Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phụ lục

14/12/201206:20(Xem: 6115)
Phụ lục

CỬA VÀO TỊNH TÔNG

Pháp sư Tịnh Không giảng
Cư sĩ Ngô Chân Độ ghi lại
Việt dịch: Thích nữ Viên Thắng - Hiệu đính: Định Huệ

Phụ lục

Người nội trợ gia đình tu đạo Bồ-tát như thế nào trong cuộc sống hàng ngày

Mỗi ngày, làm công việc giống nhau thì nhất định sẽ cảm thấy buồn chán tẻ nhạt, đặc biệt là các bà nội trợ gia đình dường như quần quật suốt ngày với vô số công việc, vì không giải thoát được nên có rất nhiềungười đều cảm thấy buồn khổ. Nếu như mọi người biết chuyển đổi quan niệm này thì làm việc sẽ rất vui vẻ. Theo quan niệm phàm phu vì chấp có cái ta; ta làm việc, ta rất cực khổ, vì sao suốt ngày mình làm tôi đòi cho mọi người, càng nghĩ càng buồn phiền. Nếu mọi người học theo đạo Bồ-tát phát đại thệ nguyện phải độ khắp chúng sinh thì cách nghĩ, cách nhìn sẽ không khác.

Hành đạo Bồ-tát, trước tiên là phải tu Bố thí Ba-la-mật. Bồ-tát nội trợ trong gia đình phục vụ cho cả nhà chính là Bố thí Ba-la-mật. Bố thí có ba loại là tài thí, pháp thí và vô úy thí. Tài thí có nội tài và ngoại tài. Ngoại tài là chỉ cho người đi làm kiếm tiền bên ngoài đem về cung cấp sinh hoạt cho cả gia đình. Nội tài là đem sức lực, trí tuệ của mình phục vụ cho cả nhà. Người làm công việc nhà có đầy đủ ba loại bố thí này. Chúng ta sắp xếp làm việc nhà gọn gàng, ngăn nắp, sạch sẽ khiếncho người nhà dễ chịu, hàng xóm khâm phục, đây là Trì giới Ba-la-mật; trì giới chính là giữ phép tắc. Chúng ta làm việc bằng tâm nhẫn nại, làmkhông mỏi mệt, tức là Nhẫn nhục Ba-la-mật.

Mỗi ngày chúng ta thường xuyên sửa đổi, hi vọng ngày mai làm tốt hơn ngày hôm nay, đây là Tinh tấn Ba-la-mật. Mặc dù mỗi ngày chúng ta làm rất nhiều việc nhà, nhưng tâm thanh tịnh không nhiễm chút bụi trần, tức là Thiền định Ba-la-mật. Tâm thanh tịnh thì phát sinh trí tuệ, pháp hỉ sung mãn là Bát-nhã Ba-la-mật. Khi giác ngộ rồi thì chúng ta làm việc lau bàn, quét nhà, giặt giũ, nấu ăn đều thành tựu viên mãn sáu pháp Ba-la-mật của Bồ-tát. Đây chính là Thiện Tài đồng tử đã biểu diễn cách học hạnh Bồ-tát, tu đạo Bồ-tát trong kinh Hoa Nghiêm.

Chúng ta làm tốt việc nhà là làm tấm gương cho tất cả các bà nội trợ ởthế gian, mẫu mực cho mọi người trong gia đình. Việc này có thể độ đượcngười hàng xóm, rộng ra ảnh hưởng đến xã hội, quốc gia, thế giới, cho đến khắp hư không pháp giới. Lúc này, chúng ta mới hiểu được Bồ-tát ở ngay trong nhà là lau bàn, quét nhà, giặt giũ, nấu ăn vốn là đại nguyện,đại hạnh, làm việc độ khắp tất cả chúng sinh khắp hư không pháp giới. Đây là học Phật, là chánh niệm, là thật tướng các pháp. Nếu chúng ta quán được như vậy thì pháp hỷ sung mãn, làm sao khởi phiền não được. Tu học Phật pháp nhất định phải đạt được ngay trong cuộc sống thực tại, chúng ta không đạt được thì vô ích. Nếu chúng ta hiểu rõ điều này thì suy ra các điều khác, làm trong công ty cũng là tu sáu Ba-la-mật. Bồ-tátở mọi ngành mọi nghề thị hiện ra nam, nữ, già, trẻ thân phận không giống nhau đều trong môi trường tu học tất cả đều bình đẳng giống nhau, đều đứng hạng nhất không có hạng nhì.

Pháp mười niệm tinh yếu

Mọi người đề nghị tôi đem những điều thuyết giảng tóm tắt thành pháp mười niệm làm phép tắc thường ngày cho người học Tịnh tông từ nay về sautự tu và cộng tu. Điều này xin nói như sau:

A. Tự tu: Là phương pháp trong một ngày, chúng ta niệm mười tiếng danh hiệu Phật đủ chín lần. Nghĩa là sángsớm thức dậy niệm một lần và trước khi đi ngủ niệm một lần, ngày ăn ba bữa, mỗi bữa ăn niệm một lần, buổi sáng trước khi bắt đầu làm việc niệm một lần, đến khi nghỉ niệm một lần, buổi chiều bắt đầu làm việc niệm mộtlần, đến lúc nghỉ niệm một lần; tổng cộng là chín lần. Mỗi lần xưng niệm mười tiếng, bốn chữ hoặc sáu chữ danh hiệu Di-đà. Chúng ta nên có định khóa thường ngày theo đó mà thực hành.

