Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Học Đạo Là Như Thế!

30/08/202019:44(Xem: 5716)
Học Đạo Là Như Thế!
buddha_115

Học Đạo Là Như Thế!
HT Thích Viên Minh

Ngày xưa, sau khi Đức Phật chứng Đạo, tại sao Ngài không mở trường Thiền để có thể dạy hàng ngàn, hàng vạn người cùng một lúc? Ngược lại, Ngài chỉ vân du từ nơi này sang nơi khác, tùy căn cơ khai thị cho những người hữu duyên Ngài gặp trên đường? Đơn giản vì trình độ, hoàn cảnh và cơ địa mỗi người một khác, nên đức Phật ngay nơi mỗi người khai thị pháp mà người đó đang trải nghiệm, và vì vậy chỉ người đó mới thật sự biết đức Phật đang chỉ dạy điều gì, người khác có nghe hay đọc lại kinh điển tường thuật thì cũng chỉ để tham khảo hay suy luận mà thôi.

Cách dạy của Đức Phật cũng rất đơn giản, Ngài chỉ hướng dẫn mỗi người biết trở về khám phá sự thật – thực tại thân-thọ-tâm-pháp ngay nơi chính mình, không thể tìm kiếm ở đâu hay bất cứ ai khác. Ngài chỉ dạy đơn giản như thế, còn lại là việc của mỗi người tự mình khám phá, tự mình thấy ra sự thật chứ không có ai khác làm thay được cả. Học Đạo không thể là:”Thầy ơi, Thầy đã giác ngộ rồi, cho con giác ngộ với” được.

Ngày nay, Cam áp dụng Kinh Điển tu luyện được điều gì liền làm thiền sư Cam, và mở trường thiền để dạy Bưởi, Mít, Ổi, Xoài, …tất các loại hành theo kinh nghiệm mà mình đã đạt được! Thiền sinh Chanh, Quýt, Mận, Đào gì mỗi ngày cũng đều phải thực hành đúng theo phương pháp duy nhất của Cam đặt ra với mong cầu đạt được kinh nghiệm của Cam. Học và hành Đạo kiểu này hoàn toàn đi ngược lại với hướng khai thị của Đức Phật là trở về “nương tựa chính mình, không nương tựa ai khác” (Attā hi attano nātho, ko hi nātho paro siyā)!

Phật dạy trở về với thực tại thân thọ tâm pháp đang là, vì vậy, những gì đang xảy ra nơi thân-tâm mỗi người mới là cuốn kinh hiện thực đáng đọc nhất, là sự thật mà mỗi người cần tự khám phá chứ không phải tìm kiếm sự thật nơi thầy mình, ở trong chùa, trong các trường thiền hay trong kinh điển nào cả. Nhiều Phật tử đã bỏ rất nhiều thời gian để nghiên cứu Vi Diệu Pháp, rồi Duy Thức Học, rồi luận Tánh Không v.v… Cuối cùng kiến thức ngày càng nhiều mà trí tuệ ngày càng bị sở tri che lấp, học tập nhiều năm rồi cũng chả thấy Sự Thật đâu cả.

Nói về kiến thức Phật học thì thời mạt pháp này Tăng Ni, thậm chí Phật tử, còn giỏi hơn các vị Thánh thời đức Phật rất nhiều. Hầu hết các bậc Thánh chỉ nghe được một pháp thoại hay thậm chí một câu kệ Phật nói thôi đã chứng ngộ rồi, còn ngày nay có rất nhiều học giả, nhiều tiến sĩ Phật học, nhiều vị thuộc lòng Tam Tạng, thông suốt cả Chú Giải lẫn các bộ Luận v.v… nhưng không biết có ngộ được gì không!? Trong khi năm vị Kiều-trần-như (Kondañña) chỉ nghe pháp thoại Chuyển Pháp Luân là đã giác ngộ, rồi nghe lời đức Phật họ đi đó đây du hoá, ít khi nghe thêm pháp thoại nào nữa. Ngày nay nhiều Tăng Ni Phật tử nghe, đọc, nghiền ngẫm, thậm chí thuộc làu làu không biết bao nhiêu bài kinh, mà giác ngộ thì chả biết về đâu.
blank
Học Đạo vẫn là tự khám phá sự thật nơi chính mình, ngay cả khi được đức Phật trực tiếp khai thị thì sự thật cần khám phá vẫn là ở nơi chính mình, chứ không phải nơi Phật, nơi lời Phật dạy hoặc nơi Tăng đoàn được cho là mẫu mực. Trong thiền tông có câu “phùng Phật sát Phật” với ý nương tựa chính mình, không nương tựa ai khác. Phật dạy: “Ai thấy Sự Thật là thấy Như Lai” còn người mỗi ngày nắm chéo y Như Lai, đi theo Như Lai từng bước chân cũng không bao giờ thấy được Như Lai, huống chi rập khuôn các phương pháp do các thiền sư chế định theo kinh nghiệm cục bộ của mình! Người giác ngộ chỉ có thể khai thị, động viên, khuyến khích để người khác trở về tự giác chính mình chứ không thể giác ngộ thay cho họ được.

