nghiệp sinh ra. Nghiệp từ tư nghiệp sinh ra tức là thân nghiệp và khẩu nghiệp. Ngay trong lời Phật dạy về nghiệp, Phật đã nói ba nghiệp là ý nghiệp, thân nghiệp và khẩu nghiệp. Phật không xem nhẹ khẩu nghiệp và thân nghiệp, tuy rằng Phật khẳng định chủ đạo là ý nghiệp.

Và ở các câu tụng sau:

"Thân nghiệp cập khẩu nghiệp,

Tác dữ vô tác nghiệp

Như thị tứ sự trung,

Diệc thiện diệc bất thiện

Tùng dụng sinh phúc đức,

Tội sinh diệt như thị

Cập tư vi thất pháp

Năng liễu chư nghiệp tướng”(3).

Các bài tụng dẫn chứng trên giải thích bảy loại nghiệp. Long Thọ dựa vào lời giảng của Phật mà phân tích có bảy loại nghiệp, làm rõ cơ chế vận hành của nghiệp.

Trước hết, Long Thọ khi nói tới hai nghiệp khẩu và thân, đều kèm theo nói tác nghiệp và vô tác nghiệp. Về vấn đề này, thân nghiệp và khẩu nghiệp giống nhau, nghĩa là tác nghiệp và vô tác nghiệp, cho nên chỉ cần giải thích về thân nghiệp cũng đủ hiểu. Thí dụ, chúng ta đảnh lễ tượng Phật. Đảnh lễ Phật rõ ràng là có thân hành động, gọi là thân tác nghiệp. Thân đảnh lễ xong rồi, không đảnh lễ nữa nhưng thân nghiệp vẫn tồn tại dưới dạng chủng tử, lưu lại trong thức A lại da, gọi là vô tác nghiệp. Nên chú ý cái gọi là vô tác nghiệp không mất đi đâu, nó vẫn sống dưới dạng tiềm ẩn tương tục không mất. Sách Phật gọi là dị thục, nghĩa là chủng tử đó tuy không mất, tức là không bị đoạn, nhưng không phải là thường, bất biến. Nó vẫn biến đổi không ngừng cho tới khi chín muồi thành quả báo trong đời này hoặc đời sau. Đó là cơ chế vận hành tương tục của nghiệp.

Thân nghiệp đó, đứng về hình dạng mà nói thì phân biệt thành tác nghiệp và vô tác nghiệp, nhưng đứng về tác dụng thiện ác mà nói thì phân biệt thành thân nghiệp thiện và bất thiện. Trường hợp tôi vừa dẫn chứng là một trường hơp thân nghiệp thiện. Vì đảnh lễ Phật là một thân nghiệp thiện. Nhưng phúc đức của việc mình đảnh lễ Phật như thế nào thì cần xét tác dụng thực tế của nó. Nếu tôi đi lễ Phật ở chùa, mà còn rủ các bạn tôi cùng đi theo; lễ Phật xong rồi, tôi còn giảng giải cho các bạn tôi về ý nghĩa của lễ Phật, khuyên họ thực hành lễ Phật không những ở chùa, mà cả ở nhà họ, trước một bàn thờ giản dị và trang nghiêm... Có thể nói, khi tạo ra một thân nghiệp thiện hay một khẩu nghiệp thiện, chúng ta tạo ra cả một dây chuyền phản ứng nhân quả tương tục, khiến công đức chúng ta tăng lên đến chỗ không nghĩ bàn. Sự phân tích này khích lệ chúng ta làm điều thiện, dù là những điều thiện rất bình thường, miễn là dụng tâm của chúng ta tốt đẹp, xuất phát từ tình thương yêu chân thật và mở rộng đối với mọi người, mọi vật. Nếu xét tác dụng của nghiệp thiện, chúng ta có thể nói, tác dụng đó là bất khả lượng, chỉ có trí tuệ Phật, con mắt của Phật mới có thể nhìn thấu suốt được. Trong kinh 42 chương, chương 10, có vị Sa môn hỏi Phật về hạnh tùy hỷ. Thấy người khác bố thí tài vật hay bố thí pháp, chúng ta hỗ trợ với tấm lòng hoan hỷ. Phật nói phúc đức của người hỗ trợ đó lớn vô cùng, không hết được. Phật dạy: “Cũng như đem cho người khác một bó đuốc, rồi có hàng trăm, hàng ngàn người dùng lửa của bó đuốc đó, người thì dùng để thắp sáng, người thì dùng để nấu ăn, mà lửa của bó đuốc vẫn như cũ, thì phúc đức của sự tùy hỷ cũng như vậy”.

