Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương 04: Tiêu trừ chướng ngại

14/12/201206:20(Xem: 5317)
Chương 04: Tiêu trừ chướng ngại

CỬA VÀO TỊNH TÔNG

Pháp sư Tịnh Không giảng
Cư sĩ Ngô Chân Độ ghi lại
Việt dịch: Thích nữ Viên Thắng - Hiệu đính: Định Huệ

Chương 4

Tiêu trừ chướng ngại


Ngay trong đời này, nếu chúng ta không tinh tấn tu học, không tiêu trừ những chướng ngại thì đời này không được vãng sanh; cho dù, chúng takhông tạo tội nặng nhưng cũng không thể vãng sanh. Nếu như chúng ta tiếp tục tạo tội nặng, hủy báng Phật, Pháp, Tăng thì phiền phức lớn rồi,phải bị đọa vào địa ngục và đầu thai làm súc sinh, làm kẻ ngu si, trải qua vô lượng kiếp thật là khổ sở.

Vì thế, chúng ta phải biết sám hối, phải thật sự ăn năn. Ăn năn trên căn bản là phải thay đổi quan niệm của chúng ta, sửa đổi từ trong tâm, từ trong cuộc sống hằng ngày đối với người, đối với công việc. Trước tiên, chúng ta phải sửa đổi từ trên sự tướng thì mới có hiệu quả. Đức Phật đã nói cho chúng ta nghe biết bao nhiêu là ví dụ; bởi vì, sự việc phức tạp nói không hết, chúng ta phải có khả năng nghe một biết mười. Khi nghe Đức Phật giảng một ví dụ thì liên tưởng đến nhiều sự việc tươngtự, những điều cần phải sửa đổi.

1.Không tìm lỗi của người khác

Trước tiên, từ nay về sau đối với thiện tri thức hoằng pháp, bất luận người đó là tại gia hay xuất gia, khi chúng ta nhìnthấy họ phạm lỗi; hoặc nghe nói họ phạm lỗi, dứt khoát không nói. Chúngta phải thật sự làm được “thấy mà không thấy, nghe mà không nghe”.

Chúng ta là phàm phu, cảnh giới họ là gì, làm sao chúng ta biết được?Nếu như họ là phàm phu, họ tạo tội nghiệp thì chính họ chịu quả báo, còn như chúng ta đi đến chỗ nào cũng rêu rao, cũng phân biệt, chấp trướcthì tự chúng ta phải chịu quả báo, việc này thật không nên làm. Tuyệt đối chúng ta không gây chướng ngại việc hoằng pháp lợi sinh và cũng không gây chướng ngại cơ duyên thính chúng nghe pháp ở một khu vực nào đó.

Chúng ta không nên tìm khuyết điểm của người khác, chỉ cần khởi ý nghĩ đã là không tốt rồi, huống gì thể hiện bằng hành động? Việc này gâychướng ngại rất nhiều đối với sự tu hành của chúng ta. Như vậy, tu hànhlà tu điều gì? Điều này chúng ta không thể không biết.

Chúng ta tu theo Giác, Chánh, Tịnh. Giác là không mê, Chánh là không tà, Tịnh là không nhiễm. Tông Tịnh Độ nằm trong ba điều này, đặc biệt chú trọng tâm thanh tịnh; tâm tịnh thì cõi Phật tịnh. Nếu chúng ta thường đi tìm lỗi lầm của người khác thì tâm của chúng ta làm sao thanh tịnh? Muốn tâm mình thanh tịnh, việc gì của người khác đều không nên xenvào thì tâm của chúng ta mới được thanh tịnh, mình luôn tìm lỗi của người khác thì nhất định không bao giờ có tâm thanh tịnh. Người này hoàntoàn sẽ không đắc định, không có định thì không có trí tuệ, không có định tuệ, chắc chắn người này bị vô minh phiền não che lấp. Một người suốt ngày phát sinh vô minh, phiền não thì làm sao không tạo tội nghiệp?Điều này chúng ta nhất định phải ghi nhớ.

