Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương 01: Vì sao chúng ta tu theo pháp môn Tịnh Độ

14/12/201206:20(Xem: 5442)
Chương 01: Vì sao chúng ta tu theo pháp môn Tịnh Độ

CỬA VÀO TỊNH TÔNG

Pháp sư Tịnh Không giảng
Cư sĩ Ngô Chân Độ ghi lại
Việt dịch: Thích nữ Viên Thắng - Hiệu đính: Định Huệ

Chương 1

Vì sao chúng ta tu theo pháp môn Tịnh Độ

Chúng ta tu học Phật pháp, mục tiêu đầu tiên tất nhiên phải thoát ly sinh tử, ra khỏi lục đạo luân hồi. Ngay đời này, chúng ta phải hiểu rõ liễu thoát sanh tử là việc trọng đại, kinh Pháp hoanói là “Đạisự nhân duyên”. Đức Phật dạy chúng ta rất nhiều trong các kinh luận Đạithừa, bất luận là lý luận hay phương pháp nào cũng đều lấy việc liễu thoát sanh tử, ra khỏi ba cõi làm mục tiêu tối hậu.

Phật pháp bắt đầu truyền từ Ấn Độ cho đến ngày nay, theo lịch sử Trung Quốc ghi lại là đã được 3000 năm, theo lịch sử nước ngoài thì cũnghơn 2500 năm, giáo pháp truyền rất lâu như vậy thế nào cũng có những điều tồi tệ xảy ra. Hiện nay là thời đại mạt pháp theo kinh Đại thừa ghinăm lần 500 năm, cũng chính là nói sau khi Đức Phật Thích-ca Mâu-ni nhập diệt 2500 năm, vào thời đại này căn tính của chúng sinh khác xa vớithời xưa. Do đó, tuy có nhiều kinh luận và pháp môn khác nhau, không phải là không tốt, nhưng chúng ta là người tu học ở thời hiện đại chỉ nói được mà làm không được.

Y theo nguyên tắc lý luận của kinh Đại thừa, bất luận chúng ta tu họcpháp môn nào như Hiển giáo, Mật giáo, Thiền tông hay các tông khác đều phải đoạn dứt Kiến, Tư phiền não thì mới liễu thoát sinh tử. Thế nào là Kiến, Tư phiền não? Nói đơn giản, Kiến là chỉ kiến giải sai lầm, cách nhìn sai lầm về vũ trụ nhân sinh, gọi là “Kiến phiền não”. Tư là chỉ tư tưởng sai lầm, cách nghĩ sai lầm. Phạm vi của Kiến, Tư bao quát rất rộnglớn.

Trong kinh luận, Đức Phật đem những Kiến, Tư phiền não hợp lại thành mười đại loại, đây chỉ vì phương tiện thuyết pháp mà lập ra. Tôi nói thật, bất kỳ một loại nào trong mười đại loại, người tu hiện nay không đoạn được một loại, huống gì mười loại? Nếu chúng ta không thể đoạn đượcphiền não thì dù tu học cả đời cũng không thể thành tựu, đây không phảilà bệnh của một người mà là bệnh chung của người hiện nay.

Chúng ta hãy đọc luận Niệm Phật của đại sư Đàm Hư, Đại sư từng than thở: Suốt một đời những điều Đại sư đã thấy, đã nghe, người tham thiền có khả năng chứng đắc thiền định rất ít, nhưng tham thiền được khai ngộ thì chẳng những suốt đời Đại sư chưa thấy mà cũng chưa hề nghe qua. Đây chỉ là một ví dụ nêu lên mà thôi.

Nếu như người tham thiền mà không thể đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh thì không thể gọi là thành tựu. Công phu đắc thiền định có saikhác, vì định có cạn sâu như đắc Sơ thiền, Nhị thiền là công phu cạn; đắc Tam thiền, Tứ thiền là công phu sâu. Ngay cả chứng Tứ thiền thiên vàTứ không thiên vẫn không thoát khỏi cõi trời, huống gì người đắc thiền định, quả là hiếm có. Đây chính là nói bởi chúng sinh trong thời mạt pháp phiền não tập khí quá sâu nặng, lại thêm cảnh duyên bên ngoài của hoàn cảnh bất thiện. Thế nào là bất thiện? Là bị tiền của, sắc đẹp, danhtiếng, ăn uống, ngủ nghỉ lôi cuốn, bên trong bị phiền não dày vò thôi thúc, bên ngoài bị cám dỗ mê hoặc thì làm sao chúng ta có thể thành tựu được!