Đức Phật dạy “Tự tâm thuần tịnh là nơi nương tựa hi hữu”. Tất cả sự thật đã đầy đủ ngay nơi mỗi người. Mọi chân lý đều có sẵn, Sinh Tử hay Niết-bàn cũng đều ở ngay đây, trong từng giây phút nơi chính thân-tâm này chứ không ở bất cứ nơi nào khác. Có người thắc mắc rằng làm sao có thể nương tựa chính mình khi mình vẫn còn đang hoang mang, chới với? Nhưng tại sao mình lại hoang mang, chới với như thế? Chính là vì khi gặp khó khăn mình liền có thói quen hướng ra ngoài tìm chỗ nương tựa, bám víu. Cuộc sống vốn vô thường, chỗ bám víu cũng chỉ là tạm bợ, nhất thời, nên khó tránh khỏi hoang mang, chới với!. Đang chới với mà loay hoay hướng ra ngoài tìm chỗ bám víu lại càng chới với thêm. Vì vậy, nếu không trở về nương tựa chính mình thì vẫn mãi còn chới với bất an.

Quy y Tam Bảo Phật – Pháp – Tăng nghĩa là gì? Một cách rốt ráo, quy y Phật là trở về nương tựa tính sáng suốt, tỉnh giác sẵn có nơi mỗi người. Quy y Pháp là trở về trọn vẹn với thực tính thân-thọ-tâm-pháp đang là, và quy y Tăng là trở về với sự thanh tịnh trong lành của thân khẩu ý, với tâm nhẫn nại, từ bi, bao dung, hỷ xả với mọi sự mọi vật. Vì vậy, cuộc đời là trường thiền vĩ đại nhất, trong đó trải nghiệm của mỗi người là đối tượng thiền trung thực nhất của người ấy, và mỗi tình huống, mỗi sự kiện xảy ra là bài học chính xác nhất thích ứng với căn cơ trình độ giúp họ nhận ra chính mình, là tấm gương phản ánh chính mình qua nghiệp duyên và nhân quả. Chính đó là những bậc thầy ngày đêm không mệt mỏi, tình nguyện chỉ dạy cho mỗi người sống thiền một cách cụ thể và chính xác hơn hướng dẫn của bất cứ thiền sư nào.

Trong cuộc đời mỗi người, ai cũng gặp phải những khó khan về đời sống gia đình, bạn bè, tình yêu, hôn nhân hoặc về công ăn việc làm, danh vọng địa vị, giáo dục con cái, sức khỏe, bệnh tật, v.v… Ai cũng phải đối diện với những bài toán khó trong cuộc đời. Người đời thì thường vừa mong thành đạt vừa muốn làm sao được sống bình an, vừa cầu ít gian nan lại vừa cao danh vọng! Người tu hành thì vừa mong đạt sở tri sở đắc lại vừa muốn làm sao thường an vui giải thoát, vừa muốn làm sao mau chứng ngộ Niêt-bàn vừa nỗ lực tích luỹ phước báu nhân thiên, v.v… Những bài toán “làm thế nào để…?” như thế càng nhiều thì càng loay hoay trăn trở với hết giải pháp này đến phương pháp nọ, tìm nơi nương tựa, ô dù vào tha lực… để rồi gánh lấy hậu quả khó lường, làm sao trở về an lạc nơi chính mình được!