2. Không được khen mình, chê người

Hôm qua, tôi đã nói, cho dù các vị tu hành đúng pháp, công phu đạt được hiệu quả, thật sự được thọ dụng Phật pháp, nhưng cũng không được khen mình chê người. Bệnh này thường xảy ra, mọi người thường hay ca ngợi pháp môn của mình, tự cho mình tu hành thành công, người khác khônglàm được; điều này là không nên, cũng là vọng tưởng, phân biệt, chấp trước.

Bạn tự cho mình tu hành thành tựu. Vậy so với Bồ-tát và A-la-hán thì sao? Khác xa, điều này phải tính thế nào? Tuyệt đối không được khen mìnhrồi phỉ báng người khác, tình trạng này đã có từ xưa, ngày nay lại rất nhiều mà không biết tội nghiệp này rất nặng.

Chúng ta niệm Phật cầu sinh về Tịnh độ Tây phương Cực Lạc; thấy ngườitham thiền giống như gặp oan gia đối đầu; thấy người tu học Mật tông cũng như vậy. Như thế có được không? Thiền là Đức Phật truyền, Mật cũng do Ngài nói ra. Nếu chúng ta hủy báng họ, chẳng phải hủy báng Đức Phật, hủy báng giáo pháp hay sao? Trước đây, người tu theo Thiền, Mật thành tựu rất đông, mặc dù ngày nay hơi ít. Như vậy chẳng phải hủy báng Tăng hay sao?

Vì thế, vô tình chúng ta thường phạm tội lỗi này, khen mình chê người, phỉ báng Tam bảo thì bị đọa vào địa ngục A-tỳ. Việc ngu dốt này, từ nay về sau chúng ta không nên tái phạm nữa. Vậy chúng ta phải thể hiện thái độ như thế nào? Khi nhìn thấy người khác tham thiền, trì chú; chúng ta cung kính vui mừng ca ngợi họ, không được phỉ báng.

Năm 1977, tôi ở Hồng Kông giảng kinh Lăng-nghiêm. Pháp sư Thánh Nhất đến thăm tôi và nghe giảng kinh. Nghe xong ba ngày, pháp sư rất vui mừng, khuyến khích các Phật tử đến nghe tôi giảng; họ đều tu thiền. Một hôm, pháp sư mời tôi đến chùa tham quan, tôi cũng hoan hỉ đồng ý. Pháp sư ở phía sau chùa Bảo Liên, núi Đại Tự có một con đường nhỏ, xe không chạy được, người đi bộ khoảng ba, bốn mươi phút mới đến chùa.

Pháp sư nói với tôi lý do không mở đường chính là vì cố ý khiến cho bất tiện đối với khách vãng lai; nếu bạn không thật sự tham học thì không cần đến đây; cho nên không mở đường, dụng ý này rất hay. Khi tôi đến nơi vừa xem qua thì vô cùng khâm phục, cả đời tôi chưa hề thấy qua đạo tràng nào trang nghiêm thanh tịnh đến thế. Ở đây có khoảng hơn bốn mươi vị Tăng chúng thường trụ, mỗi ngày họ tham thiền theo thời gian tàncây hương.

Pháp sư mời tôi vào thiền đường giảng pháp, tôi không thể giảng tham Thiền là pháp tu không thành tựu, chỉ có niệm Phật mới đạt hiệu quả. Nhưthế chẳng phải phá hoại đạo tràng của người ta sao? Điều này, tuyệt đốikhông thể làm. May mà trước đây, tôi từng giảng qua các kinh Kim cang, Lục Tổ đàn kinh, Vĩnh Gia thiền tông tập, Chứng đạo ca.Nói về Thiền tông, tôi cũng đã giảng qua một vài lần, cho nên khẩu đầu Thiền cũng khá. Tôi tán thán khâm phục, ca ngợi đạo tràng của họ, khen pháp sư và khen đại chúng tham học, đây là điều cần phải làm.

Sau khi ra về, trên đường về có vị đồng tu hỏi:

- Thưa pháp sư! Ngài đối với Thiền ca ngợi như thế. Vì sao pháp sư niệm Phật A-di-đà?

Tôi nói với họ, bởi vì căn tánh của tôi không nhạy bén, tham Thiền không bằng người khác. Nói cách khác tôi không thể khai ngộ, ngay cả Thiền định tôi cũng chưa nắm vững. Niệm Phật là nương theo Phật A-di-đà vãng sanh về thế giới Tây phương Cực Lạc, tôi chỉ nắm vững điểm này.