Chúng ta thử nghĩ xem: Thấy người khác làm việc thiện, chúng ta chỉ tùy hỷ mà thôi, chỉ tỏ lòng hoan nghênh, hoan hỷ mà thôi, phúc đức của chúng ta cũng đã lớn rồi, huống hồ là chúng ta tự mình nói thiện, thân làm thiện, tâm suy nghĩ thiện... và cứ làm như vậy cả ngày khi có cơ hội, có nhân duyên thì làm. Có thể nói đó là phúc đẳng hà sa (phúc nhiều như cát sông vậy)!

Nếu những Phật tử chúng ta nắm được cơ chế vận hành của nghiệp như thế, rồi ứng dụng vào cuộc sống hàng ngày của chúng ta thì chúng ta không còn phải lo gì nữa. Đời này và cả đời sau, hạnh phúc và an lạc đến với chúng ta như bóng không rời hình.

Để minh họa cơ chế vận hành của nghiệp, tôi toàn dùng những ví dụ nghiệp thiện. Nhưng nếu chúng ta sống phóng dật, chạy theo các dục và làm điều ác, thì nghiệp báo dị thục dành cho chúng ta đời này và đời sau, cũng là không thể lường. Tôi lấy lại ví dụ của ngài Thanh Mục ở sớ giải của ngài viết về phẩm Nghiệp trong luận Trung quán. Ngài dùng ví dụ một người bắn cung với dụng tâm giết một người. Khi tên vừa bắn ra, trúng hay không trúng, người đó đã phạm tội bắn tên, với dụng tâm giết người. Nếu anh ta bắn trúng đích, người trúng tên bị chết, thì người bắn lại phạm thêm một tội nữa là sát nhân, nếu xét về tác dụng mà luận tội. Không những thế, việc người bị bắn chết có thể kéo theo sau cả một dây chuyền hậu quả, làm tăng thêm tội cho người bắn. Như người vợ trở thành quả phụ, các con của bà ta trở thành cô nhi, không nơi nương tựa, không được giáo dục rồi cũng có thể ra đời, phạm lỗi lầm hay tội ác. Đó là cả một dây chuyền hậu quả mà người bắn không lường hết được, tội của người bắn không phải chỉ là tội sát sinh, mà cộng thêm bao tội khác nữa.

4. Vài lời kết luận

Có thể nói thuyết nghiệp của đạo Phật đề cao vai trò chủ đạo của ý thức (tức vai trò của tư), nhưng cũng không xem nhẹ vai trò của thân nghiệp, của khẩu nghiệp, xuất phát từ dụng tâm của ý thức. Đồng thời, qua sự phân tích sâu sắc của ngài Long Thọ về tác nghiệp và vô tác nghiệp, và nhất là dây chuyền của nghiệp thiện, nghiệp ác, chúng ta, các Phật tử hậu học, có khả năng một cách chủ động và có ý thức vận dụng cơ chế vận hành của nghiệp để sáng tạo ra cuộc đời chúng ta, hạnh phúc chúng ta, không những ở đời này mà cả ở đời sau nữa.

(1) Thi kinh tam bách thiên. Nhất ngôn dĩ quán chi, thị tư vô tà (Luận ngữ).

(2) Cư trần lạc đạo thả tùy duyên

Cơ tắc xan hề khốn tắc miên

Gia trung hữu bảo hưu tầm mích

Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền.

(Ở đời vui đạo hãy tùy duyên

Hễ đói thì ăn mệt ngủ liền

Trong nhà sẵn ngọc tìm đâu nữa

Đối cảnh vô tâm chớ hỏi thiền).

(3) Thân nghiệp và khẩu nghiệp, tác nghiệp và vô tác nghiệp: Như vậy trong bốn sự này, có thiện và bất thiện.

Tùy theo tác dụng mà có phúc đức

Cũng tùy theo có tác dụng mà có tội

Cùng với tư là bảy pháp

Có thể hiểu tướng của các nghiệp.

Thay vì dùng khái niệm tác nghiệp và vô tác nghiệp như luận Trung quán, ngài Thế Thân trong luận Câu xá dùng khái niệm biểu nghiệp và vô biểu nghiệp. Biểu nghiệp là nghiệp biểu hiện thành hành động nơi thân, hay là lời nói nơi miệng. Ý nghĩa cũng tương tự. Còn tác nghiệp là nghiệp biểu hiện thành có tạo tác, có hành động nơi thân hay nơi lời nói.

