Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

09-Cái trí khoáng đạt

29/06/201115:25(Xem: 4795)
09-Cái trí khoáng đạt

NGHĨ VỀ NHỮNG ĐIỀU NÀY
Nguyên tác: Think on These Thingsby Jiddu Krishnamurti
Lời dịch: ÔNG KHÔNG Bản dịch 2006 – Hiệu đính 7- 2008

Chương 9
Cái trí khoáng đạt

Bạn biết không, rất lý thú khi hiểu rõ học hỏi là gì. Chúng ta học hỏi từ một quyển sách hay từ một giáo viên về môn toán, môn địa lý, môn sử; chúng ta học hỏi London, Moscow, hay New York ở đâu; chúng ta học hỏi một cái máy làm việc như thế nào, hay một con chim làm tổ, chăm sóc cho những đứa con của chúng ra sao và vân vân. Bằng cách quan sát và tìm hiểu chúng ta học hỏi. Đó là một loại học hỏi.

Nhưng cũng còn có một loại học hỏi khác – học hỏi có được do trải nghiệm phải không? Khi chúng ta nhìn thấy một con thuyền trên sông với những cánh buồm của nó được phản ảnh trên những dòng nước lặng lờ, đó không là một trải nghiệm lạ thường hay sao? Và rồi sau đó điều gì xảy ra? Cái trí lưu trữ một trải nghiệm của loại đó, giống như nó lưu trữ hiểu biết, và chiều hôm sau chúng ta ra nơi đó để ngắm con thuyền, hy vọng có được cùng loại cảm giác như thế – một trải nghiệm của hân hoan, cái ý thức bình an hiếm hoi trong cuộc sống của chúng ta. Vì vậy cái trí đang luôn luôn lưu trữ trải nghiệm; và chính sự lưu trữ trải nghiệm như ký ức mới làm cho chúng ta suy nghĩ, phải vậy không? Điều gì chúng ta gọi là suy nghĩ là sự phản hồi của ký ức. Bởi vì đã quan sát con thuyền đó trên sông và cảm thấy một ý thức hân hoan, chúng ta lưu trữ trải nghiệm như ký ức và sau đó muốn nó lặp lại; thế là tiến trình suy nghĩ được khởi động, phải vậy không?

Bạn thấy không, rất ít người chúng ta biết suy nghĩ như thế nào. Hầu hết chúng ta chỉ lặp lại điều gì đã đọc trong một quyển sách, hay điều gì một người nào đó đã kể cho chúng ta, hay suy nghĩ của chúng ta là kết quả của trải nghiệm riêng rất bị giới hạn của chúng ta. Thậm chí nếu chúng ta đi khắp thế giới và có vô số những trải nghiệm, gặp gỡ nhiều người khác nhau và nghe điều gì họ phải nói, quan sát những phong tục của họ, những tôn giáo của họ, những cách cư xử của họ, chúng ta giữ lại những kỷ niệm của tất cả những việc đó, từ đó có cái gì chúng ta gọi là suy nghĩ. Chúng ta so sánh, đánh giá, chọn lựa và qua qui trình này chúng ta hy vọng tìm được thái độ hợp lý nào đó đối với cuộc sống. Nhưng loại suy nghĩ đó rất giới hạn, nó bị hạn chế trong một lãnh vực rất nhỏ. Chúng ta có một trải nghiệm giống như nhìn thấy một con thuyền trên sông, hay một xác chết được mang đến nơi hỏa táng, hay một phụ nữ quê mùa đang vác một bó thật nặng – tất cả những ấn tượng này đều ở đó, nhưng chúng ta không nhạy cảm đến nỗi chúng chìm sâu vào chúng ta và thích nghi trong ký ức; và chỉ qua nhạy cảm cùng mọi thứ chung quanh chúng ta thì mới có khởi đầu của một loại suy nghĩ khác hẳn mà không bị giới hạn bởi tình trạng bị quy định của chúng ta.

