Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

27-Tìm Chúa

29/06/201115:25(Xem: 5663)
27-Tìm Chúa

NGHĨ VỀ NHỮNG ĐIỀU NÀY
Nguyên tác: Think on These Thingsby Jiddu Krishnamurti
Lời dịch: ÔNG KHÔNG Bản dịch 2006 – Hiệu đính 7- 2008

Chương 27
Tìm Chúa

Một trong nhiều vấn đề mà tất cả chúng ta phải đương đầu, và đặc biệt những người đang được giáo dục và sắp sửa phải vào đời và đối diện với thế giới, là vấn đề của đổi mới. Nhiều nhóm người khác nhau – những người xã hội, những người cộng sản, và những người đổi mới thuộc mọi loại – đang quan tâm đến việc cố gắng làm những thay đổi nào đó trong thế giới, những thay đổi mà rõ ràng là cần thiết. Mặc dù trong vài quốc gia có được một mức độ thịnh vượng kha khá, khắp thế giới vẫn còn tình trạng đói khát, thiếu thốn lương thực và hàng triệu con người đang không có đủ quần áo và không nơi thích hợp để ngủ. Và làm thế nào một cuộc cách mạng cơ bản xảy ra mà không tạo ra nhiều hỗn loạn, thêm nhiều đau khổ và xung đột? Đó là vấn đề thực sự, phải vậy không? Nếu người ta đọc một chút ít lịch sử và quan sát những khuynh hướng chính trị hiện nay, nó trở nên rất rõ ràng rằng điều mà chúng ta gọi là đổi mới dù được khao khát và cần thiết bao nhiêu, luôn luôn vẫn còn tiếp theo những hình thức khác của rối loạn và xung đột; và để chận đứng sự đau khổ thêm nữa này, nhiều luật pháp, nhiều kiểm soát và kiểm soát ngược lại trở nên cần thiết. Đổi mới tạo ra những vô trật tự mới; khi đưa những sự việc này vào trật tự, vẫn còn những vô trật tự thêm nữa được sinh ra, và vì vậy cái vòng lẩn quẩn cứ tiếp tục. Đây là điều gì chúng ta bị đối diện, và nó là một qui trình dường như không có kết thúc.

Bây giờ làm thế nào người ta có thể phá vỡ cái vòng lẩn quẩn này? Bạn nên nhớ rằng, đổi mới rõ ràng là cần thiết; nhưng liệu có thể thực hiện đổi mới mà không mang lại rối loạn thêm nữa hay không? Điều này đối với tôi có vẻ là một trong những vấn đề căn bản mà bất kỳ một người biết suy nghĩ nào cũng quan tâm đến. Vấn đề không phải loại đổi mới nào cần thiết, hay ở mức độ nào, nhưng liệu có loại đổi mới nào có thể không tạo ra cùng nó những vấn đề khác mà lại nữa tạo thêm sự cần thiết phải đổi mới. Và người ta phải làm gì để phá vỡ cái qui trình vô tận này? Chắc chắn, đó là nhiệm vụ của giáo dục, dù trong một ngôi trường bé nhỏ hay trong trường đại học to lớn, để ngăn chặn vấn đề này, không phải một cách trừu tượng, theo lý thuyết, không phải chỉ đang triết lý hay viết những quyển sách về nó, nhưng bằng cách thực sự đối diện cùng nó để tìm ra cách giải quyết nó. Con người bị trói buộc trong cái vòng lẩn quẩn này của đổi mới và luôn luôn cần đổi mới thêm nữa và, nếu cái vòng lẩn quẩn này không bị phá vỡ, những vấn đề của chúng ta không thể giải quyết được.

Vì vậy, loại giáo dục nào, loại suy nghĩ nào là cần thiết để phá vỡ cái vòng lẩn quẩn này? Hành động nào sẽ kết thúc được sự gia tăng của những vấn đề trong tất cả những hoạt động của chúng ta? Liệu có bất kỳ chuyển động nào của tư tưởng, trong bất kỳ phương hướng nào, có thể làm tự do con người khỏi cảnh sống này, sự đổi mới mà luôn luôn cần đổi mới thêm nữa. Nói khác đi, liệu có một hành động không bị sinh ra từ phản ứng hay không?

