Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

09-Cái trí khoáng đạt

29/06/201115:25(Xem: 4831)
09-Cái trí khoáng đạt

NGHĨ VỀ NHỮNG ĐIỀU NÀY
Nguyên tác: Think on These Thingsby Jiddu Krishnamurti
Lời dịch: ÔNG KHÔNG Bản dịch 2006 – Hiệu đính 7- 2008

Chương 9
Cái trí khoáng đạt

Bạn biết không, rất lý thú khi hiểu rõ học hỏi là gì. Chúng ta học hỏi từ một quyển sách hay từ một giáo viên về môn toán, môn địa lý, môn sử; chúng ta học hỏi London, Moscow, hay New York ở đâu; chúng ta học hỏi một cái máy làm việc như thế nào, hay một con chim làm tổ, chăm sóc cho những đứa con của chúng ra sao và vân vân. Bằng cách quan sát và tìm hiểu chúng ta học hỏi. Đó là một loại học hỏi.

Nhưng cũng còn có một loại học hỏi khác – học hỏi có được do trải nghiệm phải không? Khi chúng ta nhìn thấy một con thuyền trên sông với những cánh buồm của nó được phản ảnh trên những dòng nước lặng lờ, đó không là một trải nghiệm lạ thường hay sao? Và rồi sau đó điều gì xảy ra? Cái trí lưu trữ một trải nghiệm của loại đó, giống như nó lưu trữ hiểu biết, và chiều hôm sau chúng ta ra nơi đó để ngắm con thuyền, hy vọng có được cùng loại cảm giác như thế – một trải nghiệm của hân hoan, cái ý thức bình an hiếm hoi trong cuộc sống của chúng ta. Vì vậy cái trí đang luôn luôn lưu trữ trải nghiệm; và chính sự lưu trữ trải nghiệm như ký ức mới làm cho chúng ta suy nghĩ, phải vậy không? Điều gì chúng ta gọi là suy nghĩ là sự phản hồi của ký ức. Bởi vì đã quan sát con thuyền đó trên sông và cảm thấy một ý thức hân hoan, chúng ta lưu trữ trải nghiệm như ký ức và sau đó muốn nó lặp lại; thế là tiến trình suy nghĩ được khởi động, phải vậy không?

Bạn thấy không, rất ít người chúng ta biết suy nghĩ như thế nào. Hầu hết chúng ta chỉ lặp lại điều gì đã đọc trong một quyển sách, hay điều gì một người nào đó đã kể cho chúng ta, hay suy nghĩ của chúng ta là kết quả của trải nghiệm riêng rất bị giới hạn của chúng ta. Thậm chí nếu chúng ta đi khắp thế giới và có vô số những trải nghiệm, gặp gỡ nhiều người khác nhau và nghe điều gì họ phải nói, quan sát những phong tục của họ, những tôn giáo của họ, những cách cư xử của họ, chúng ta giữ lại những kỷ niệm của tất cả những việc đó, từ đó có cái gì chúng ta gọi là suy nghĩ. Chúng ta so sánh, đánh giá, chọn lựa và qua qui trình này chúng ta hy vọng tìm được thái độ hợp lý nào đó đối với cuộc sống. Nhưng loại suy nghĩ đó rất giới hạn, nó bị hạn chế trong một lãnh vực rất nhỏ. Chúng ta có một trải nghiệm giống như nhìn thấy một con thuyền trên sông, hay một xác chết được mang đến nơi hỏa táng, hay một phụ nữ quê mùa đang vác một bó thật nặng – tất cả những ấn tượng này đều ở đó, nhưng chúng ta không nhạy cảm đến nỗi chúng chìm sâu vào chúng ta và thích nghi trong ký ức; và chỉ qua nhạy cảm cùng mọi thứ chung quanh chúng ta thì mới có khởi đầu của một loại suy nghĩ khác hẳn mà không bị giới hạn bởi tình trạng bị quy định của chúng ta.