Những gì đang xảy ra hiện nay trên thế giới đều là kết quả của ý muốn được tốt hơn, dễ dàng hơn, tiện nghi hơn của biết bao thế hệ, nhưng kết quả của những nỗ lực ấy lại không mấy khả quan. Cuộc sống vật chất ngày càng phong phú hơn, nhưng tại sao cuộc sống tinh thần lại ngày một tàn lụi? Tại sao công nghệ ngày càng phát triển thì môi trường ngày càng bị nhiễm độc? Cuộc sống của con người ngày càng thịnh vượng hơn, nhưng tại sao họ ngày càng bất an xáo trộn hơn?… Xem ra không mấy ai tìm được giải đáp chính xác, tối hậu cho các bài toán của đời mình. Qua biết bao thế hệ, chúng ta cứ loay hoay giải quyết được cái này thì lại hỏng cái khác, chữa sai xong chỗ này thì lại phát sinh lỗi chỗ kia, không bao giờ chấm dứt.
Sự sống là đa chiều, với sự gắn kết chặt chẽ với nhau và luôn biến động không ngừng. Vì vậy không thể tìm giải đáp hoàn hảo cho một vấn đề, khi chưa khám phá ra được nguyên nhân rốt ráo của tất cả các vấn đề trong cuộc sống.

Thật may mắn cho nhân loại, Đức Phật là người đã thấy ra toàn bộ sự thật và Ngài chỉ ra rằng đáp án cho cuộc đời không thể tìm thấy ở bên ngoài, vì nó chỉ có trong lòng mỗi người. Khi trở về nhìn lại chính mình, sẽ phát hiện ra tuy mỗi chúng ta đều muốn cuộc sống được tốt hơn, hoàn hảo hơn, nhưng phải tốt hơn hoàn hảo hơn theo ý mình mới được, vì vậy làm sao tránh khỏi phát sinh xung đột với quan niệm hoàn hảo của người khác. Nhìn lại mình, chúng ta sẽ phát hiện ra những bài toán khó mà mỗi người đang tự đặt ra cho mình dường như chỉ là một trò chơi, chúng ta tự trói buộc mình vào hệ thống giá trị quy ước của xã hội, tự đặt cho mình một chướng ngại rồi lại tìm cách vượt qua. Nhìn lại mình, rồi chúng ta cũng sẽ phát hiện ra tu tập chỉ là quá trình tự điều chỉnh nhận thức và hành vi, chúng xảy ra một cách tự động chứ không có một cái Ta nào cả, giống như khi ngủ thì mũi vẫn tự thở, tim vẫn tự đập mà thậm chí khả năng tự động điều chỉnh còn tốt hơn nhiều.