Tôi nghĩ rằng có một cách sống mà trong đó không còn qui trình đổi mới tạo ra đau khổ thêm nữa này, và cách sống đó có lẽ được gọi là tôn giáo. Con người tôn giáo thực sự không quan tâm đến đổi mới, anh ấy không quan tâm tạo ra một sự thay đổi trong trật tự xã hội; trái lại anh ấy đang tìm kiếm sự thật là gì, và chính tìm kiếm đó có một ảnh hưởng thay đổi vào xã hội. Đó là lý do tại sao giáo dục phải quan tâm chính đến việc giúp đỡ em học sinh tìm ra sự thật hay Chúa, và không chỉ chuẩn bị cho em phù hợp vào cái khuôn mẫu của một xã hội đã bị quy định trước.

Tôi nghĩ rằng rất quan trọng phải hiểu rõ việc này trong khi chúng ta còn trẻ; bởi vì, khi chúng ta lớn lên và bắt đầu khước từ những vui chơi và những giải trí bé nhỏ của chúng ta, những ham muốn dục tình và những tham vọng tầm thường, chúng ta càng trở nên hăng hái ý thức được những vấn đề to lớn mà thế giới phải đương đầu, và rồi thì chúng ta muốn làm một điều gì đó về chúng, chúng ta muốn tạo ra một loại xã hội tốt đẹp hơn. Nhưng nếu chúng ta không có tánh tôn giáo một cách sâu sắc, chúng ta chỉ tạo nhiều hỗn loạn thêm, nhiều đau khổ thêm; và tôn giáo chẳng có liên quan gì đến những vị giáo sĩ, những nhà thờ, những giáo đường hay những niềm tin có tổ chức. Những sự việc này không là tôn giáo gì cả, nó chỉ là những tiện nghi xã hội để kềm hãm chúng ta trong một khuôn mẫu đặc biệt của tư tưởng và hành động; chúng là những phương tiện để khai thác sự nhẹ dạ, hy vọng và sợ hãi của chúng ta. Tôn giáo là công việc tìm kiếm cái gì là sự thật, cái gì là Chúa, và tìm kiếm này đòi hỏi năng lượng vô hạn, thông minh tổng thể, suy nghĩ tinh tế. Chính là trong sự tìm kiếm cái vô hạn này mới có hành động xã hội đúng đắn, không phải trong cái tạm gọi là đổi mới của một xã hội đặc biệt.

Muốn tìm ra sự thật là gì phải có nhiều thương yêu và một ý thức sâu sắc về sự liên hệ của con người với tất cả sự việc và sự vật – mà có nghĩa rằng người ta không quan tâm đến sự tiến bộ và sự thành tựu riêng của người ta. Tìm kiếm sự thật là tôn giáo thực sự, và con người đang tìm kiếm sự thật là một con người tôn giáo thuần khiết. Một con người như thế, bởi vì tình yêu của anh ấy, đứng ngoài xã hội, và vì vậy hành động của anh ấy vào xã hội hoàn toàn khác hẳn hành động của con người ở trong xã hội mà quan tâm đến sự đổi mới nó. Người đổi mới không bao giờ tạo ra một văn hóa mới. Điều gì cần thiết là sự tìm kiếm của một con người tôn giáo thuần khiết, bởi vì chính tìm kiếm này tạo ra văn hóa riêng của nó và nó là hy vọng duy nhất của chúng ta. Bạn thấy không, tìm kiếm sự thật mang lại một trạng thái sáng tạo bùng nổ cho cái trí, mà là cách mạng thực sự, bởi vì trong tìm kiếm này cái trí không bị vấy bẩn bởi những luật lệ và trừng phạt của xã hội. Vì được tự do khỏi tất cả việc đó, con người tôn giáo có thể tìm ra cái gì là sự thật; và chính sự khám phá của cái gì là sự thật từ khoảnh khắc sang khoảnh khắc mới sáng tạo một văn hóa mới.