Nếu bạn khư khư vào vô vàn những niềm tin này hay những niềm tin kia, bạn quan sát mọi thứ qua thành kiến hay truyền thống đặc biệt đó; bạn không có bất kỳ liên lạc tiếp xúc nào cùng thực tại. Bạn có khi nào chú ý đến người đàn bà quê mùa đang vác những bó nặng đến thị trấn hay không? Khi bạn chú ý, điều gì xảy ra cho bạn, bạn cảm thấy như thế nào? Hay chính vì bạn đã nhìn thấy những người đàn bà quê mùa đó qua lại thường xuyên quá đến độ bạn không còn cảm thấy gì cả bởi vì bạn đã trở nên quen thuộc với nó và, vì vậy, hầu như chẳng chú ý đến họ phải không? Và thậm chí khi bạn quan sát một cái gì đó lần đầu tiên, chuyện gì xảy ra? Bạn ngay lập tức tự động diễn giải cái gì bạn nhìn thấy tùy theo thành kiến của bạn, phải vậy không? Bạn trải nghiệm nó tùy theo tình trạng bị quy định của bạn như một người cộng sản, một người xã hội, một người tư bản, hay một người nào khác. Trái lại, nếu bạn không là những con người này và vì vậy không nhìn qua bức màn của bất kỳ ý tưởng hay niềm tin, nhưng thực sự có một tiếp xúc trực tiếp, rồi thì bạn sẽ nhận ra rằng có một liên hệ lạ lùng giữa bạn và cái gì bạn quan sát. Nếu bạn không có thành kiến, không thiên vị, nếu bạn khoáng đạt cởi mở, vậy thì mọi thứ quanh bạn trở nên lý thú lạ thường, sinh động lạ thường.

Đó là lý do tại sao rất quan trọng, khi bạn còn nhỏ, chú ý tất cả những việc này. Hãy chú ý chiếc thuyền trên sông, hãy nhìn ngắm những chiếc xe lửa chạy ngang qua, hãy quan sát người dân quê đang vác một bó nặng, quan sát sự kênh kiệu của người giàu có, niềm kiêu hãnh của những vị bộ trưởng, của những người quan trọng, của những con người mà nghĩ rằng họ biết nhiều – chỉ quan sát họ, đừng phê bình. Khoảnh khắc bạn phê bình, bạn không còn trong liên hệ, bạn đã có một rào chắn giữa chính bạn và họ rồi; nhưng nếu bạn chỉ quan sát, vậy thì bạn sẽ có một liên hệ trực tiếp cùng những con người và những sự vật sự việc. Nếu bạn có thể quan sát tỉnh táo, sắc bén, nhưng không có xét đoán, không có kết luận, bạn sẽ nhận ra rằng suy nghĩ của bạn trở nên nhạy bén lạ thường. Lúc đó bạn luôn luôn đang học hỏi.

Bất cứ nơi nào quanh bạn đều có việc sinh ra và chết đi, sự tranh đấu để có tiền bạc, để có địa vị, để có quyền lực, qui trình vô tận của điều gì chúng ta gọi là cuộc sống; và bộ bạn thỉnh thoảng không thắc mắc, thậm chí khi bạn còn rất nhỏ, cuộc sống là tất cả những việc đó hay sao? Bạn thấy không, hầu hết chúng ta đều muốn một câu trả lời, chúng ta muốn được chỉ bảo cuộc sống như thế thì ra sao, vì vậy chúng ta nhặt lên một quyển sách về chính trị hay tôn giáo, hay chúng ta hỏi một ai đó để chỉ bảo cho chúng ta; nhưng không một ai có thể chỉ bảo cho chúng ta được, bởi vì cuộc sống không là một cái gì đó có thể hiểu rõ được từ một quyển sách, và ý nghĩa của nó cũng không thể nào thâu lượm được bằng cách đi theo một người nào đó, hay qua một dạng cầu nguyện nào đó. Bạn và tôi phải hiểu rõ nó cho chính mình – mà chúng ta chỉ có thể làm được khi chúng ta tràn đầy sinh động, rất tỉnh táo, cảnh giác, quan sát, có hứng thú với mọi thứ quanh chúng ta; và rồi thì chúng ta sẽ thực sự khám phá được hạnh phúc có nghĩa là gì.