Huống gì việc tu học, theo các bậc đại đức xưa kia đã nói: “Không chíthành”. Câu này vô cùng quan trọng, ý nghĩa rất rộng sâu. Chúng ta nghequa không chú ý chỉ cười trừ, cho là việc tầm thường không đáng thực hành, nên không hiểu được câu nói này là điểm quan trọng then chốt của chúng ta.

Vì sao chúng ta không chí thành? Không ngoài hai nguyên nhân; nếu nóitheo kinh Phật thì do thiếu thiện căn, không có phước báo; nếu nói theothời nay thì có hai điều:

1. Chúng ta hiểu nghĩa lý kinh còn quá cạn cợt.

2. Chúng ta chưa nếm đủ vị đắng khổ đau khi làm người ở thế gian.

Do đó, chúng ta tu học không chí thành; đây là sai lầm lớn của chúng ta.

Vậy chúng ta phải làm thế nào mới có thể đạt được sự lợi ích thù thắng của Phật pháp? Chúng ta phải tu học thế nào để đời này có được thành tựu thật sự? Đây chính là điều của mỗi vị đồng tu mong cầu. Chúng ta đã có nguyện vọng này, tâm nguyện này thật sự có chí thành tha thiết không? Nếu như chúng ta thật sự nhận thức được điều này, thật có tâm nguyện chí thành tha thiết thì người này là ‘người giác ngộ’ như trong kinh Đức Phật đã giảng. Vị này thật sự giác ngộ.

Nếu như chúng ta còn sống say chết mộng để tháng ngày luống qua uổng phí, tâm học Phật như thế vẫn là như cũ, chỉ sống trong vô minh, mê hoặc, không có giác ngộ. Công phu tu học như vậy thì làm sao mà thành tựu!

Những năm gần đây, các điều tôi diễn giảng đều được ghi lại trong video và sau đó được viết thành văn tự, có lẽ mọi người đều đã nghe qua và xem qua. Vậy chúng ta bắt đầu vào từ cửa nào? Nhất định phải từ “Tam phúc và Lục hòa[1]”. Lục hòa không phải chỉ riêng dành cho đạo tràng của người xuất gia, nếu lục hòa chỉ riêng cho người xuất gia thì người tại gia làm sao thành tựu được?

Chúng ta phải biết lục hòa không phân biệt tại gia hay xuất gia, vì Phật pháp là pháp bình đẳng, đặc biệt là pháp môn của Tịnh tông, Phật A-di-đà đại từ, đại bi muốn cho tất cả chúng sinh trong chín pháp giới đều bình đẳng thành Phật, ở trong thời mạt pháp này nếu muốn tu thành tựu chỉ có một pháp môn này thôi.

Người niệm Phật vãng sanh, hoặc đứng, hoặc ngồi mà ra đi, biết trước thời khắc lâm chung, không có bệnh khổ, chúng ta đã xác thực đích thân nhìn thấy, hoặc nghe nói đến, nên pháp môn này được gọi là “đạo dễ hành”. Nền tảng để tu học pháp môn này vẫn là “Tam phúc, Lục hòa”. Tam phúc, Lục hòa này, tôi nghĩ các bạn đồng tu thì ai cũng đều nói được. Tuy ai cũng nói được mà làm không được, phải không? Nếu không làm được thì không có ích lợi gì.

Mấy tuần trước, tôi thuyết giảng tại Los Angeles có một vị đồng tu đến thưa:

- Thưa thầy! Con chuyên trì kinh.

Tôi hỏi:

- Anh chuyên trì kinh gì?

- Dạ, con trì kinh Vô Lượng Thọ đã ba nghìn biến.

- Anh không phải trì kinh.

- Thưa thầy, nghĩa là thế nào? Mỗi ngày con đều đọc tụng.

- Anh đọc kinh, đọc qua ba nghìn biến, chứ anh không có trì.

- Thưa thầy, thế nào gọi là trì?

- Trì là thực hành được những điều Đức Phật dạy trong kinh, anh có thực hành chưa? Anh chưa thực hành được thì chỉ được gọi là đọc kinh, ngay cả niệm kinh cũng chưa hề có. Thế nào là niệm? Tức phải ghi nhớ trong tâm, nhưng anh chỉ đọc ngoài miệng có đúng không?