Nếu bạn khư khư vào vô vàn những niềm tin này hay những niềm tin kia, bạn quan sát mọi thứ qua thành kiến hay truyền thống đặc biệt đó; bạn không có bất kỳ liên lạc tiếp xúc nào cùng thực tại. Bạn có khi nào chú ý đến người đàn bà quê mùa đang vác những bó nặng đến thị trấn hay không? Khi bạn chú ý, điều gì xảy ra cho bạn, bạn cảm thấy như thế nào? Hay chính vì bạn đã nhìn thấy những người đàn bà quê mùa đó qua lại thường xuyên quá đến độ bạn không còn cảm thấy gì cả bởi vì bạn đã trở nên quen thuộc với nó và, vì vậy, hầu như chẳng chú ý đến họ phải không? Và thậm chí khi bạn quan sát một cái gì đó lần đầu tiên, chuyện gì xảy ra? Bạn ngay lập tức tự động diễn giải cái gì bạn nhìn thấy tùy theo thành kiến của bạn, phải vậy không? Bạn trải nghiệm nó tùy theo tình trạng bị quy định của bạn như một người cộng sản, một người xã hội, một người tư bản, hay một người nào khác. Trái lại, nếu bạn không là những con người này và vì vậy không nhìn qua bức màn của bất kỳ ý tưởng hay niềm tin, nhưng thực sự có một tiếp xúc trực tiếp, rồi thì bạn sẽ nhận ra rằng có một liên hệ lạ lùng giữa bạn và cái gì bạn quan sát. Nếu bạn không có thành kiến, không thiên vị, nếu bạn khoáng đạt cởi mở, vậy thì mọi thứ quanh bạn trở nên lý thú lạ thường, sinh động lạ thường.

Đó là lý do tại sao rất quan trọng, khi bạn còn nhỏ, chú ý tất cả những việc này. Hãy chú ý chiếc thuyền trên sông, hãy nhìn ngắm những chiếc xe lửa chạy ngang qua, hãy quan sát người dân quê đang vác một bó nặng, quan sát sự kênh kiệu của người giàu có, niềm kiêu hãnh của những vị bộ trưởng, của những người quan trọng, của những con người mà nghĩ rằng họ biết nhiều – chỉ quan sát họ, đừng phê bình. Khoảnh khắc bạn phê bình, bạn không còn trong liên hệ, bạn đã có một rào chắn giữa chính bạn và họ rồi; nhưng nếu bạn chỉ quan sát, vậy thì bạn sẽ có một liên hệ trực tiếp cùng những con người và những sự vật sự việc. Nếu bạn có thể quan sát tỉnh táo, sắc bén, nhưng không có xét đoán, không có kết luận, bạn sẽ nhận ra rằng suy nghĩ của bạn trở nên nhạy bén lạ thường. Lúc đó bạn luôn luôn đang học hỏi.

Bất cứ nơi nào quanh bạn đều có việc sinh ra và chết đi, sự tranh đấu để có tiền bạc, để có địa vị, để có quyền lực, qui trình vô tận của điều gì chúng ta gọi là cuộc sống; và bộ bạn thỉnh thoảng không thắc mắc, thậm chí khi bạn còn rất nhỏ, cuộc sống là tất cả những việc đó hay sao? Bạn thấy không, hầu hết chúng ta đều muốn một câu trả lời, chúng ta muốn được chỉ bảo cuộc sống như thế thì ra sao, vì vậy chúng ta nhặt lên một quyển sách về chính trị hay tôn giáo, hay chúng ta hỏi một ai đó để chỉ bảo cho chúng ta; nhưng không một ai có thể chỉ bảo cho chúng ta được, bởi vì cuộc sống không là một cái gì đó có thể hiểu rõ được từ một quyển sách, và ý nghĩa của nó cũng không thể nào thâu lượm được bằng cách đi theo một người nào đó, hay qua một dạng cầu nguyện nào đó. Bạn và tôi phải hiểu rõ nó cho chính mình – mà chúng ta chỉ có thể làm được khi chúng ta tràn đầy sinh động, rất tỉnh táo, cảnh giác, quan sát, có hứng thú với mọi thứ quanh chúng ta; và rồi thì chúng ta sẽ thực sự khám phá được hạnh phúc có nghĩa là gì.