Hầu hết chúng ta không hạnh phúc; và họ không có hạnh phúc bởi vì không có tình yêu trong tâm hồn của họ. Tình yêu sẽ sinh ra trong tâm hồn của bạn khi bạn không còn rào chắn giữa bạn và người khác nữa, khi bạn gặp gỡ và quan sát mọi người mà không đánh giá họ, khi bạn chỉ nhìn ngắm con thuyền trên sông và tận hưởng vẻ đẹp của nó. Đừng để những thành kiến của bạn che phủ sự quan sát của bạn về những sự vật như chúng là; chỉ quan sát, và bạn sẽ khám phá rằng từ quan sát đơn giản này, từ chú ý này về cây cối, về chim chóc, về những con người đang đi bộ, đang làm việc, đang mỉm cười, một điều gì đó xảy ra cho bạn ở bên trong. Nếu không có sự việc lạ thường này đang xảy ra cho bạn, nếu không có nảy sinh tình yêu trong tâm hồn của bạn, cuộc sống chẳng còn bao nhiêu ý nghĩa; và đó là lý do tại sao rất quan trọng rằng người giáo dục nên được giáo dục để giúp đỡ bạn hiểu rõ ý nghĩa của tất cả những sự việc này.

Người hỏi: Tại sao chúng ta lại muốn sống xa hoa?

Krishnamurti: Bạn có ý nói gì qua từ ngữ xa hoa? Mặc quần áo sạch, giữ gìn thân thể sạch sẽ, ăn thức ăn ngon – bạn gọi điều đó là xa hoa à? Nó có vẻ xa hoa đối với con người đang đói khát, mặc rách rưới, và không thể tắm rửa mỗi ngày. Vì vậy xa hoa thay đổi tùy theo những ham muốn của người ta; đó là vấn đề thuộc mức độ sống trong xã hội.

Bây giờ, bạn có biết điều gì xảy ra cho bạn nếu bạn thích xa hoa, nếu bạn bị quyến luyến vào sự thoải mái và luôn luôn muốn ngồi trên một chiếc ghế sô-pha hay một ghế dựa nhồi nệm hay không? Cái trí của bạn u mê. Có một chút thoải mái thân thể cũng là điều tốt đẹp; nhưng khi đặt sự quan trọng vào thoải mái, khi cho nó một ảnh hưởng lớn lao, là có một cái trí ù lì. Bạn có để ý rằng hầu hết những người mập mạp sung sướng như thế nào hay không? Dường như không có gì quấy rầy được họ qua nhiều lớp mỡ. Đó là một tình trạng thuộc thân thể, nhưng cái trí cũng phủ dầy những lớp mỡ; nó không muốn bị tìm hiểu hay bị quấy rầy, và một cái trí như thế từ từ chìm vào mê muội. Điều gì chúng ta gọi là giáo dục bây giờ thông thường đẩy những em học sinh chìm vào mê muội, bởi vì nếu cậu ấy đặt những câu hỏi thực sự sắc bén và sâu sắc, giáo viên sẽ rất bực dọc và nói rằng, “Chúng ta hãy tiếp tục bài học.”

Vì vậy, khi cái trí bị quyến luyến vào bất kỳ hình thức thoải mái nào, khi nó bị quyến luyến vào một thói quen, một niềm tin, hay vào một nơi đặc biệt mà nó gọi là “nhà của tôi,” nó bắt đầu mê muội; và hiểu rõ sự việc này còn quan trọng hơn là hỏi liệu chúng ta có nên sống xa hoa hay không. Cái trí mà rất năng động, tỉnh táo, canh chừng, không bao giờ quyến luyến vào thoải mái; xa hoa không có ý nghĩa gì với nó cả. Nhưng chỉ có rất ít quần áo thôi không có nghĩa rằng người ta có một cái trí tỉnh táo. Người khất sĩ sống bên ngoài rất đơn giản nhưng có lẽ bên trong lại rất phức tạp, vun quén đạo đức, muốn tìm được chân lý, Chúa. Điều gì quan trọng là bên trong rất đơn giản, rất mộc mạc, mà là có một cái trí không bị nhồi nhét những niềm tin, những sợ hãi, vô số những ham muốn, vì chỉ với một cái trí như thế đó mới có khả năng suy nghĩ thực sự, khả năng tìm hiểu và khám phá.

Người hỏi: Liệu có thể có an bình trong cuộc sống khi chúng ta còn đang đấu tranh với môi trường sống của chúng ta hay không?