Học Đạo là như thế, là trở về không ngừng khám phá chính mình cho đến khi mỗi người tự thấy ra nguyên nhân duy nhất phát sinh ra mọi vấn đề, mọi khổ đau và phiền não mà họ đã phải gánh chịu qua biết bao kiếp sống, và lập tức phát hiện Sự Thật tối hậu, thấy ra hạnh phúc viên mãn đang ngay đó nơi thực tại hiện tiền.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
12/07/2020(Xem: 6231)
Theo, Đại-Vô-Lượng-Thọ-Kịnh. Đại-A-Di-Đà-Kinh Q1.- Bình-Đẳng-Giác- Kinh Q1. Đại-Bảo-Tích-Kinh Q17. Bi-Hoa-Kinh Q3. Vô-Lượng-Quảng- Trang-Nghiêm-Đại-Thừa-Kinh… Thì đều lạy tu theo 48 nguyện. 48 đại nguyện có đủ trong 6 bộ kinh nói trên. Chỗ cốt yếu cho người tu niệm Phật và lễ lạy 48 đại nguyện là : 1.Tin tưởng tha thiết nguyện về cõi Phật A Di Đà chắc thật diệt sạch hết tâm nghi ngờ. Lòng tin trọn vẹn trong sạch. 2. Lập thời khóa tu niệm lễ lạy trong một ngày đêm 1, 2, hay 3 Thời, Tùy ý thích. Chọn cho thích hợp để tu. Quan trọng là thành tâm. Đừng ham nhiều mà lụy thân rồi chán bỏ! 3. Quyết tâm phát nguyện vãng sanh về Cực Lạc Tịnh Độ, Tâm luôn kính nhớ ưa thích cõi Cực Lạc của Từ Phụ A Di Đà, quí mến Từ Phụ A Di Đà. niệm Hồng danh Phật liên tục, khi xướng lạy lời nguyện thân tâm vui thích mừng rỡ cảm động, thân nhẹ lân lân như ơn Phật đang ban phước cao vời vô tận, đầy tâm an lạc, như thấy mình đầy đủ sức khỏe. Niệm, chừng nào được “nhứt tâm bất loạn” đồng nghĩa với “hế
22/06/2020(Xem: 4644)
Đi tìm nguồn cội của những việc cần tìm hiểu quả là điều rất hữu ích và cần thiết cho những người học Phật như chúng ta ngày nay. Tuy trong hiện tại chúng ta có quá nhiều phương tiện để tìm hiểu, đọc tụng cũng như học hỏi, nhưng cũng không phải muốn tìm gì là có ngay lời giải đáp đúng như ý ta mong đợi, mà vẫn cần phải qua những trải nghiệm của bản thân cũng như sự tu học hành trì, nghiên cứu lâu ngày, chúng ta mới thẩm thấu được lời Phậtdạy. Vì lẽ lời dạy của Đức Phật nằm rải rác khắp nơi trong ba tạng của Nam Truyền và ba tạng của Bắc Truyền, có cả hàng triệu triệu chữ và nhiều nhà phiên dịch, chú giải khác nhau, nên không phải ai cũng có cơ duyên để trì tụng, nghiên cứu hết ba tạng Kinh điển này. Riêng bản thân tôi không dám làm việc gì quá khả năng, chỉ cố gắng gom góp lại những chỗ đã đọc qua, nhằm cống hiến cho quý vị một sự hiểu biết căn bản về Đức Phật A-di-đà, để chúng ta không còn nghi ngờ gì nữa khi trì tụng các Kinh A-di-đà, Kinh Vô Lượng Thọ hay Kinh Quán Vô Lượng Thọ. Đó
21/06/2020(Xem: 8496)
Do một thiện niệm vừa phát sinh sau khi TT Thích Nguyên Tạng chấm dứt 48 bài pháp thoại liên tục được livestream trên Facebook của trangnhaquangduc trong mùa cách giản xã hội vì đại dịch Corona vào mỗi sáng sau thời công phu khuya ( với kinh Lăng Nghiêm, Đại Bi và thập chú ) mà người viết mới có dịp ôn lại những gì trong “ PHÁP NGỮ CỦA HT TỊNH KHÔNG” đã được TT Thích Nguyên Tạng Việt dịch và được xuất bản từ 2004. Thời gian trôi qua nhanh quá , thấm thoát đã 16 năm mà đến bây giờ đây là lần thứ ba tôi mới đọc lại , phải nói là rất ân hận cho sự vô minh của mình trong nhiều năm và đã uổng phí thời gian để có thể tu tập đúng hơn nữa .
07/05/2020(Xem: 5841)
Đệ tử tên là: .......... Một lòng quy kính - Đức Phật A Di Đà. Thế giới Cực Lạc - Nguyện lấy hào quang - Trong sạch soi cho, Lấy thệ từ bi - Mà nhiếp thọ cho - Con nay chánh niệm, Niệm hiệu Như Lai - Vì đạo Bồ Đề - Cầu sanh Tịnh Độ. Phật xưa có thệ: “Nếu có chúng sinh - Muốn sinh về nước ta Hết lòng tín nguyện - Cho đến mười niệm - Nếu chẳng đặng sinh Chẳng thành Chánh Giác - Chỉ trừ kẻ ngũ nghịch - Kẻ bài báng Chánh Pháp” - Do vì nhân duyên - Niệm hiệu Phật nầy - Được vào trong bể - Đại thệ Như Lai - Nhờ sức Từ Bi Các tội tiêu diệt - Căn lành tăng trưởng.- Khi mạng gần chung, Biết trước giờ chết- Thân không bệnh khổ- Tâm không tham luyến,