Đó là lý do tại sao rất quan trọng để bạn có được loại giáo dục đúng đắn. Muốn thực hiện việc này chính người giáo dục phải được giáo dục đúng đắn để cho anh ấy sẽ không coi việc dạy học chỉ như là một phương tiện kiếm sống, nhưng sẽ có khả năng giúp đỡ em học sinh gạt đi tất cả những giáo điều và không bị ngăn cản bởi bất kỳ tôn giáo hay niềm tin nào. Những con người tụ họp với nhau dựa trên nền tảng của uy quyền tôn giáo, hay thực hành những lý tưởng nào đó, tất cả đều quan tâm đến đổi mới xã hội nhưng đó chỉ là công việc trang trí những bức tường nhà tù mà thôi. Chỉ có con người tôn giáo thực sự mới là con người cách mạng đích thực; và chức năng của giáo dục là giúp đỡ mỗi người trong chúng ta là một người tôn giáo đúng theo ý nghĩa thực sự của từ ngữ, bởi vì sự cứu rỗi của chúng ta chỉ nằm trong phương hướng đó.

Người hỏi: Tôi muốn làm công tác xã hội nhưng tôi không biết phải bắt đầu như thế nào?

Krishnamurti: Tôi nghĩ rất quan trọng khi tìm ra được không phải làm thế nào để bắt đầu, nhưng tại sao bạn muốn làm công tác xã hội. Tại sao bạn muốn làm công tác xã hội? Có phải vì bạn thấy sự đau khổ trong thế giới – chết đói, bệnh tật, bóc lột, sự dửng dưng tàn nhẫn của phía giàu có kinh ngạc kề bên phía nghèo khổ khủng khiếp, sự thù địch giữa con người và con người? Đó là lý do phải không? Bạn muốn làm công tác xã hội vì trong quả tim của bạn có tình yêu và vì vậy bạn không quan tâm đến thành công riêng của bạn phải không? Hay công tác xã hội là phương tiện tẩu thoát khỏi bạn? Bạn hiểu rõ không? Ví dụ, bạn thấy không, tất cả sự rắc rối đều liên quan đến hôn nhân truyền thống, nên bạn nói rằng, “Tôi sẽ không bao giờ lập gia đình,” và thay vì vậy bạn buông trôi mình trong công tác xã hội, hay có lẽ cha mẹ bạn đã thúc giục bạn đi theo con đường đó, hay bạn có một lý tưởng. Nếu nó là một phương tiện của tẩu thoát, hay nếu bạn chỉ theo đuổi một lý tưởng được thiết lập bởi xã hội, bởi một người lãnh đạo, hay một giáo sĩ, hay bởi chính bạn, vậy thì bất kỳ công tác xã hội nào bạn làm sẽ chỉ tạo ra đau khổ thêm nữa. Nhưng nếu bạn có tình yêu trong quả tim bạn, nếu bạn đang tìm kiếm sự thật và vì vậy là một con người tôn giáo thực sự, nếu bạn không còn tham vọng, không còn theo đuổi thành công, và đạo đức của bạn không hướng đến mục đích được kính trọng – vậy thì chính cuộc sống của bạn sẽ giúp đỡ tạo ra một thay đổi tổng thể của xã hội.

Tôi nghĩ hiểu rõ điều này quan trọng lắm. Khi chúng ta còn trẻ tuổi, như hầu hết các bạn, chúng ta muốn làm một cái gì đó, và công tác xã hội là công việc dễ dàng nhất, những quyển sách đã viết về nó, những tờ báo đã tuyên truyền cho nó, có những trường học đào tạo những người làm công tác xã hội, và vân vân. Nhưng bạn thấy không, nếu không có tự hiểu biết, nếu không hiểu rõ chính bạn và những liên hệ của bạn, bất kỳ công tác xã hội nào bạn làm sẽ đều vô ích cả.