Tôi nói những điều này là sự thật; vì thế, đạo Phật thường nói: “Nếu muốn Phật pháp hưng thịnh, chỉ có Tăng ca ngợi Tăng”. Hai bên đều ca ngợi nhau, Phật pháp mới được phục hưng, mới có thể phát huy xán lạn. Nếu hai bên đều phỉ báng nhau thì không được rồi; mọi người sẽ kéo nhau xuống địa ngục A-tỳ. Chúng ta phải hiểu rõ đạo lý này, căn tánh của tất cả chúng sinh khác nhau; cho nên Đức Phật mới giảng vô lượng pháp môn.

Pháp môn là ứng cơ thuyết pháp, bạn thích hợp pháp môn nào thì tu theo pháp môn đó mới có thể thành tựu; đó chính là “pháp môn bình đẳng, không có cao thấp”. Tại sao lại phỉ báng nhau? Chẳng những tất cả pháp môn trong đạo Phật không được phỉ báng mà đối với các tôn giáo ở thế gian cũng không được phỉ báng. Các nước ở phương Tây có hai nghìn năm duy trì trật tự xã hội, đó là nhờ tín ngưỡng tôn giáo, làm cho con ngườikhởi tâm động niệm chỉ nghĩ đến Thượng Đế. Nói tóm lại, đây chính là pháp thiện thế gian, làm sao bạn có thể phá hoại nó? Làm sao bạn nói không có thần và không có Thượng Đế?

Nếu mọi người mất đi niềm tin tôn giáo, tùy thuận phiền não thì khôngđiều ác nào mà không làm. Như thế có được không? Vì thế đối với pháp thiện thế gian cũng phải ca ngợi. Đức Phật dạy chúng ta ngay trong sáu niệm, ngoài niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng còn phải niệm thiên v.v… Thiên này chính là đại biểu tôn giáo. Đây chính là nền tảng của quan niệm đạo đức, thường nghĩ tới hạnh phúc của tất cả chúng sinh và nghĩ đến sự hòa thuận, an lạc của họ, tất cả pháp thiện thế gian và xuất thế gian chúng ta đều phải tôn kính, ca ngợi.

Chúng ta sinh ra và lớn lên trong thời đại này có rất nhiều đau khổ. Chúng ta phải công nhận thời đại khoa học kỹ thuật phát triển, vật chất văn minh tiến bộ. Đời sống vật chất của chúng ta so với trước đây tiến bộ rất nhiều, chúng ta được hưởng thụ những thứ này, nhưng các vị định tâm suy nghĩ lại, chúng ta có trả giá quá đắt không? Suy đi tính lại thìlợi bất cập hại, chúng ta được rất ít nhưng tổn thất lại quá nhiều. Mónnợ này có mấy người tính? Càng tính thì càng thấy tổn thất.

Chúng ta tổn thất những thứ gì? Tổn thất luân lý, tổn thất đạo đức, giữa người với người đánh mất sự thành thật, chân tình. Bất kể khoa học kỹ thuật ngày nay phát minh như thế nào vẫn không có cách gì bù đắp nổi,cho nên nói lợi bất cập hại.

Nếu người tu hành ở thời đại này mà thành công thì chư Phật, Bồ-tát đều khen ngợi, khâm phục; còn tu hành thất bại bị đọa vào địa ngục A-tỳ thì các ngài vẫn gật đầu nói “không sai”. Vì sao? Vì bên trong bạn bị phiền não, bên ngoài bị vật chất cám dỗ lôi cuốn. Bạn có bao nhiêu định lực để đứng vững? Bạn có bao nhiêu trí tuệ để nhìn thấy rõ ràng chân tướng sự thật? Như thế mới biết điều này không đơn giản, không giống nhưtrước đây. Nếp sống xã hội trước đây rất tốt, lòng người lương thiện, ai nấy đều tôn trọng lễ nghĩa, tuân theo luật pháp, không dám làm càn làm bậy, mọi người đều cung kính vâng theo lời dạy của Thánh hiền, cho nên tu học rất dễ dàng.