- Dạ đúng!

- Anh đọc ngoài miệng mà trong tâm không ghi nhớ thì chỉ gọi là đọc kinh, chứ không thể nào gọi là niệm kinh.

- Thưa thầy! Thầy có thể nói chữ “trì” cho con nghe được không?

Tôi nêu ra một câu trong kinh: “Khéo giữ khẩu nghiệp, không chê lỗi người”, anh có thực hành được không?

Anh ta thật thà lắc đầu đáp:

- Dạ, con chưa làm được.

- Chưa làm được là anh không có trì, trong kinh Đại thừa, Đức Phật códạy: “Thọ trì, đọc tụng, giảng nói cho người”. Thọ trì xếp hàng đầu, lýluận của Đức Phật nói anh hiểu rồi, phương pháp anh cũng hiểu rõ. Anh có thể đem lý luận, phương pháp thực hành vào ngay trong đời sống hàng ngày của chính mình, đây mới gọi là “thọ trì”. Cho nên thọ trì và đọc tụng là hai việc khác nhau.

Nếu như bạn mới học Phật mà tôi bảo bạn đọc ba nghìn biến kinh thì mục đích là gì? Tôi chỉ bảo bạn nhớ kỹ lời dạy trong kinh điển, cần áp dụng ngay trong đời sống, thực hành qua cách xử sự, đãi nhân tiếp vật, đây gọi là “thọ trì”, như thế mới có cảm ứng. Nếu như bạn không làm theomà đến nói với tôi: “Con cũng có cảm ứng” thì tôi có tin không? Tôi tin. Nhưng tôi tin bạn được cảm ứng không phải từ Phật, Bồ-tát mà là cảmứng của yêu ma, quỷ quái. Thật sự yêu ma, quỷ quái đang gia hộ cho bạn,chúng nó giúp bạn tăng trưởng tham, sân, si giúp cho bạn tạo thêm ác nghiệp để mau đọa vào địa ngục A-tỳ.

Phần cuối của kinh Lăng-nghiêm, Đức Phật nói người học Phật có năm mươi loại ấm ma; ma có sự gia trì, oai thần và năng lực rất mạnh,chúng ta không thể xem thường. Nếu bạn chánh tâm, chánh hạnh thì sẽ cảmứng đạo giao với Phật, Bồ-tát; còn như tà tâm, tà hạnh thì sẽ cảm ứng đạo giao với yêu ma, quỷ quái.