05/05/2020(Xem: 5996)
Chiều nay ngày 19 tháng 7 năm Mậu tuất (2018), tôi đến Phương trượng Tổ đình Từ Đàm, đảnh lễ Trí Quang Thượng Nhân, sau khi xuất hạ, Thượng Nhân đã dạy cho tôi những điều hữu ích gồm: 1- Pháp học: Pháp giới tạng thân A-di-đà-Phật là chỉ cho Thân thể của Phật A-di-đà bao trùm khắp cả không gian và thời gian về mặt không gian là cả mười phương. Về mặt thời gian là bao trùm cả ba đời.
13/03/2020(Xem: 17834)
Quyển "The Buddha and His Teachings" (Đức Phật và Phật Pháp) được ấn hành tại Sài gòn năm 1964 nhờ sự phát tâm bố thí của liệt vị Phật tử Việt Nam. Đạo hữu Phạm Kim Khánh, pháp danh Sunanda, đã dày công phiên dịch thiên khái luận nhỏ bé này ra tiếng mẹ đẻ với mục đích đáp lại phần nào lòng mong ước của những ai muốn hiểu Đức Phật và giáo lý của Ngài. Công đức này được hàng Phật tử Việt Nam ghi nhận. Trong hiện tình, nước Việt Nam không mấy được yên ổn. Bao nhiêu người đang đau khổ, về vật chất cũng như tinh thần. Không khí căng thẳng này quả không thích hợp với việc làm có tánh cách tinh thần và đạo đức
20/12/2019(Xem: 5110)
Niệm Phật là phương pháp thực hành rất phổ biến trong Phật Giáo Đại Thừa, đặc biệt là Tịnh Độ Tông hay còn được gọi là Pháp môn Niệm Phật. Nhưng nếu thuần túy chỉ niệm Phật mà thôi, thiếu tu học thì chúng ta có thể tái sanh về cõi Tây Phương Cực Lạc được hay không? Tính cốt lõi của pháp môn Niệm Phật là lấy Minh tâm (trong sáng) làm công yếu, lấy Hạnh môn (tịnh tâm) làm chính yếu. Tu và học phải đi đôi với nhau. Tu là thay đổi bản chất, tánh nết của mình cho được tốt hơn, cho được thiện lành hơn -đó mới là tu tâm dưỡng tánh. Còn Học là để mở mang kiến thức, để hiểu và nhận ra những điều thiện lành. Vậy tu học là đôi chân vững chắc để chúng ta đi đến được bến bờ giác ngộ. Tu làm sao để nở tâm Bồ Đề, đừng nở tâm ganh tỵ. « Văn, tư, tu » như lời Đức Phật dạy, trước tiên chúng ta phải lắng nghe, sau đó suy nghĩ để nhận biết rồi mới thực hành. Khi niệm Phật chúng ta phải nhất tâm tưởng đến Phật hiện tại, giúp tâm chúng ta có chất liệu để thành Phật. « Nhất thiết ch
12/09/2019(Xem: 5755)
Đại sư Từ Chiếu (Chi: Tzu Chao) có lần nói: "Người tu Tịnh độ lúc sắp chết thường bị Ba Điều Nghi và Bốn cửa ải làm trở ngại cho việc vãng sanh Cực Lạc. Do đó hành giả ngày thường cần chuẩn bị, suy tư và đề phòng để có thể loại trừ chúng trong lúc lâm chung.
24/08/2019(Xem: 8899)
Niết bàn là khái niệm thể hiện triết lý độc đáo về giải thoát của Phật giáo. Đây là một trạng thái tâm linh hoàn toàn thanh thản, giải thoát khỏi mọi đau khổ của cuộc đời. Trạng thái này có thể đạt được khi còn đang sống (Hữu dư Niết bàn) hoặc khi đã chết (Vô dư Niết bàn). Phật giáo Tiểu thừa hướng tới Vô dư Niết bàn - một Niết bàn tịch diệt, cô đơn, từ bỏ mọi thú vui trần thế. Phật giáo Đại thừa lại hướng tới Hữu dư Niết bàn - một Niết bàn nhân bản, nhập thế và hoạt động cùng những buồn vui nhân thế. Quan niệm này đã mang lại một sức hấp dẫn, sức sống mới cho Phật giáo, đặc biệt là trong xã hội hiện đại.
22/08/2019(Xem: 6733)
Chư Tôn liên tông vãng sanh tịnh độ Cực Lạc lưu lại bằng chứng: - Đa số các ngài vãng sanh tự tại và biết trước ngày tháng ra đi - Một số lưu lại xá lợi (Sư Thích Thiền Tâm biết trước 6 tháng, ngày vãng sanh Cực Lạc, ra đi ngay trên bổn tọa trước đại chúng, lưu lại xá lợi răng ngũ sắc, và một bài kệ Bồ Tát Thích Quảng Đức an nhiên tự thiêu vì đạo pháp để lại xá lợi trái tim bất diệt)
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567