B. Cộng tu:Mọi người tập hợp lại, không có nghi thức đặc biệt như giảng kinh, khai hội, dùng cơm v.v… Lúc bắt đầu ở chung làm việc, nên thực hành pháp mười niệm này; cũng tức là cùng đại chúng chắp tay đồng niệm mười tiếng Nam mô A-di-đà Phật. Sau đóbắt đầu hoạt động, làm các việc như tụng kinh, khai hội, dùng cơm v.v…

Theo pháp mười niệm này, tự tu và cộng tu đều được lợi ích đặc biệt, tôi thử nêu ra như sau:

1. Pháp này đơn giản dễ thực hành, ít tốn thời gian mà được hiệu quả lớn, thực sự rất quan trọng, có thể phổ biến rộng rãi lâu dài.

2. Phương pháp có hiệu quả cụ thể trong “gia đình Phật pháp”. Thực hành ngày ba bữa ăn trong gia đình thì thành viên cả nhà dù tin hay không tin đều phải giữ gìn không bỏ; lại có lợi ích rất nhiều là Phật hóa bạn bè, thân thuộc, làng xóm rộng đến khắp xã hội.

3. Nhờ đơn giản dễ thực hành, một ngày chín lần, từ sáng đến tối, niệm Phật không dừng. Nếp sống sinh hoạt mỗi ngày, niệm Phật liên tục, ngày này sang ngày khác. Lâu dần được như vậy thì khí chất, tâm tính củangười thực hành sẽ dần dần hiện ra thanh tịnh, tín tâm và pháp lạc phátsinh, phước lớn vô cùng.

4. Nếu có thể tùy thuận đích thân họa theo mà xưng niệm mười tiếng danh hiệu Phật cũng trừ bỏ được tạp nhiễm, lắng tâm thanh tịnh, tâm thầnđược định, chuyên tâm hành đạo và làm dễ thành tựu, được Phật phù hộ gặp điều an lành, công đức không thể nghĩ bàn.

5. Tự tu và cộng tu cùng giúp đỡ hòa hợp với nhau, tích tập tư lương thì nhất định mỗi người đều được vãng sanh, cùng làm sự nghiệp lớn của Bồ-tát, cũng cùng thành tựu.

6. Pháp này có thể lấy hai tên để gọi, đó là:

a. Tịnh nghiệp gia hành thập niệm pháp: Đối với người đã tu theo thời khóa nhất định, có thể thực hành thêm pháp này.

b. Giản yếu tất sinh thập niệm pháp: Là pháp thích hợp với người học Tịnh tông hiện nay cho đến sau này, phần đông không có thời khóa cố định. Bởi vì, xã hội ngày nay thay đổi, bận rộn không có thời gian, tìnhhình trở ngại khó khăn nhiều. Nhưng pháp này dễ tập hợp tư lương Tín, Nguyện, Hạnh bình dị đầy đủ, rất phù hợp với tiêu chuẩn “thu nhiếp sáu căn, tịnh niệm tương tục”.

Vì mỗi lần niệm Phật thời gian ngắn, dễ nhiếp tâm và không lười biếng; lại đem công hạnh chín lần niệm Phật chia đều nhau suốt cả ngày, thân tâm cả ngày buộc phải niệm Phật, cũng tức là trong sinh hoạt cả ngày niệm Phật, đó gọi là “niệm Phật sinh hoạt hóa”.

Nói tóm lại, pháp này đơn giản và nhẹ nhàng, chẳng chút vướng mắc cựckhổ khó khăn. Nếu pháp này được lưu hành rộng rãi thì may mắn cho ngườihọc tịnh nghiệp xiết bao! May mắn cho chúng sinh đời vị lai biết bao! Chư Phật hoan hỉ.

Nam mô A-di-đà Phật.