Krishnamurti: Bạn không được đấu tranh với môi trường sống của bạn à? Bạn không được phá vỡ nó hay sao? Điều gì cha mẹ của bạn tin tưởng, nền tảng xã hội của bạn, những truyền thống của bạn, loại thức ăn bạn ăn, và những sự việc quanh bạn như tôn giáo, người giáo sĩ, người đàn ông giàu có, người đàn ông nghèo khổ – tất cả cái đó là môi trường sống của bạn. Và bộ bạn không được phá vỡ môi trường sống đó bằng cách tìm hiểu nó, bằng cách phản kháng nó hay sao? Nếu bạn không phản kháng, nếu bạn chỉ chấp nhận môi trường sống của bạn, có một loại an bình nhưng nó là an bình của chết; trái lại, nếu bạn đấu tranh phá vỡ môi trường sống đó và tìm ra cho chính mình điều gì là sự thật, vậy thì bạn sẽ khám phá một loại an bình khác hẳn mà không là sự trì trệ. Rất cần thiết khi đấu tranh với môi trường sống của bạn. Bạn phải làm. Vì vậy an bình không quan trọng. Điều gì quan trọng là hiểu rõ và phá vỡ môi trường sống của bạn; và từ đó có an bình thực sự. Nhưng, nếu bạn tìm kiếm an bình chỉ bằng cách chấp nhận môi trường sống của bạn, bạn sẽ chìm trong mê muội, và sau đó bạn có lẽ chết. Đó là lý do tại sao vào cái tuổi non nớt nhất bạn nên có một ý thức phản kháng. Nếu không bạn sẽ chỉ thối rữa, phải vậy không?

Người hỏi: Ông có hạnh phúc hay không?

Krishnamurti: Tôi không biết. Tôi không bao giờ nghĩ về nó cả. Cái khoảnh khắc bạn nghĩ bạn hạnh phúc, bạn không còn hạnh phúc, phải vậy không? Khi bạn đang chơi đùa và la hét đầy vui thú, điều gì xảy ra ngay khoảnh khắc bạn ý thức rằng bạn vui thú? Bạn ngừng vui đùa. Bạn có nhận thấy điều này không? Vì vậy hạnh phúc là một điều gì đó không ở trong lãnh vực của tự ý thức.

Khi bạn cố gắng tốt lành, bạn có tốt lành hay không? Tốt lành có thể được luyện tập à? Hay tốt lành là một cái gì đó xảy ra tự nhiên bởi vì bạn nhìn thấy, quan sát, hiểu rõ? Tương tự như vậy, khi cảm thấy rằng bạn hạnh phúc, hạnh phúc đã trôi qua cửa sổ rồi. Tìm kiếm hạnh phúc là vô lý, bởi vì có hạnh phúc chỉ khi nào bạn không tìm kiếm nó.

Bạn có biết từ ngữ “khiêm tốn” có nghĩa là gì không? Và bạn có thể vun quén được khiêm tốn hay không? Nếu bạn lặp lại mỗi buổi sáng, “Tôi sẽ khiêm tốn,” đó là khiêm tốn hay sao? Hay là khiêm tốn tự nảy sinh khi bạn không còn ngạo mạn, kiêu hãnh. Trong cùng cách như vậy, khi những sự việc mà ngăn cản hạnh phúc đã đi mất rồi, khi những lo âu, khát vọng, sự tìm kiếm an toàn của người ta đã ngừng hẳn, vậy thì hạnh phúc ở đó, bạn không phải tìm kiếm nó.

Tại sao hầu hết các bạn lại im lặng như thế? Tại sao các bạn không thảo luận với tôi? Bạn biết không, rất quan trọng khi bày tỏ suy nghĩ và cảm thấy của bạn dù rằng nó xấu xa, bởi vì nó sẽ có ý nghĩa nhiều lắm cho bạn, và tôi sẽ cho bạn biết tại sao? Nếu bạn bắt đầu bộc lộ những suy nghĩ và cảm thấy của bạn bây giờ, dù rằng nó ngập ngừng như thế nào chăng nữa, khi lớn lên bạn sẽ không bị bóp nghẹt bởi môi trường sống, bởi cha mẹ, bởi xã hội, bởi truyền thống của bạn. Nhưng bất hạnh thay những giáo viên của bạn không khuyến khích bạn tìm hiểu, họ không hỏi bạn suy nghĩ điều gì.

Người hỏi: Tại sao chúng ta lại khóc, và đau khổ là gì?