Hầu hết chúng ta không hạnh phúc; và họ không có hạnh phúc bởi vì không có tình yêu trong tâm hồn của họ. Tình yêu sẽ sinh ra trong tâm hồn của bạn khi bạn không còn rào chắn giữa bạn và người khác nữa, khi bạn gặp gỡ và quan sát mọi người mà không đánh giá họ, khi bạn chỉ nhìn ngắm con thuyền trên sông và tận hưởng vẻ đẹp của nó. Đừng để những thành kiến của bạn che phủ sự quan sát của bạn về những sự vật như chúng là; chỉ quan sát, và bạn sẽ khám phá rằng từ quan sát đơn giản này, từ chú ý này về cây cối, về chim chóc, về những con người đang đi bộ, đang làm việc, đang mỉm cười, một điều gì đó xảy ra cho bạn ở bên trong. Nếu không có sự việc lạ thường này đang xảy ra cho bạn, nếu không có nảy sinh tình yêu trong tâm hồn của bạn, cuộc sống chẳng còn bao nhiêu ý nghĩa; và đó là lý do tại sao rất quan trọng rằng người giáo dục nên được giáo dục để giúp đỡ bạn hiểu rõ ý nghĩa của tất cả những sự việc này.

Người hỏi: Tại sao chúng ta lại muốn sống xa hoa?

Krishnamurti: Bạn có ý nói gì qua từ ngữ xa hoa? Mặc quần áo sạch, giữ gìn thân thể sạch sẽ, ăn thức ăn ngon – bạn gọi điều đó là xa hoa à? Nó có vẻ xa hoa đối với con người đang đói khát, mặc rách rưới, và không thể tắm rửa mỗi ngày. Vì vậy xa hoa thay đổi tùy theo những ham muốn của người ta; đó là vấn đề thuộc mức độ sống trong xã hội.

Bây giờ, bạn có biết điều gì xảy ra cho bạn nếu bạn thích xa hoa, nếu bạn bị quyến luyến vào sự thoải mái và luôn luôn muốn ngồi trên một chiếc ghế sô-pha hay một ghế dựa nhồi nệm hay không? Cái trí của bạn u mê. Có một chút thoải mái thân thể cũng là điều tốt đẹp; nhưng khi đặt sự quan trọng vào thoải mái, khi cho nó một ảnh hưởng lớn lao, là có một cái trí ù lì. Bạn có để ý rằng hầu hết những người mập mạp sung sướng như thế nào hay không? Dường như không có gì quấy rầy được họ qua nhiều lớp mỡ. Đó là một tình trạng thuộc thân thể, nhưng cái trí cũng phủ dầy những lớp mỡ; nó không muốn bị tìm hiểu hay bị quấy rầy, và một cái trí như thế từ từ chìm vào mê muội. Điều gì chúng ta gọi là giáo dục bây giờ thông thường đẩy những em học sinh chìm vào mê muội, bởi vì nếu cậu ấy đặt những câu hỏi thực sự sắc bén và sâu sắc, giáo viên sẽ rất bực dọc và nói rằng, “Chúng ta hãy tiếp tục bài học.”