Chính là một người hạnh phúc, chứ không phải người lý tưởng hay người trốn chạy đau khổ, mới làm cách mạng; và người hạnh phúc không là người có nhiều tài sản. Người hạnh phúc là người tôn giáo thực sự và chính đang sống của anh ấy là công việc xã hội. Nhưng nếu bạn chỉ trở thành một trong vô số những người làm công tác xã hội, tâm hồn bạn sẽ trống rỗng. Bạn có lẽ cho hết tiền bạc của bạn, hay thuyết phục những người khác đóng góp của cải của họ, và bạn có lẽ mang lại những cải cách tuyệt vời; nhưng chừng nào tâm hồn của bạn còn trống rỗng và cái trí của bạn còn nhét đầy những lý thuyết, cuộc sống của bạn sẽ bị đờ đẫn, buồn thảm, không có hân hoan. Vì vậy, trước hết phải hiểu rõ về chính mình, và từ hiểu rõ về chính mình đó sẽ có hành động thuộc loại đúng đắn.

Người hỏi: Tại sao người ta lại nhẫn tâm như thế?

Krishnamurti: Điều đó khá đơn giản, phải vậy không? Khi giáo dục giới hạn chính nó trong việc truyền đạt hiểu biết và chuẩn bị cho em học sinh một việc làm, khi nó chỉ trình bày những lý tưởng và dạy cho em chỉ biết quan tâm đến những thành công riêng của em, hiển nhiên con người trở nên nhẫn tâm. Bạn thấy không, hầu hết chúng ta không có tình yêu trong tâm hồn mình. Chúng ta không bao giờ nhìn ngắm những vì sao hay thích thú trong tiếng rì rào của những dòng nước; chúng ta không bao giờ quan sát ánh trăng đang nhảy múa trên dòng suối đang chảy hay nhìn ngắm đường bay của một con chim. Chúng ta không có tiếng hát trong tâm hồn; chúng ta luôn luôn bị bận rộn; cái trí của chúng ta đầy những kế hoạch và những lý tưởng cứu vớt nhân loại; chúng ta phát nguyện giữ tình huynh đệ, nhưng chính ánh mắt của chúng ta lại là sự khước từ nó. Đó là lý do tại sao rất quan trọng cần có một loại giáo dục đúng đắn trong khi chúng ta còn trẻ, để cho cái trí và tâm hồn chúng ta được khoáng đạt, nhạy cảm, nhiệt tình. Nhưng nhiệt tình đó, năng lượng đó, hiểu rõ bùng nổ đó bị hủy diệt khi chúng ta sợ hãi; và hầu hết chúng ta đều sợ hãi. Chúng ta sợ hãi cha mẹ, giáo viên, giáo sĩ, chính quyền, ông chủ; chúng ta sợ hãi chính chúng ta. Vì vậy cuộc sống trở thành một sự việc của sợ hãi, của tăm tối, và đó là lý do tại sao con người lại nhẫn tâm.

Người hỏi: Liệu người ta có thể kềm hãm không làm bất kỳ điều gì mình thích và tìm ra con đường dẫn đến tự do hay không?

Krishnamurti: Bạn biết không, một trong những điều khó khăn nhất là tìm ra những gì chúng ta muốn làm, không chỉ trong khi chúng ta còn niên thiếu, nhưng suốt cuộc đời. Và nếu bạn không tìm ra cho chính mình cái gì bạn thực sự muốn làm bằng toàn thân tâm, bạn sẽ chấm hết khi bạn làm một việc gì đó mà chẳng có hứng thú, và rồi thì cuộc sống của bạn sẽ đau khổ; và vì đau khổ, bạn sẽ tìm kiếm sự khuây khoả trong những rạp chiếu phim, nhậu nhẹt, đọc vô số những quyển sách, hoạt động trong loại xã hội nào đó và mọi chuyện như thế.

Vì vậy, liệu người giáo dục có thể giúp bạn tìm ra điều gì bạn muốn làm suốt cuộc đời, mà không liên quan gì đến công việc cha mẹ và xã hội có lẽ muốn bạn làm hay không? Đó là câu hỏi thực sự, phải vậy không? Bởi vì, nếu ngay khi bạn tìm ra cái gì bạn thích làm bằng toàn thân tâm, vậy thì bạn là một người tự do; vậy thì bạn có khả năng, tự tin, sáng tạo. Nhưng nếu, không biết cái gì bạn thực sự muốn làm, bạn có trở thành một luật sư, một nhà chính trị, thành người này hoặc người kia, bạn vẫn không có hạnh phúc, bởi vì chính nghề nghiệp đó sẽ trở thành phương tiện hủy hoại bạn và những người khác nữa.