Năm 1994, ngày chư Phật hoan hỉ, bốn chúng của Tịnh Tông Hội Học ở nước Mỹ cùng nhau kính khuyên.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
22/12/2011(Xem: 4392)
Ở Tây Tạng nhiều đại hành giả sưu tập những sự thực hành tâm linh đưa đến giác ngộ trong một bộ sách gọi là Những Giai Tầng của Con Đường Giác Ngộ. Những giáo huấn hùng hồn về Đức Phật từ bi kể rõ chi tiết một loạt những sự thực hành mà một người may mắn có thể sử dụng cho việc rèn luyện nhằm để đạt đến giác ngộ. Các ngài chắt lọc những kinh luận Đạo Phật bao la và vô hạn mà không hy sinh bản chất tự nhiên hay sự sắp đặt cốt lõi của chúng.
17/12/2011(Xem: 3962)
Ngài Long Thọ mở đầu Trung Luận bằng một bài tụng kính lễ Đức Phật giảng lí tính duyên khởi và tịch lạc của niết bàn.
13/12/2011(Xem: 5028)
Sự thực hành chuyển hóa tâm thức của Phật giáo chủ yếu gồm ba pháp: Chỉ (hay Định), Quán, và Chỉ Quán song tu. Ba pháp này dựa vào ba khả năng của tâm thức con người: Sự tập trung (Chỉ), sự quan sát có khi cộng thêm với sự tưởng tượng (Quán), và thực hành cả hai cái ấy cùng một lúc. Quán là quán sát (to examine), quán tưởng (to visualize), tưởng tượng (to imagine); các học giả Tây phương dịch chữ Quán bằng ba động từ này. Mục đích của thực hành quán là để thấy sự thật vô ngã và vô pháp.
27/11/2011(Xem: 6122)
“Từ bi là căn bản”, đây là lời nói viên mãn chính xác, là tâm tuỷ của Phật giáo Đại thừa, biểu đạt được nội dung chân thật của Phật giáo. Vì vậy tín đồ của Phật giáo Đại thừa nên tư duy nghiêm mật, nắm bắt thiết thực nhất!
26/11/2011(Xem: 5169)
Ba la mật thứ tư: Tinh tấn Tsöndruthường được dịch là “tinh tấn.” Tuy nhiên, trong văn cảnh của Phật giáo, thuật ngữ này có ý nghĩa rộng hơn nhiều. Nó không chỉ hàm ý sử dụng nỗ lực và cần cù mà còn là cảm nhận sự thích thú và nhiệt tâm đối với các thiện hạnh.
23/10/2011(Xem: 10132)
Khi người ta đến để nghe tôi giảng, nhiều người làm như thế với mục tiêu đón nhận một thông điệp hay một kỹ năng cho việc bảo vệ niềm hòa bình nội tại và cho việc đạt đến một sự thành công trong đời sống. Một số người có thể đơn giản biểu lộ sự tò mò, nhưng điều quan trọng nên biết là tất cả chúng ta giống nhau, tất cả là những con người. Tôi không có gì đặc biệt: tôi chỉ là một ông thầy tu giản dị. Chỉ là một con người. Và tất cả chúng ta đều có khả năng cho những điều tốt đẹp cũng như những điều xấu xí. Cũng thế, tất cả chúng ta đều có quyền để hướng dẫn những đời sống hạnhphúc. Điều này có nghĩa là những ngày và những đêm vui vẻ; trong cách này, đời sống chúng ta trở nên hạnh phúc.
19/10/2011(Xem: 4732)
Có một bài thuyết pháp của Đức Thế Tôn mà không thấy sách sử ghi lại, bài thuyết ấy cũng tại Vườn Nai, xứ Ba La Nại, được nói ra trước bài kinh Tứ Diệu Đế chỉ vài giờ. Bài thuyết pháp ấy không lời. Khi Đức Thế Tôn bước từng bước chân an lạc trở về Vườn Nai, các vị trong nhóm ông Kiều Trần Như đã tiếp nhận được ánh sáng hạnh phúc đó và đã chuyển hóa được năng lượng tiêu cực đang phát khởi trong tâm bằng cách quỳ dài xuống đất để đón tiếp.
13/10/2011(Xem: 4874)
Phần lớn các nhà nghiên cứu Tây phương vào thế kỷ 19 chịu ảnh hưởng sâu xa của Phật giáo Nguyên thủy. Kinh điển Nguyên thủy được sưu tập và phiên dịch bởi những học giả có định kiến Phật giáo là ‘một tôn giáo trốn lánh đời và tiêu cực thụ động’. Họ bỏ qua những hoạt động của một số tăng già trong các phong trào chánh trị “chống thực dân ’ ở các quốc gia thuộc vùng Đông Nam Á và có lẽ xem các nhà sư liên hệ đến chính trị là những ‘chuyên viên quấy rối’. Ở Tây phương từ ngữ Phật giáo nhập thế chỉ mới xuất hiện gần đây.
12/10/2011(Xem: 7176)
Truyền thống PG Tây Tạng chia giáo pháp Đức Phật ra ba thời kỳ chuyển pháp luân: thời kỳ đầu, dạy pháp Tứ Diệu Đế; thời kỳ thứ nhì, dạy pháp Tánh Không...
04/10/2011(Xem: 4000)
Quan điểm phủ nhận về một đấng toàn năng và vĩnh cửu đã được thể hiện trong kinh tạng Phật giáo Pali cũng như kinh tạng Phật giáo Mahayana. Thái độ của Phật giáo đối với các khái niệm và ý tưởng về đấng sáng tạo và các vị thần được cho là ý niệm hão huyền, không mang lại hạnh phúc thực sự cho con người, không phù hợp với giáo lý của đức Phật vốn lấy con người làm đối tượng cao nhất trong việc giải quyết những nỗi khổ đau đang hiện hữu.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]