Xã hội ngày nay rất là phức tạp, tình hình của lục đạo so với chúng ta hiện nay lại càng phức tạp hơn. Một người ở trong thời đại này muốn liễu thoát sinh tử, ra khỏi ba cõi quả thật chẳng dễ dàng, nhưng cũng không thể xem là quá khó, như vậy cũng lầm nốt! Thật ra vẫn có lối vào, vẫn có con đường để đi, đó là chúng ta nhất định phải vâng theo lời dạy của Đức Phật mà thực hành.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
22/12/2011(Xem: 4437)
Ở Tây Tạng nhiều đại hành giả sưu tập những sự thực hành tâm linh đưa đến giác ngộ trong một bộ sách gọi là Những Giai Tầng của Con Đường Giác Ngộ. Những giáo huấn hùng hồn về Đức Phật từ bi kể rõ chi tiết một loạt những sự thực hành mà một người may mắn có thể sử dụng cho việc rèn luyện nhằm để đạt đến giác ngộ. Các ngài chắt lọc những kinh luận Đạo Phật bao la và vô hạn mà không hy sinh bản chất tự nhiên hay sự sắp đặt cốt lõi của chúng.
17/12/2011(Xem: 4020)
Ngài Long Thọ mở đầu Trung Luận bằng một bài tụng kính lễ Đức Phật giảng lí tính duyên khởi và tịch lạc của niết bàn.
13/12/2011(Xem: 5113)
Sự thực hành chuyển hóa tâm thức của Phật giáo chủ yếu gồm ba pháp: Chỉ (hay Định), Quán, và Chỉ Quán song tu. Ba pháp này dựa vào ba khả năng của tâm thức con người: Sự tập trung (Chỉ), sự quan sát có khi cộng thêm với sự tưởng tượng (Quán), và thực hành cả hai cái ấy cùng một lúc. Quán là quán sát (to examine), quán tưởng (to visualize), tưởng tượng (to imagine); các học giả Tây phương dịch chữ Quán bằng ba động từ này. Mục đích của thực hành quán là để thấy sự thật vô ngã và vô pháp.
27/11/2011(Xem: 6249)
“Từ bi là căn bản”, đây là lời nói viên mãn chính xác, là tâm tuỷ của Phật giáo Đại thừa, biểu đạt được nội dung chân thật của Phật giáo. Vì vậy tín đồ của Phật giáo Đại thừa nên tư duy nghiêm mật, nắm bắt thiết thực nhất!
26/11/2011(Xem: 5249)
Ba la mật thứ tư: Tinh tấn Tsöndruthường được dịch là “tinh tấn.” Tuy nhiên, trong văn cảnh của Phật giáo, thuật ngữ này có ý nghĩa rộng hơn nhiều. Nó không chỉ hàm ý sử dụng nỗ lực và cần cù mà còn là cảm nhận sự thích thú và nhiệt tâm đối với các thiện hạnh.
23/10/2011(Xem: 10392)
Khi người ta đến để nghe tôi giảng, nhiều người làm như thế với mục tiêu đón nhận một thông điệp hay một kỹ năng cho việc bảo vệ niềm hòa bình nội tại và cho việc đạt đến một sự thành công trong đời sống. Một số người có thể đơn giản biểu lộ sự tò mò, nhưng điều quan trọng nên biết là tất cả chúng ta giống nhau, tất cả là những con người. Tôi không có gì đặc biệt: tôi chỉ là một ông thầy tu giản dị. Chỉ là một con người. Và tất cả chúng ta đều có khả năng cho những điều tốt đẹp cũng như những điều xấu xí. Cũng thế, tất cả chúng ta đều có quyền để hướng dẫn những đời sống hạnhphúc. Điều này có nghĩa là những ngày và những đêm vui vẻ; trong cách này, đời sống chúng ta trở nên hạnh phúc.
19/10/2011(Xem: 4877)
Có một bài thuyết pháp của Đức Thế Tôn mà không thấy sách sử ghi lại, bài thuyết ấy cũng tại Vườn Nai, xứ Ba La Nại, được nói ra trước bài kinh Tứ Diệu Đế chỉ vài giờ. Bài thuyết pháp ấy không lời. Khi Đức Thế Tôn bước từng bước chân an lạc trở về Vườn Nai, các vị trong nhóm ông Kiều Trần Như đã tiếp nhận được ánh sáng hạnh phúc đó và đã chuyển hóa được năng lượng tiêu cực đang phát khởi trong tâm bằng cách quỳ dài xuống đất để đón tiếp.
13/10/2011(Xem: 4953)
Phần lớn các nhà nghiên cứu Tây phương vào thế kỷ 19 chịu ảnh hưởng sâu xa của Phật giáo Nguyên thủy. Kinh điển Nguyên thủy được sưu tập và phiên dịch bởi những học giả có định kiến Phật giáo là ‘một tôn giáo trốn lánh đời và tiêu cực thụ động’. Họ bỏ qua những hoạt động của một số tăng già trong các phong trào chánh trị “chống thực dân ’ ở các quốc gia thuộc vùng Đông Nam Á và có lẽ xem các nhà sư liên hệ đến chính trị là những ‘chuyên viên quấy rối’. Ở Tây phương từ ngữ Phật giáo nhập thế chỉ mới xuất hiện gần đây.
12/10/2011(Xem: 7233)
Truyền thống PG Tây Tạng chia giáo pháp Đức Phật ra ba thời kỳ chuyển pháp luân: thời kỳ đầu, dạy pháp Tứ Diệu Đế; thời kỳ thứ nhì, dạy pháp Tánh Không...
04/10/2011(Xem: 4046)
Quan điểm phủ nhận về một đấng toàn năng và vĩnh cửu đã được thể hiện trong kinh tạng Phật giáo Pali cũng như kinh tạng Phật giáo Mahayana. Thái độ của Phật giáo đối với các khái niệm và ý tưởng về đấng sáng tạo và các vị thần được cho là ý niệm hão huyền, không mang lại hạnh phúc thực sự cho con người, không phù hợp với giáo lý của đức Phật vốn lấy con người làm đối tượng cao nhất trong việc giải quyết những nỗi khổ đau đang hiện hữu.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]