Bạn phải tìm ra cho chính mình bạn yêu thích cái gì. Đừng suy nghĩ dựa vào sự chọn lựa của một trung tâm hướng nghiệp cho phù hợp xã hội, bởi vì trong cách đó bạn không bao giờ khám phá ra cái gì bạn yêu thích làm. Khi bạn yêu thích làm một cái gì đó, không có vấn đề chọn lựa. Khi bạn yêu thích, và hãy để tình yêu làm cái gì nó muốn, có hành động đúng đắn, bởi vì tình yêu không bao giờ tìm kiếm thành công, không bao giờ trói buộc trong sự bắt chước; nhưng nếu bạn dành cuộc sống của bạn cho một cái gì đó mà bạn không ưa thích, bạn sẽ không bao giờ được tự do.

Nhưng chỉ làm bất kỳ cái gì bạn yêu thích không là đang làm cái gì bạn yêu thích. Muốn tìm ra cái gì bạn thật sự yêu thích làm đòi hỏi nhiều thâm sâu, thấu triệt. Đừng bắt đầu bằng cách suy nghĩ lệ thuộc vào sự kiếm sống; nhưng nếu bạn khám phá ra cái gì bạn yêu thích làm, vậy thì bạn sẽ có một phương tiện để sinh sống.

Người hỏi: Liệu đúng rằng chỉ có những người thuần khiết mới có thể thực sự không còn sợ hãi phải không?

Krishnamurti: Đừng có những lý tưởng về thuần khiết, trong trắng, tình huynh đệ, không bạo lực và mọi chuyện như thế, bởi vì chúng chẳng có ý nghĩa gì cả. Đừng cố gắng can đảm, bởi vì đó chỉ là một phản ứng của sợ hãi. Muốn không sợ hãi đòi hỏi sự thấu triệt mãnh liệt, một hiểu rõ toàn qui trình của sợ hãi và nguyên nhân của nó.

Bạn thấy không, có sợ hãi chừng nào bạn còn muốn được an toàn – an toàn trong hôn nhân, an toàn trong việc làm, trong địa vị, trong trách nhiệm, an toàn trong những ý tưởng, trong niềm tin, an toàn trong liên hệ với thế giới và trong liên hệ với Chúa. Khoảnh khắc cái trí tìm kiếm an toàn hay thỏa mãn trong bất kỳ hình thức nào, ở bất kỳ mức độ nào, chắc chắn là có sợ hãi; và điều gì quan trọng là ý thức được qui trình này đồng thời hiểu rõ nó. Nó không phải vấn đề của điều gì là thuần khiết. Cái trí tỉnh táo, cảnh giác, mà là được tự do khỏi sợ hãi, là một cái trí hồn nhiên; và chỉ cái trí hồn nhiên mới có thể hiểu rõ sự thật, chân lý hay Chúa.

Bất hạnh thay, trong quốc gia này cũng như những nơi khác, những lý tưởng đã đảm trách sự quan trọng lạ lùng, lý tưởng là cái gì nên là: tôi phải không bạo lực, tôi nên tốt lành, và vân vân. Lý tưởng, cái gì nên là, luôn luôn ở đâu đó xa thật xa, và vì vậy nó không bao giờ là. Những lý tưởng là điều nguyền rủa bởi vì chúng ngăn cản bạn suy nghĩ trực tiếp, đơn giản và đúng thực khi bạn đối diện với những sự kiện. Lý tưởng, cái gì nên là, là một tẩu thoát khỏi cái gì là. Cái gì là là sự kiện mà bạn sợ hãi – sợ hãi những gì cha mẹ bạn sẽ nói, những gì người ta sẽ suy nghĩ, sợ hãi xã hội, sợ hãi bệnh tật, chết; và nếu bạn đối diện với cái gì là, nhìn nó, tìm hiểu nó ngay cả khi nó mang lại đau khổ, và hiểu rõ nó, vậy thì bạn sẽ phát giác rằng cái trí của bạn đã trở nên đơn giản lạ thường, rõ ràng; và trong chính rõ ràng này có kết thúc sợ hãi. Rủi thay chúng ta được giáo dục trong tất cả những vô lý thuộc triết lý của những lý tưởng, mà hiển nhiên là một trì hoãn; chúng không có chút giá trị nào cả.