Điều khó tin mà tin được, việc khó tu mà chịu tu mới là người kiệt xuất, được chư Phật, Bồ-tát cùng Thánh hiền ca ngợi. Ngày nay chúng ta có làm được một phần hay không?

Ở thời đại này, Đức Phật dạy chúng ta chỉ có một câu hãy nhớ kỹ vì nghĩa lý rất thâm diệu. Ngài dạy: “Không tìm lỗi của chúng sinh”. Chúng ta không nên đi nhìn lỗi của người khác, không nên rêu rao tội lỗi của họ. Câu này có hai ý nghĩa rất sâu rộng:

1. Chúng ta có thể thành tựu định tuệ, thành tựu tâm thanh tịnh. Tâm thanh tịnh khởi tác dụng chính là trí tuệ. Tâm khởi tham, sân, si, mạn chính là nhiễm ô. Tâm khởi nhiễm ô là tác dụng phiền não, là tạo nghiệp.Chúng ta không để ý lỗi người thế gian, họ có tạo tội nghiệp ta cũng không nghe, không hỏi, thì tâm ta dễ dàng thanh tịnh. Điều này rất có ý nghĩa.

2. Chúng ta tìm khuyết điểm của người khác và nói tội lỗi của họ, nhưthế họ có cam chịu không? Họ có đồng ý không? Nếu như họ không cam tâm,không bằng lòng thì chúng ta kết oán thù với họ, đã kết oán thù thì nhất định sẽ báo thù. Cho dù bạn cố che giấu tài tình khéo léo, người khác không biết bạn hãm hại họ, nhưng họ luôn nhớ mối hận thù; sau khi chết họ làm quỷ, quỷ có năm thần thông, nó sẽ bắt người nào đời trước hãm hại nó. Sau khi tìm được báo thù lẫn nhau, không bao giờ dứt; đời này bạn hại người ta; đời sau, họ hại lại bạn, đời sau nữa bạn hại họ, mãi mãi không dứt. Con đường chúng ta học đạo Bồ-đề sinh ra nhiều chướngnạn, chính là từ nơi đây.