Vì vậy, khi cái trí bị quyến luyến vào bất kỳ hình thức thoải mái nào, khi nó bị quyến luyến vào một thói quen, một niềm tin, hay vào một nơi đặc biệt mà nó gọi là “nhà của tôi,” nó bắt đầu mê muội; và hiểu rõ sự việc này còn quan trọng hơn là hỏi liệu chúng ta có nên sống xa hoa hay không. Cái trí mà rất năng động, tỉnh táo, canh chừng, không bao giờ quyến luyến vào thoải mái; xa hoa không có ý nghĩa gì với nó cả. Nhưng chỉ có rất ít quần áo thôi không có nghĩa rằng người ta có một cái trí tỉnh táo. Người khất sĩ sống bên ngoài rất đơn giản nhưng có lẽ bên trong lại rất phức tạp, vun quén đạo đức, muốn tìm được chân lý, Chúa. Điều gì quan trọng là bên trong rất đơn giản, rất mộc mạc, mà là có một cái trí không bị nhồi nhét những niềm tin, những sợ hãi, vô số những ham muốn, vì chỉ với một cái trí như thế đó mới có khả năng suy nghĩ thực sự, khả năng tìm hiểu và khám phá.

Người hỏi: Liệu có thể có an bình trong cuộc sống khi chúng ta còn đang đấu tranh với môi trường sống của chúng ta hay không?

Krishnamurti: Bạn không được đấu tranh với môi trường sống của bạn à? Bạn không được phá vỡ nó hay sao? Điều gì cha mẹ của bạn tin tưởng, nền tảng xã hội của bạn, những truyền thống của bạn, loại thức ăn bạn ăn, và những sự việc quanh bạn như tôn giáo, người giáo sĩ, người đàn ông giàu có, người đàn ông nghèo khổ – tất cả cái đó là môi trường sống của bạn. Và bộ bạn không được phá vỡ môi trường sống đó bằng cách tìm hiểu nó, bằng cách phản kháng nó hay sao? Nếu bạn không phản kháng, nếu bạn chỉ chấp nhận môi trường sống của bạn, có một loại an bình nhưng nó là an bình của chết; trái lại, nếu bạn đấu tranh phá vỡ môi trường sống đó và tìm ra cho chính mình điều gì là sự thật, vậy thì bạn sẽ khám phá một loại an bình khác hẳn mà không là sự trì trệ. Rất cần thiết khi đấu tranh với môi trường sống của bạn. Bạn phải làm. Vì vậy an bình không quan trọng. Điều gì quan trọng là hiểu rõ và phá vỡ môi trường sống của bạn; và từ đó có an bình thực sự. Nhưng, nếu bạn tìm kiếm an bình chỉ bằng cách chấp nhận môi trường sống của bạn, bạn sẽ chìm trong mê muội, và sau đó bạn có lẽ chết. Đó là lý do tại sao vào cái tuổi non nớt nhất bạn nên có một ý thức phản kháng. Nếu không bạn sẽ chỉ thối rữa, phải vậy không?

Người hỏi: Ông có hạnh phúc hay không?

Krishnamurti: Tôi không biết. Tôi không bao giờ nghĩ về nó cả. Cái khoảnh khắc bạn nghĩ bạn hạnh phúc, bạn không còn hạnh phúc, phải vậy không? Khi bạn đang chơi đùa và la hét đầy vui thú, điều gì xảy ra ngay khoảnh khắc bạn ý thức rằng bạn vui thú? Bạn ngừng vui đùa. Bạn có nhận thấy điều này không? Vì vậy hạnh phúc là một điều gì đó không ở trong lãnh vực của tự ý thức.

Khi bạn cố gắng tốt lành, bạn có tốt lành hay không? Tốt lành có thể được luyện tập à? Hay tốt lành là một cái gì đó xảy ra tự nhiên bởi vì bạn nhìn thấy, quan sát, hiểu rõ? Tương tự như vậy, khi cảm thấy rằng bạn hạnh phúc, hạnh phúc đã trôi qua cửa sổ rồi. Tìm kiếm hạnh phúc là vô lý, bởi vì có hạnh phúc chỉ khi nào bạn không tìm kiếm nó.