Bạn có lý tưởng của không-bạo lực, ví dụ như thế; nhưng bạn có không-bạo lực hay không? Vì vậy tại sao không đối diện với bạo lực của bạn, tại sao không nhìn vào cái gì bạn là? Nếu bạn quan sát tham lam riêng của bạn, tham vọng của bạn, những vui thú và những giải trí của bạn, và bắt đầu hiểu rõ tất cả những việc đó, bạn sẽ phát giác rằng thời gian như một phương tiện của tiến bộ, như một phương tiện của thành tựu lý tưởng liền kết thúc. Bạn thấy không, cái trí sáng chế ra thời gian để thành tựu trong đó, và vì vậy nó không bao giờ yên lặng, không bao giờ chịu đứng yên. Một cái trí yên lặng là hồn nhiên, trong sáng, mặc dù nó có lẽ đã có hàng ngàn năm trải nghiệm, và đó là lý do tại sao nó có thể giải quyết những khó khăn của tồn tại riêng của người ta trong liên hệ.
Người hỏi: Con người là nạn nhân của những ham muốn riêng của anh ấy, mà tạo ra nhiều vấn đề. Làm thế nào anh ấy có thể tìm ra một trạng thái không còn ham muốn?

Krishnamurti: Ao ước tạo ra một trạng thái không ham muốn chỉ là trò ma mãnh của cái trí. Vì hiểu rằng ham muốn tạo ra đau khổ và muốn tẩu thoát khỏi nó, cái trí chiếu ra lý tưởng không ham muốn và sau đó hỏi, “Làm thế nào tôi đạt được lý tưởng đó?” Và sau đó điều gì xảy ra? Với mục đích không ham muốn bạn đè nén ham muốn của bạn, phải vậy không? Bạn khoá chặt ham muốn của bạn, bạn cố gắng giết chết nó đi, và rồi bạn nghĩ rằng bạn đã đạt được một trạng thái không còn ham muốn – mà tất cả là giả dối.

Ham muốn là gì? Nó là năng lượng, phải không? Vào khoảnh khắc bạn khóa chặt năng lượng của bạn, bạn đã làm cho mình trở thành đờ đẫn, không còn sinh khí. Đó là những gì đã xảy ra ở Ấn độ. Tất cả những người tạm gọi là tu hành đã khóa chặt ham muốn của họ; chẳng có mấy người có suy nghĩ và được tự do. Vì vậy, điều quan trọng không là khóa chặt ham muốn, nhưng hiểu rõ năng lượng và sử dụng năng lượng trong phương hướng đúng đắn.

Bạn thấy không, khi còn trẻ bạn có dư thừa năng lượng – năng lượng thúc đẩy bạn muốn vượt qua những quả đồi, với đến các vì sao. Rồi thì, xã hội bước chân vào và bảo bạn nhốt năng lượng đó trong những bức tường của nhà tù mà nó gọi là kính trọng.