Krishnamurti: Một cậu bé muốn biết tại sao chúng ta lại khóc và đau khổ là gì. Bạn khóc khi nào? Bạn khóc khi một người nào đó lấy đi món đồ chơi của bạn, khi bạn bị tổn thương, khi bạn không thắng trong một trò chơi, khi giáo viên hoặc cha mẹ của bạn la mắng, hay khi một ai đó đánh bạn. Khi lớn lên bạn khóc mỗi lúc một ít đi, bởi vì chính bạn đã chai lì với cuộc sống rồi. Rất ít người trong chúng ta khóc khi lớn lên bởi vì chúng ta đã đánh mất tánh nhạy cảm lạ thường của thời niên thiếu. Nhưng đau khổ không chỉ là mất mát một điều gì đó, nó không chỉ là trạng thái cảm thấy của bị chặn đứng, bị thất vọng; đau khổ là một cái gì đó sâu xa hơn nhiều. Bạn thấy không, có một sự việc như là không hiểu rõ. Nếu không hiểu rõ, có đau khổ lớn lao. Nếu cái trí không vượt khỏi những rào chắn riêng của nó, có đau khổ.

Người hỏi: Làm thế nào chúng ta có thể hòa đồng mà không có xung đột?

Krishnamurti: Tại sao bạn lại phản kháng xung đột? Tất cả các bạn dường như nghĩ rằng xung đột là một sự việc kinh hãi. Lúc này bạn và tôi đang xung đột, phải vậy không? Tôi đang cố gắng nói cho bạn một điều gì đó, và bạn không hiểu rõ; vì vậy có một ý thức của mâu thuẫn, xung đột. Và điều gì sai trái với mâu thuẫn, xung đột, bực dọc? Bộ bạn không được bực dọc à? Hòa đồng không đến khi bạn tìm kiếm nó bằng cách lẩn tránh xung đột. Chỉ qua xung đột, và hiểu rõ xung đột, mới có hòa đồng.