Bạn có biết từ ngữ “khiêm tốn” có nghĩa là gì không? Và bạn có thể vun quén được khiêm tốn hay không? Nếu bạn lặp lại mỗi buổi sáng, “Tôi sẽ khiêm tốn,” đó là khiêm tốn hay sao? Hay là khiêm tốn tự nảy sinh khi bạn không còn ngạo mạn, kiêu hãnh. Trong cùng cách như vậy, khi những sự việc mà ngăn cản hạnh phúc đã đi mất rồi, khi những lo âu, khát vọng, sự tìm kiếm an toàn của người ta đã ngừng hẳn, vậy thì hạnh phúc ở đó, bạn không phải tìm kiếm nó.

Tại sao hầu hết các bạn lại im lặng như thế? Tại sao các bạn không thảo luận với tôi? Bạn biết không, rất quan trọng khi bày tỏ suy nghĩ và cảm thấy của bạn dù rằng nó xấu xa, bởi vì nó sẽ có ý nghĩa nhiều lắm cho bạn, và tôi sẽ cho bạn biết tại sao? Nếu bạn bắt đầu bộc lộ những suy nghĩ và cảm thấy của bạn bây giờ, dù rằng nó ngập ngừng như thế nào chăng nữa, khi lớn lên bạn sẽ không bị bóp nghẹt bởi môi trường sống, bởi cha mẹ, bởi xã hội, bởi truyền thống của bạn. Nhưng bất hạnh thay những giáo viên của bạn không khuyến khích bạn tìm hiểu, họ không hỏi bạn suy nghĩ điều gì.

Người hỏi: Tại sao chúng ta lại khóc, và đau khổ là gì?

Krishnamurti: Một cậu bé muốn biết tại sao chúng ta lại khóc và đau khổ là gì. Bạn khóc khi nào? Bạn khóc khi một người nào đó lấy đi món đồ chơi của bạn, khi bạn bị tổn thương, khi bạn không thắng trong một trò chơi, khi giáo viên hoặc cha mẹ của bạn la mắng, hay khi một ai đó đánh bạn. Khi lớn lên bạn khóc mỗi lúc một ít đi, bởi vì chính bạn đã chai lì với cuộc sống rồi. Rất ít người trong chúng ta khóc khi lớn lên bởi vì chúng ta đã đánh mất tánh nhạy cảm lạ thường của thời niên thiếu. Nhưng đau khổ không chỉ là mất mát một điều gì đó, nó không chỉ là trạng thái cảm thấy của bị chặn đứng, bị thất vọng; đau khổ là một cái gì đó sâu xa hơn nhiều. Bạn thấy không, có một sự việc như là không hiểu rõ. Nếu không hiểu rõ, có đau khổ lớn lao. Nếu cái trí không vượt khỏi những rào chắn riêng của nó, có đau khổ.

Người hỏi: Làm thế nào chúng ta có thể hòa đồng mà không có xung đột?

Krishnamurti: Tại sao bạn lại phản kháng xung đột? Tất cả các bạn dường như nghĩ rằng xung đột là một sự việc kinh hãi. Lúc này bạn và tôi đang xung đột, phải vậy không? Tôi đang cố gắng nói cho bạn một điều gì đó, và bạn không hiểu rõ; vì vậy có một ý thức của mâu thuẫn, xung đột. Và điều gì sai trái với mâu thuẫn, xung đột, bực dọc? Bộ bạn không được bực dọc à? Hòa đồng không đến khi bạn tìm kiếm nó bằng cách lẩn tránh xung đột. Chỉ qua xung đột, và hiểu rõ xung đột, mới có hòa đồng.