---o0o---

Trình bày: Nhị Tường

Nguồn: Giác Ngộ

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
06/09/2022(Xem: 2273)
Duyên khởi cho bài viết này là từ một bản tin BBC News có nhan đề “Thiền định chánh niệm có thể khiến con người xấu tính đi?”--- và từ một số cuộc nghiên cứu khác đã giúp chúng ta có cái nhìn đa diện hơn về Thiền chánh niệm, một pháp môn nhà Phật đang thịnh hành khắp thế giới. Trong khi Thiền chánh niệm (Mindfulness meditation) lợi ích nhiều vô tận, vẫn có một số bất lợi sinh khởi. Có phải là vì thế gian chưa làm cho phù hợp? Do vậy, người viết đã tìm đọc nhiều hơn, để nhìn lại vấn đề theo nhiều khía cạnh. Và rồi dò theo con đường xưa, Đức Phật đã dạy thiền như thế nào? Kinh điển rất mực mênh mông, bài viết này chỉ là tổng hợp một phần nhỏ, chủ yếu là trích dẫn những lời dạy thực dụng của Đức Phật. Đối với các sai sót có thể có, người viết xin được sám hối.
26/08/2022(Xem: 2283)
Sai lầm lớn nhất của con người là cố chấp cái nhìn cục bộ của mình. Thực ra chân lý là pháp phổ biến, không dành riêng cho bất cứ ai. Mỗi người giác ngộ chân lý qua tầm nhìn của mình về chính mình và vạn pháp. Người có tầm nhìn lớn nhất là người thông suốt được tất cả tầm nhìn của nhân loại. Như đức Phật thấy được 62 tà kiến của thế gian. Đừng hiểu tà kiến là thấy sai, cái sai không phải ở thấy mà ở cố chấp cục bộ. Ví dụ như những người mù sờ voi, cho con voi là cái chân, cái bụng, cái lưng, cái ngà, cái đuôi, cái vòi, cái tai, con mắt
25/08/2022(Xem: 1900)
Thiền tập CHÁNH NIỆM sẽ giúp cho chúng ta cảm nhận được sự an lạc trong từng giây phút của cuộc sống. Thiền cũng tăng sự tập trung, tăng kỹ năng nhớ, vượt qua áp lực căng thẳng trong đời sống hằng ngày… Thể theo nhiều yêu cầu của các bạn trong và ngoài nước, buổi họp ra mắt lớp Thiền Tập Chánh Niệm và Yoga sẽ được họp qua hệ thống ZOOM. Vào: * Ngày 24 tháng 09, 2022 lúc 6:30pm-8:00pm (Central time/Hoa Kỳ-Tối Thứ 7 tại Hoa Kỳ) *Nhằm ngày 25 tháng 09, 2022 lúc 6:30am-8:00am (sáng Chủ Nhật tại Việt Nam)
07/01/2022(Xem: 3229)
Chứng ngộ không phải là một kết luận mà người ta đạt được bằng suy luận; nó coi thường mọi xác định của trí năng. Những ai đã từng kinh nghiệm điều nầy đều không thể giải thích nó một cách mạch lạc và hợp lý. Một khi người ta cố tình giải thích nó bằng ngôn từ hay cử chỉ, thì nội dung của nó đã bị thương tổn ít nhiều. Vì thế, kẻ sơ cơ không thể vói tới nó bằng những cái hiển hiện bên ngoài, mà những ai đã kinh nghiệm qua một lần chứng ngộ thì thấy rõ ngay những gì thực sự không phải là nó. Kinh nghiệm chứng ngộ do đó luôn luôn mang đặc tính ‘bội lý,’ khó giải, khó truyền. Theo Thiền sư Đại Huệ thì Thiền như là một đống lửa cháy lớn; khi đến gần nhất định sém mặt. Lại nữa, nó như một lưỡi kiếm sắp rút ra khỏi vỏ; một khi rút ra thì nhất định có kẻ mất mạng. Nhưng nếu không rút ra khỏi vỏ, không đến gần lửa thì chẳng hơn gì một cục đá hay một khúc gỗ. Muốn đến nơi thì phải có một cá tính quả quyết và một tinh thần sung mãn. Ở đây chẳng có gợi lên một chút suy luận lạnh lùng hay phân biệt
12/12/2021(Xem: 3220)
Thế Tôn là bậc tuệ tri mọi pháp, bậc y vương, thầy của trời người trong tam giới. Vì thế, Đấng Thiện Thệ trong 45 năm thuyết pháp đã để lại cho thế gian một kho tàng pháp bảo, là những diệu dược tùy theo bệnh (tham sân si) của chúng sanh mà kê toa thích ứng nhằm chuyển hóa nỗi khổ, niềm đau thành an lạc, niết bàn. Riêng trong tạng Pali, ngoài tứ niệm xứ, minh sát tuệ, Thế Tôn từ mẫn với trí tuệ toàn giác (tuệ tri mọi pháp) đã 'có nhiều phác đồ điều trị khác nhau trên nền tảng của đạo đế: Bát Chánh Đạo' diệu dụng mà theo đó tùy theo căn cơ (tùy pháp, hành pháp), sẽ đến bờ giải thoát, hoặc bậc hữu học vv.