Do đó, chúng ta phải giải quyết vấn đề này, nhất định phải ra tay triệt để, căn bản là “không thấy lỗi thế gian, không nói chuyện đúng saicủa người khác”. Cho dù xưa kia chúng ta tạo tội nghiệp, nhưng ngày naychúng ta đoạn hết duyên này. Sau khi đoạn hết duyên, tuy có nhân nhưng không có duyên, nó sẽ không kết thành quả. Đây cũng là cách làm cho chướng ngại giảm bớt đối với việc niệm Phật vãng sanh của chúng ta.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
22/12/2011(Xem: 4437)
Ở Tây Tạng nhiều đại hành giả sưu tập những sự thực hành tâm linh đưa đến giác ngộ trong một bộ sách gọi là Những Giai Tầng của Con Đường Giác Ngộ. Những giáo huấn hùng hồn về Đức Phật từ bi kể rõ chi tiết một loạt những sự thực hành mà một người may mắn có thể sử dụng cho việc rèn luyện nhằm để đạt đến giác ngộ. Các ngài chắt lọc những kinh luận Đạo Phật bao la và vô hạn mà không hy sinh bản chất tự nhiên hay sự sắp đặt cốt lõi của chúng.
17/12/2011(Xem: 4020)
Ngài Long Thọ mở đầu Trung Luận bằng một bài tụng kính lễ Đức Phật giảng lí tính duyên khởi và tịch lạc của niết bàn.
13/12/2011(Xem: 5111)
Sự thực hành chuyển hóa tâm thức của Phật giáo chủ yếu gồm ba pháp: Chỉ (hay Định), Quán, và Chỉ Quán song tu. Ba pháp này dựa vào ba khả năng của tâm thức con người: Sự tập trung (Chỉ), sự quan sát có khi cộng thêm với sự tưởng tượng (Quán), và thực hành cả hai cái ấy cùng một lúc. Quán là quán sát (to examine), quán tưởng (to visualize), tưởng tượng (to imagine); các học giả Tây phương dịch chữ Quán bằng ba động từ này. Mục đích của thực hành quán là để thấy sự thật vô ngã và vô pháp.
27/11/2011(Xem: 6248)
“Từ bi là căn bản”, đây là lời nói viên mãn chính xác, là tâm tuỷ của Phật giáo Đại thừa, biểu đạt được nội dung chân thật của Phật giáo. Vì vậy tín đồ của Phật giáo Đại thừa nên tư duy nghiêm mật, nắm bắt thiết thực nhất!
26/11/2011(Xem: 5249)
Ba la mật thứ tư: Tinh tấn Tsöndruthường được dịch là “tinh tấn.” Tuy nhiên, trong văn cảnh của Phật giáo, thuật ngữ này có ý nghĩa rộng hơn nhiều. Nó không chỉ hàm ý sử dụng nỗ lực và cần cù mà còn là cảm nhận sự thích thú và nhiệt tâm đối với các thiện hạnh.
23/10/2011(Xem: 10391)
Khi người ta đến để nghe tôi giảng, nhiều người làm như thế với mục tiêu đón nhận một thông điệp hay một kỹ năng cho việc bảo vệ niềm hòa bình nội tại và cho việc đạt đến một sự thành công trong đời sống. Một số người có thể đơn giản biểu lộ sự tò mò, nhưng điều quan trọng nên biết là tất cả chúng ta giống nhau, tất cả là những con người. Tôi không có gì đặc biệt: tôi chỉ là một ông thầy tu giản dị. Chỉ là một con người. Và tất cả chúng ta đều có khả năng cho những điều tốt đẹp cũng như những điều xấu xí. Cũng thế, tất cả chúng ta đều có quyền để hướng dẫn những đời sống hạnhphúc. Điều này có nghĩa là những ngày và những đêm vui vẻ; trong cách này, đời sống chúng ta trở nên hạnh phúc.
19/10/2011(Xem: 4877)
Có một bài thuyết pháp của Đức Thế Tôn mà không thấy sách sử ghi lại, bài thuyết ấy cũng tại Vườn Nai, xứ Ba La Nại, được nói ra trước bài kinh Tứ Diệu Đế chỉ vài giờ. Bài thuyết pháp ấy không lời. Khi Đức Thế Tôn bước từng bước chân an lạc trở về Vườn Nai, các vị trong nhóm ông Kiều Trần Như đã tiếp nhận được ánh sáng hạnh phúc đó và đã chuyển hóa được năng lượng tiêu cực đang phát khởi trong tâm bằng cách quỳ dài xuống đất để đón tiếp.
13/10/2011(Xem: 4953)
Phần lớn các nhà nghiên cứu Tây phương vào thế kỷ 19 chịu ảnh hưởng sâu xa của Phật giáo Nguyên thủy. Kinh điển Nguyên thủy được sưu tập và phiên dịch bởi những học giả có định kiến Phật giáo là ‘một tôn giáo trốn lánh đời và tiêu cực thụ động’. Họ bỏ qua những hoạt động của một số tăng già trong các phong trào chánh trị “chống thực dân ’ ở các quốc gia thuộc vùng Đông Nam Á và có lẽ xem các nhà sư liên hệ đến chính trị là những ‘chuyên viên quấy rối’. Ở Tây phương từ ngữ Phật giáo nhập thế chỉ mới xuất hiện gần đây.
12/10/2011(Xem: 7233)
Truyền thống PG Tây Tạng chia giáo pháp Đức Phật ra ba thời kỳ chuyển pháp luân: thời kỳ đầu, dạy pháp Tứ Diệu Đế; thời kỳ thứ nhì, dạy pháp Tánh Không...
04/10/2011(Xem: 4046)
Quan điểm phủ nhận về một đấng toàn năng và vĩnh cửu đã được thể hiện trong kinh tạng Phật giáo Pali cũng như kinh tạng Phật giáo Mahayana. Thái độ của Phật giáo đối với các khái niệm và ý tưởng về đấng sáng tạo và các vị thần được cho là ý niệm hão huyền, không mang lại hạnh phúc thực sự cho con người, không phù hợp với giáo lý của đức Phật vốn lấy con người làm đối tượng cao nhất trong việc giải quyết những nỗi khổ đau đang hiện hữu.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]