Hòa đồng là một trong những sự việc khó khăn nhất để có được, bởi vì nó có nghĩa là một hợp nhất trọn vẹn của toàn thân tâm bạn trong tất cả điều gì bạn làm, trong tất cả điều gì bạn nói, trong tất cả điều gì bạn suy nghĩ. Bạn không có hòa đồng nếu không hiểu rõ sự liên hệ – liên hệ của bạn với xã hội, liên hệ của bạn với người đàn ông nghèo nàn, người dân làng, người ăn mày, người triệu phú và vị thống đốc. Muốn hiểu rõ sự liên hệ bạn phải đấu tranh với nó, bạn phải tìm hiểu và không chỉ chấp nhận những giá trị được thiết lập bởi truyền thống, bởi cha mẹ bạn, bởi người giáo sĩ, bởi tôn giáo và hệ thống kinh tế của xã hội quanh bạn. Đó là lý do tại sao phản kháng lại rất cần thiết, nếu không bạn sẽ không bao giờ có hòa đồng.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
05/12/2021(Xem: 6235)
Chấp hai tay cúi đầu miệng niệm Phật A Di Đà chào chúc thật cao sâu Khỏe sáng suốt cùng chân lý nhiệm mầu Được trường thọ thăng hoa trong cuộc sống… Sống trong một thế giới vô thường biến đỗi, với đầy sự nhiễu nhương, tang thương, chết chóc, do thiên tai, dịch bệnh, chiến tranh, xảy ra trước mắt hằng ngày, gây lắm khổ đau, điển hình như Covid-19 (với đầy ác khí) như hiện nay, cũng khiến cho nhiều người lo sợ, khủng hoảng và thức tĩnh. Thấy rõ được rằng, mọi cơ sở vật chất, với nhiều năm đầu tư xây dựng, chỉ một cơn động đất, sóng thần hay bão lửa, lũ lụt nổi lên, sẽ tan tành theo mây khói. Một đời người với biết bao nhiêu lo toan, tính toán, hy vọng, ước mơ, một cơn đại dịch xảy ra, đành âm thầm ra đi trong tức tưởi, không một người thân đưa tiễn, tất cả tài sản bao năm gầy dựng, phải bỏ lại, không mang theo được gì!
30/11/2021(Xem: 5167)
Người Phật tử chân chánh hiểu rằng Chân Lý Tuyệt Đối là không thể nghĩ bàn. Tất cả các pháp môn đều chỉ là phương tiện giúp ta đạt tới cái không nghĩ bàn đó. Trong khi tu hành, ta có thể chọn vào cửa Hữu (Tịnh độ) hay vào cửa Không (Thiền), tùy căn cơ và sở thích. Nếu ai cố chấp pháp mình là đúng, chê bai người khác sai – là chứng tỏ mình chưa hiểu chân lý là thứ gì. Vả lại, thuốc không có quí tiện: thuốc trị được bịnh là thuốc hay. Đại khái, Thiền là pháp môn cao thượng và thẳng tắt dành cho bậc Thượng căn, trong khi Tịnh độ dễ hiểu dễ hành và dễ chứng, cho nên cả Ba căn đều có thể tu được. Đức Bổn Sư Thích-Ca giảng pháp nầy chủ ý nhằm cứu độ chúng sanh thời Mạt pháp. Như trong kinh Đại Tập, Ngài nói: “Thời Mạt pháp, ức ức người tu hành ít có kẻ nào đắc đạo, chỉ nương nhờ pháp môn Tịnh độ mà thoát khỏi luân hồì.” Cho nên thời nầy người tu Tịnh độ thành công được vãng sanh vô số (có thoại chứng rành rành), trong khi Thiền sư đắc đạo (như khi xưa) có thể nói rất hiếm, đếm
05/11/2021(Xem: 17515)