Qua giáo dục, qua mọi hình thức của luật lệ và kiểm soát, năng lượng đó bị nghiền nát dần dần. Nhưng bạn cần năng lượng nhiều hơn, không phải ít hơn, bởi vì nếu không có năng lượng vô biên bạn sẽ không bao giờ tìm ra sự thật là gì. Vì vậy vấn đề không phải làm thế nào chặn lại năng lượng, nhưng làm thế nào duy trì và gia tăng nó, làm thế nào cho nó độc lập và tiếp tục – nhưng không phải bởi sự điều khiển của bất kỳ niềm tin hay xã hội nào – để cho nó trở thành chuyển động hướng về sự thật, về Chúa. Sau đó năng lượng có ý nghĩa hoàn toàn khác hẳn. Như một viên đá quăng vào hồ nước phẳng lặng tạo ra một vòng tròn lan rộng vô tận, vì vậy hành động của năng lượng trong phương hướng của cái gì là sự thật tạo ra những con sóng của một văn hóa mới mẻ. Sau đó, năng lượng không còn bị giới hạn, không thể đo lường được, và năng lượng đó là Chúa.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
12/07/2020(Xem: 7496)
Theo, Đại-Vô-Lượng-Thọ-Kịnh. Đại-A-Di-Đà-Kinh Q1.- Bình-Đẳng-Giác- Kinh Q1. Đại-Bảo-Tích-Kinh Q17. Bi-Hoa-Kinh Q3. Vô-Lượng-Quảng- Trang-Nghiêm-Đại-Thừa-Kinh… Thì đều lạy tu theo 48 nguyện. 48 đại nguyện có đủ trong 6 bộ kinh nói trên. Chỗ cốt yếu cho người tu niệm Phật và lễ lạy 48 đại nguyện là : 1.Tin tưởng tha thiết nguyện về cõi Phật A Di Đà chắc thật diệt sạch hết tâm nghi ngờ. Lòng tin trọn vẹn trong sạch. 2. Lập thời khóa tu niệm lễ lạy trong một ngày đêm 1, 2, hay 3 Thời, Tùy ý thích. Chọn cho thích hợp để tu. Quan trọng là thành tâm. Đừng ham nhiều mà lụy thân rồi chán bỏ! 3. Quyết tâm phát nguyện vãng sanh về Cực Lạc Tịnh Độ, Tâm luôn kính nhớ ưa thích cõi Cực Lạc của Từ Phụ A Di Đà, quí mến Từ Phụ A Di Đà. niệm Hồng danh Phật liên tục, khi xướng lạy lời nguyện thân tâm vui thích mừng rỡ cảm động, thân nhẹ lân lân như ơn Phật đang ban phước cao vời vô tận, đầy tâm an lạc, như thấy mình đầy đủ sức khỏe. Niệm, chừng nào được “nhứt tâm bất loạn” đồng nghĩa với “hế
22/06/2020(Xem: 5438)
Đi tìm nguồn cội của những việc cần tìm hiểu quả là điều rất hữu ích và cần thiết cho những người học Phật như chúng ta ngày nay. Tuy trong hiện tại chúng ta có quá nhiều phương tiện để tìm hiểu, đọc tụng cũng như học hỏi, nhưng cũng không phải muốn tìm gì là có ngay lời giải đáp đúng như ý ta mong đợi, mà vẫn cần phải qua những trải nghiệm của bản thân cũng như sự tu học hành trì, nghiên cứu lâu ngày, chúng ta mới thẩm thấu được lời Phậtdạy. Vì lẽ lời dạy của Đức Phật nằm rải rác khắp nơi trong ba tạng của Nam Truyền và ba tạng của Bắc Truyền, có cả hàng triệu triệu chữ và nhiều nhà phiên dịch, chú giải khác nhau, nên không phải ai cũng có cơ duyên để trì tụng, nghiên cứu hết ba tạng Kinh điển này. Riêng bản thân tôi không dám làm việc gì quá khả năng, chỉ cố gắng gom góp lại những chỗ đã đọc qua, nhằm cống hiến cho quý vị một sự hiểu biết căn bản về Đức Phật A-di-đà, để chúng ta không còn nghi ngờ gì nữa khi trì tụng các Kinh A-di-đà, Kinh Vô Lượng Thọ hay Kinh Quán Vô Lượng Thọ. Đó
21/06/2020(Xem: 9984)