Hòa đồng là một trong những sự việc khó khăn nhất để có được, bởi vì nó có nghĩa là một hợp nhất trọn vẹn của toàn thân tâm bạn trong tất cả điều gì bạn làm, trong tất cả điều gì bạn nói, trong tất cả điều gì bạn suy nghĩ. Bạn không có hòa đồng nếu không hiểu rõ sự liên hệ – liên hệ của bạn với xã hội, liên hệ của bạn với người đàn ông nghèo nàn, người dân làng, người ăn mày, người triệu phú và vị thống đốc. Muốn hiểu rõ sự liên hệ bạn phải đấu tranh với nó, bạn phải tìm hiểu và không chỉ chấp nhận những giá trị được thiết lập bởi truyền thống, bởi cha mẹ bạn, bởi người giáo sĩ, bởi tôn giáo và hệ thống kinh tế của xã hội quanh bạn. Đó là lý do tại sao phản kháng lại rất cần thiết, nếu không bạn sẽ không bao giờ có hòa đồng.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
12/07/2020(Xem: 7603)
Theo, Đại-Vô-Lượng-Thọ-Kịnh. Đại-A-Di-Đà-Kinh Q1.- Bình-Đẳng-Giác- Kinh Q1. Đại-Bảo-Tích-Kinh Q17. Bi-Hoa-Kinh Q3. Vô-Lượng-Quảng- Trang-Nghiêm-Đại-Thừa-Kinh… Thì đều lạy tu theo 48 nguyện. 48 đại nguyện có đủ trong 6 bộ kinh nói trên. Chỗ cốt yếu cho người tu niệm Phật và lễ lạy 48 đại nguyện là : 1.Tin tưởng tha thiết nguyện về cõi Phật A Di Đà chắc thật diệt sạch hết tâm nghi ngờ. Lòng tin trọn vẹn trong sạch. 2. Lập thời khóa tu niệm lễ lạy trong một ngày đêm 1, 2, hay 3 Thời, Tùy ý thích. Chọn cho thích hợp để tu. Quan trọng là thành tâm. Đừng ham nhiều mà lụy thân rồi chán bỏ! 3. Quyết tâm phát nguyện vãng sanh về Cực Lạc Tịnh Độ, Tâm luôn kính nhớ ưa thích cõi Cực Lạc của Từ Phụ A Di Đà, quí mến Từ Phụ A Di Đà. niệm Hồng danh Phật liên tục, khi xướng lạy lời nguyện thân tâm vui thích mừng rỡ cảm động, thân nhẹ lân lân như ơn Phật đang ban phước cao vời vô tận, đầy tâm an lạc, như thấy mình đầy đủ sức khỏe. Niệm, chừng nào được “nhứt tâm bất loạn” đồng nghĩa với “hế
22/06/2020(Xem: 5491)
Đi tìm nguồn cội của những việc cần tìm hiểu quả là điều rất hữu ích và cần thiết cho những người học Phật như chúng ta ngày nay. Tuy trong hiện tại chúng ta có quá nhiều phương tiện để tìm hiểu, đọc tụng cũng như học hỏi, nhưng cũng không phải muốn tìm gì là có ngay lời giải đáp đúng như ý ta mong đợi, mà vẫn cần phải qua những trải nghiệm của bản thân cũng như sự tu học hành trì, nghiên cứu lâu ngày, chúng ta mới thẩm thấu được lời Phậtdạy. Vì lẽ lời dạy của Đức Phật nằm rải rác khắp nơi trong ba tạng của Nam Truyền và ba tạng của Bắc Truyền, có cả hàng triệu triệu chữ và nhiều nhà phiên dịch, chú giải khác nhau, nên không phải ai cũng có cơ duyên để trì tụng, nghiên cứu hết ba tạng Kinh điển này. Riêng bản thân tôi không dám làm việc gì quá khả năng, chỉ cố gắng gom góp lại những chỗ đã đọc qua, nhằm cống hiến cho quý vị một sự hiểu biết căn bản về Đức Phật A-di-đà, để chúng ta không còn nghi ngờ gì nữa khi trì tụng các Kinh A-di-đà, Kinh Vô Lượng Thọ hay Kinh Quán Vô Lượng Thọ. Đó
21/06/2020(Xem: 10095)
Do một thiện niệm vừa phát sinh sau khi TT Thích Nguyên Tạng chấm dứt 48 bài pháp thoại liên tục được livestream trên Facebook của trangnhaquangduc trong mùa cách giản xã hội vì đại dịch Corona vào mỗi sáng sau thời công phu khuya ( với kinh Lăng Nghiêm, Đại Bi và thập chú ) mà người viết mới có dịp ôn lại những gì trong “ PHÁP NGỮ CỦA HT TỊNH KHÔNG” đã được TT Thích Nguyên Tạng Việt dịch và được xuất bản từ 2004. Thời gian trôi qua nhanh quá , thấm thoát đã 16 năm mà đến bây giờ đây là lần thứ ba tôi mới đọc lại , phải nói là rất ân hận cho sự vô minh của mình trong nhiều năm và đã uổng phí thời gian để có thể tu tập đúng hơn nữa .
07/05/2020(Xem: 6705)