16/11/2021(Xem: 7114)
01. Niết-bàn 02. Vô minh 03. Giáo lý Vô thường 04. Không có ngã hay Không phải ngã 05. Pháp môn Không phải ngã 06. Định nghĩa của Niệm 07. Giáo dục lòng Từ Bi 08. Tin vào Trái Tim: Giáo lý về Saṁvega & Pasāda 09. Làm sao để hiểu tâm mình? 10. Hoà Giải, Phải & Trái 11. Gốc rễ của chủ nghĩa Lãng mạn Phật giáo * AFFIRMING THE TRUTHS OF THE HEART - BUDDHIST ESSAYS by Thanissaro Bhikkhu CONTENTS 01. The Image of Nirvāṇa 02. Ignorance 03. All About Change 04. No-self or Not-self? 05. The Not-self Strategy 06. Mindfulness Defined 07. Educating Compassion 08. Affirming the Truths of the Heart: The Buddhist Teachings on Saṁvega & Pasāda 09. How to Read Your Own Mind 10. Reconciliation, Right & Wrong 11. The Roots of Buddhist Romanticism
06/11/2021(Xem: 8972)
Kinh Hoa Nghiêm là tên gọi tắt của bộ ‘Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh’ do Ngài Long Thọ Bồ tát viết ra vào thế kỷ thứ 2, tức khoảng 600 năm sau khi Đức Thích Ca Mâu Ni nhập diệt. Hoa Nghiêm (Avatamsaka) có nghĩa là đóa hoa tuyệt đẹp, thanh khiết. Phần Hán tự đã được dịch ra từ thế kỷ thứ 5, dưới ba hệ thống Bát Nhã (40 quyển), Giác Hiền (60 quyển) và Nan Đà (80 quyển) . Nhập-Pháp-Giới (Gandavyuha) là phẩm thứ 39 trong số 40 phẩm, cũng là phẩm dài nhất, tiêu biểu cho giáo lý căn bản của kinh Hoa Nghiêm nói riêng và Phật giáo Đại thừa nói chung, diễn tả con đường cầu đạo của ngài Thiện Tài Đồng Tử qua 52 vị Thiện Tri Thức dưới nhiều hình tướng, khởi đầu là ngài Văn Thù Sư Lợi, chư Thiên, Dạ thần, Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Đức Phật Di Lặc..., và cuối cùng là Ngài Phổ Hiền.
18/06/2021(Xem: 9289)
Tác phẩm này là tuyển tập 7 bài pháp thoại của tôi trong các khóa tu thiền Vipassanā tại chùa Giác Ngộ và một số nơi khác. Kinh văn chính yếu của tác phẩm này dựa vào kinh Tứ niệm xứ thuộc kinh Trung bộ và kinh Đại niệm xứ thuộc kinh Trường bộ vốn là 2 bản văn quan trọng nhất giới thiệu về thiền của đức Phật. Thiền quán hay thiền minh sát (Vipassanā bhāvanā) còn được gọi là thiền tuệ (vipassanāñāṇa). Giá trị của thiền quán là mang lại trí tuệ cho người thực tập thiền. Minh sát (vipassanā) là nhìn thẩm thấu bằng tâm, nhìn mọi sự vật một cách sâu sắc “như chúng đang là”, hạn chế tối đa sự can thiệp ý thức chủ quan vào sự vật được quan sát, khi các giác quan tiếp xúc với đối tượng trần cảnh. Khi các suy luận dù là diễn dịch, quy nạp, tổng hợp, phân tích… thoát ra khỏi ý thức về chấp ngã chủ quan và chấp ngã khách quan, lúc đó ta có thể nhìn sự vật đúng với bản chất của chúng. Cốt lõi của thiền quán là chính niệm trực tiếp (satimā) và tỉnh giác trực tiếp (sampajāno) với đối tượng
03/04/2021(Xem: 4650)
Trước khi vào nội dung bài viết ta nhắc lại một vài kiến thức của vật lý cấp 2 phổ thông cần thiết cho chủ đề này. Một vài thuật ngữ: Trọng tâm G của một vật: là điểm đặt của trọng lực P tác dụng lên vật đó (P được biểu thị bằng một mũi tên thẳng đứng có chiều hướng xuống dưới). Chân đế: là đa giác lồi nhỏ nhất chứa tất cả các điểm tiếp xúc giữa một vật với mặt phẳng đỡ nó. Chân đế là một hình phẳng, nó cũng có trọng tâm G1, với những hình đặc biệt như hình vuông thì trọng tâm của nó là giao điểm của 2 đường chéo, nếu là hình tam giác thì trọng tâm của nó là giao điểm của 3 đường trung tuyến.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567