Đại sư Ấn Quang nói: “Kẻ câu nệ vào Tích môn thì bảo: “Trong tất cả pháp, mỗi pháp đều sai khác”. Kẻ khéo nhìn sẽ nói: “Trong tất cả pháp, pháp pháp đều viên thông”. Như bốn cửa thành, gần cửa nào thời vào cửa ấy. Cửa tuy khác nhau, nhưng đều đưa vào một thành chẳng khác. Nếu biết ý này thì chẳng phải chỉ có những giáo lý rất sâu do chư Phật, chư Tổ đã nói mới là pháp để quy chân đạt bổn, minh tâm kiến tánh, mà hết thảy Ấm, Nhập, Xứ, Giới, Đại v.v... trong khắp thế gian cũng đều là pháp để quy chân đạt bổn, minh tâm kiến tánh! Mỗi một pháp cũng chính là chân, là bổn, là tâm, là tánh!”. Tập Lời Vàng (Gia Ngôn Lục) dù là toát yếu nhưng với một kẻ hậu học như tôi thì lại tự thấy mỗi mỗi câu nói của Đại Sư Ấn Quang đều bao hàm ý pháp, chỗ nào cũng cần phải học, chẳng thể đọc lướt qua nên phải dịch thuật đến ngàn ngàn câu kệ, hầu mong chuyển đạt lời lời ân cần tha thiết của Đại sư; chỉ để lại phần nói về các chính biến tại Trung Hoa, và những câu nói lập lại từ các bài giảng của Đại sư q
20/10/2021(Xem: 6369)
Kính số 52 Bát Thành có đoạn viết về sơ thiền một cách ngắn gọn như sau: “Ở đây, này Gia chủ, Tỷ-kheo ly dục, ly bất thiện pháp chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ” (Trung Bộ Kinh, 52 Kinh Bát Thành). Kinh văn quá súc tích về sơ thiền như vậy khó có thể thấm thấu được thâm ý của Thế Tôn, tạo ra nhiều kiến giải của các bút giả, hành giả, học giả vv, khiến quý Phật tử hoang mang. Sau đây là một trong những kiến giải của một hành giả được một đạo hữu chuyển cho Tâm Tịnh về sơ thiền: Hai bài kinh: Kinh Sa Môn Quả và Tiểu Kinh Dụ Lõi Cây, Phật dạy: “Tỳ kheo ly dục, ly bất thiện pháp, chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh vời tầm với tứ (có giác có quán). Muốn đạt được cảnh giới này vị này phải ly dục nơi các căn, tức là thanh lọc nhiễm ô nơi các căn. Để ly dục, vị này học hạnh viễn ly, hạnh Tỷ kheo (hạnh xuất gia) theo lời dạy trong kinh: “Ở đây có người vì lòng tin xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình
03/09/2021(Xem: 40182)
(Thắp đèn đốt hương trầm xong, đứng ngay ngắn chắp tay để ngang ngực mật niệm) 1. TỊNH PHÁP GIỚI CHƠN NGÔN: Án, lam xóa ha. (3 lần) 2. TỊNH KHẨU NGHIỆP CHƠN NGÔN: Tu rị, Tu rị, Ma ha tu rị, Tu tu rị, Ta bà ha. (3 lần) 3. TỊNH TAM NGHIỆP CHƠN NGÔN Án, Ta phạ bà phạ thuật đà ta phạ, đạt ma ta phạ, bà phạ thuật độ hám. (3 lần) 4. PHỔ CÚNG DƯỜNG CHƠN NGÔN: Án, Nga nga nẵng tam bà, phạ phiệt nhựt ra hồng (3 lần) 5. AN THỔ ĐỊA CHƠN NGÔN: Nam mô tam mãn đa một đà nẫm, Án, độ rô độ rô, địa vỷ ta bà ha (3 lần) Hộ pháp, Vĩ Đà thị chứng minh Thân trụ Phật tiền Tâm Tư nguyện Tưởng bằng bí chú đắc oan linh Hà chơn bất thức trì niệm Luật Thiên kinh vạn quyển vô nhất tự Nẳng mô tô tất đế, đa rị, đa rị, mạn đà, mạn đà, ta bà ha (3 lần)
03/09/2021(Xem: 11463)