Đệ tử tên là: .......... Một lòng quy kính - Đức Phật A Di Đà. Thế giới Cực Lạc - Nguyện lấy hào quang - Trong sạch soi cho, Lấy thệ từ bi - Mà nhiếp thọ cho - Con nay chánh niệm, Niệm hiệu Như Lai - Vì đạo Bồ Đề - Cầu sanh Tịnh Độ. Phật xưa có thệ: “Nếu có chúng sinh - Muốn sinh về nước ta Hết lòng tín nguyện - Cho đến mười niệm - Nếu chẳng đặng sinh Chẳng thành Chánh Giác - Chỉ trừ kẻ ngũ nghịch - Kẻ bài báng Chánh Pháp” - Do vì nhân duyên - Niệm hiệu Phật nầy - Được vào trong bể - Đại thệ Như Lai - Nhờ sức Từ Bi Các tội tiêu diệt - Căn lành tăng trưởng.- Khi mạng gần chung, Biết trước giờ chết- Thân không bệnh khổ- Tâm không tham luyến,
05/05/2020(Xem: 7056)
Chiều nay ngày 19 tháng 7 năm Mậu tuất (2018), tôi đến Phương trượng Tổ đình Từ Đàm, đảnh lễ Trí Quang Thượng Nhân, sau khi xuất hạ, Thượng Nhân đã dạy cho tôi những điều hữu ích gồm: 1- Pháp học: Pháp giới tạng thân A-di-đà-Phật là chỉ cho Thân thể của Phật A-di-đà bao trùm khắp cả không gian và thời gian về mặt không gian là cả mười phương. Về mặt thời gian là bao trùm cả ba đời.
13/03/2020(Xem: 20247)
Quyển "The Buddha and His Teachings" (Đức Phật và Phật Pháp) được ấn hành tại Sài gòn năm 1964 nhờ sự phát tâm bố thí của liệt vị Phật tử Việt Nam. Đạo hữu Phạm Kim Khánh, pháp danh Sunanda, đã dày công phiên dịch thiên khái luận nhỏ bé này ra tiếng mẹ đẻ với mục đích đáp lại phần nào lòng mong ước của những ai muốn hiểu Đức Phật và giáo lý của Ngài. Công đức này được hàng Phật tử Việt Nam ghi nhận. Trong hiện tình, nước Việt Nam không mấy được yên ổn. Bao nhiêu người đang đau khổ, về vật chất cũng như tinh thần. Không khí căng thẳng này quả không thích hợp với việc làm có tánh cách tinh thần và đạo đức
20/12/2019(Xem: 6113)
Niệm Phật là phương pháp thực hành rất phổ biến trong Phật Giáo Đại Thừa, đặc biệt là Tịnh Độ Tông hay còn được gọi là Pháp môn Niệm Phật. Nhưng nếu thuần túy chỉ niệm Phật mà thôi, thiếu tu học thì chúng ta có thể tái sanh về cõi Tây Phương Cực Lạc được hay không? Tính cốt lõi của pháp môn Niệm Phật là lấy Minh tâm (trong sáng) làm công yếu, lấy Hạnh môn (tịnh tâm) làm chính yếu. Tu và học phải đi đôi với nhau. Tu là thay đổi bản chất, tánh nết của mình cho được tốt hơn, cho được thiện lành hơn -đó mới là tu tâm dưỡng tánh. Còn Học là để mở mang kiến thức, để hiểu và nhận ra những điều thiện lành. Vậy tu học là đôi chân vững chắc để chúng ta đi đến được bến bờ giác ngộ. Tu làm sao để nở tâm Bồ Đề, đừng nở tâm ganh tỵ. « Văn, tư, tu » như lời Đức Phật dạy, trước tiên chúng ta phải lắng nghe, sau đó suy nghĩ để nhận biết rồi mới thực hành. Khi niệm Phật chúng ta phải nhất tâm tưởng đến Phật hiện tại, giúp tâm chúng ta có chất liệu để thành Phật. « Nhất thiết ch
12/09/2019(Xem: 6385)
Đại sư Từ Chiếu (Chi: Tzu Chao) có lần nói: "Người tu Tịnh độ lúc sắp chết thường bị Ba Điều Nghi và Bốn cửa ải làm trở ngại cho việc vãng sanh Cực Lạc. Do đó hành giả ngày thường cần chuẩn bị, suy tư và đề phòng để có thể loại trừ chúng trong lúc lâm chung.
24/08/2019(Xem: 10981)
Niết bàn là khái niệm thể hiện triết lý độc đáo về giải thoát của Phật giáo. Đây là một trạng thái tâm linh hoàn toàn thanh thản, giải thoát khỏi mọi đau khổ của cuộc đời. Trạng thái này có thể đạt được khi còn đang sống (Hữu dư Niết bàn) hoặc khi đã chết (Vô dư Niết bàn). Phật giáo Tiểu thừa hướng tới Vô dư Niết bàn - một Niết bàn tịch diệt, cô đơn, từ bỏ mọi thú vui trần thế. Phật giáo Đại thừa lại hướng tới Hữu dư Niết bàn - một Niết bàn nhân bản, nhập thế và hoạt động cùng những buồn vui nhân thế. Quan niệm này đã mang lại một sức hấp dẫn, sức sống mới cho Phật giáo, đặc biệt là trong xã hội hiện đại.
22/08/2019(Xem: 7570)
Chư Tôn liên tông vãng sanh tịnh độ Cực Lạc lưu lại bằng chứng: - Đa số các ngài vãng sanh tự tại và biết trước ngày tháng ra đi - Một số lưu lại xá lợi (Sư Thích Thiền Tâm biết trước 6 tháng, ngày vãng sanh Cực Lạc, ra đi ngay trên bổn tọa trước đại chúng, lưu lại xá lợi răng ngũ sắc, và một bài kệ Bồ Tát Thích Quảng Đức an nhiên tự thiêu vì đạo pháp để lại xá lợi trái tim bất diệt)
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]