Pháp hành Trì để vượt thoát Đại Nạn Covid-19
03/09/2021(Xem: 10450)
5.1). Đệ tử tên là: Một lòng quy kính Đức Phật A Di Đà, Thế giới Cực Lạc, Nguyện lấy hào quang, Trong sạch soi cho, Lấy thệ từ bi, Mà nhiếp thọ cho, Con nay chánh niệm, Niệm hiệu Như Lai, Vì đạo Bồ Đề, Cầu sanh Tịnh Độ. Phật xưa có thệ: “Nếu có chúng sinh, Muốn sinh về nước ta, Hết lòng tín nguyện, Cho đến mười niệm, Nếu chẳng đặng sinh, Chẳng thành Chánh Giác”. Do vì nhân duyên, Niệm hiệu Phật nầy, Được vào trong bể, Đại thệ Như Lai, Nhờ sức Từ Bi, Các tội tiêu diệt, Căn lành tăng trưởng, Khi mạng gần chung, Biết trước giờ chết, Thân không bệnh khổ, Tâm không tham luyến, Ý không điên đảo, Như vào Thiền định. Phật và Thánh Chúng, Tay nâng kim đài, Cùng đến tiếp dẫn, Trong khoảng một niệm, Sinh về Cực Lạc, Sen nở thấy Phật, Liền nghe Phật thừa, Chóng mở Phật tuệ, Khắp độ chúng sanh, Trọn Bồ Đề nguyện.
01/08/2021(Xem: 13150)
Chuông mõ gia trì là 2 pháp khí rất quan trọng trong nghi thức hành trì và tu tập mỗi ngày đối với người đệ tử Phật. Tiếng chuông, tiếng mõ rất là quen thuộc gần gũi trong sự hành trì tu tập hằng ngày của người Phật tử, nhất là Phật tử theo truyền thống Bắc tông. Phật tử theo truyền thống Nam tông trước kia thì không có gõ mõ, thỉnh chuông khi tụng kinh, nhưng bây giờ đã có chuông rồi, còn bên Bắc tông thì chuông mõ đã có từ ngàn xưa.
30/08/2020(Xem: 7845)
Ngày xưa, sau khi Đức Phật chứng Đạo, tại sao Ngài không mở trường Thiền để có thể dạy hàng ngàn, hàng vạn người cùng một lúc? Ngược lại, Ngài chỉ vân du từ nơi này sang nơi khác, tùy căn cơ khai thị cho những người hữu duyên Ngài gặp trên đường? Đơn giản vì trình độ, hoàn cảnh và cơ địa mỗi người một khác, nên đức Phật ngay nơi mỗi người khai thị pháp mà người đó đang trải nghiệm, và vì vậy chỉ người đó mới thật sự biết đức Phật đang chỉ dạy điều gì, người khác có nghe hay đọc lại kinh điển tường thuật thì cũng chỉ để tham khảo hay suy luận mà thôi.
17/07/2020(Xem: 7161)
Trong kinh có ghi lại lời cảnh giác của Đức Phật, Ngài đã từngnói rằng: “Phàm tất cả chúng sinh còn lên xuống trong ba cõi, lăn lộn trong sáu đường thì không một loài nào được hoàn toàn trong sạch, không một giống nào dứt hết tội lỗi sai lầm”.Lời nói của bậc toàn giác thật chính xác. Chúng sinh còn trầm luân trong ba cõi, sáu đường, là còn gây nhiều nghiệp xấu. Cho nên, dù chúng ta là ai của những đời trước, kiếp trước? Kiếp này, tuy chung sống ở cõi Ta-Bà nhưng mỗi người ôm vào đời một biệt nghiệp riêng, do tội lỗi hay phước báo đã gây ra trong đời trước. Nhưng nói chung,dù ở trong bất cứ hoàn cảnh nào thì con người cũng đã từngbị vô minh che mờ lý trí xúi quẩy tạo ra muôn ngàn tội lỗi, và tội lỗi đó cứ chồng chất mãi theo thời gian.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]