Do một thiện niệm vừa phát sinh sau khi TT Thích Nguyên Tạng chấm dứt 48 bài pháp thoại liên tục được livestream trên Facebook của trangnhaquangduc trong mùa cách giản xã hội vì đại dịch Corona vào mỗi sáng sau thời công phu khuya ( với kinh Lăng Nghiêm, Đại Bi và thập chú ) mà người viết mới có dịp ôn lại những gì trong “ PHÁP NGỮ CỦA HT TỊNH KHÔNG” đã được TT Thích Nguyên Tạng Việt dịch và được xuất bản từ 2004. Thời gian trôi qua nhanh quá , thấm thoát đã 16 năm mà đến bây giờ đây là lần thứ ba tôi mới đọc lại , phải nói là rất ân hận cho sự vô minh của mình trong nhiều năm và đã uổng phí thời gian để có thể tu tập đúng hơn nữa .
07/05/2020(Xem: 6673)
Đệ tử tên là: .......... Một lòng quy kính - Đức Phật A Di Đà. Thế giới Cực Lạc - Nguyện lấy hào quang - Trong sạch soi cho, Lấy thệ từ bi - Mà nhiếp thọ cho - Con nay chánh niệm, Niệm hiệu Như Lai - Vì đạo Bồ Đề - Cầu sanh Tịnh Độ. Phật xưa có thệ: “Nếu có chúng sinh - Muốn sinh về nước ta Hết lòng tín nguyện - Cho đến mười niệm - Nếu chẳng đặng sinh Chẳng thành Chánh Giác - Chỉ trừ kẻ ngũ nghịch - Kẻ bài báng Chánh Pháp” - Do vì nhân duyên - Niệm hiệu Phật nầy - Được vào trong bể - Đại thệ Như Lai - Nhờ sức Từ Bi Các tội tiêu diệt - Căn lành tăng trưởng.- Khi mạng gần chung, Biết trước giờ chết- Thân không bệnh khổ- Tâm không tham luyến,
05/05/2020(Xem: 7004)
Chiều nay ngày 19 tháng 7 năm Mậu tuất (2018), tôi đến Phương trượng Tổ đình Từ Đàm, đảnh lễ Trí Quang Thượng Nhân, sau khi xuất hạ, Thượng Nhân đã dạy cho tôi những điều hữu ích gồm: 1- Pháp học: Pháp giới tạng thân A-di-đà-Phật là chỉ cho Thân thể của Phật A-di-đà bao trùm khắp cả không gian và thời gian về mặt không gian là cả mười phương. Về mặt thời gian là bao trùm cả ba đời.
13/03/2020(Xem: 20131)
Quyển "The Buddha and His Teachings" (Đức Phật và Phật Pháp) được ấn hành tại Sài gòn năm 1964 nhờ sự phát tâm bố thí của liệt vị Phật tử Việt Nam. Đạo hữu Phạm Kim Khánh, pháp danh Sunanda, đã dày công phiên dịch thiên khái luận nhỏ bé này ra tiếng mẹ đẻ với mục đích đáp lại phần nào lòng mong ước của những ai muốn hiểu Đức Phật và giáo lý của Ngài. Công đức này được hàng Phật tử Việt Nam ghi nhận. Trong hiện tình, nước Việt Nam không mấy được yên ổn. Bao nhiêu người đang đau khổ, về vật chất cũng như tinh thần. Không khí căng thẳng này quả không thích hợp với việc làm có tánh cách tinh thần và đạo đức
20/12/2019(Xem: 6048)
Niệm Phật là phương pháp thực hành rất phổ biến trong Phật Giáo Đại Thừa, đặc biệt là Tịnh Độ Tông hay còn được gọi là Pháp môn Niệm Phật. Nhưng nếu thuần túy chỉ niệm Phật mà thôi, thiếu tu học thì chúng ta có thể tái sanh về cõi Tây Phương Cực Lạc được hay không? Tính cốt lõi của pháp môn Niệm Phật là lấy Minh tâm (trong sáng) làm công yếu, lấy Hạnh môn (tịnh tâm) làm chính yếu. Tu và học phải đi đôi với nhau. Tu là thay đổi bản chất, tánh nết của mình cho được tốt hơn, cho được thiện lành hơn -đó mới là tu tâm dưỡng tánh. Còn Học là để mở mang kiến thức, để hiểu và nhận ra những điều thiện lành. Vậy tu học là đôi chân vững chắc để chúng ta đi đến được bến bờ giác ngộ. Tu làm sao để nở tâm Bồ Đề, đừng nở tâm ganh tỵ. « Văn, tư, tu » như lời Đức Phật dạy, trước tiên chúng ta phải lắng nghe, sau đó suy nghĩ để nhận biết rồi mới thực hành. Khi niệm Phật chúng ta phải nhất tâm tưởng đến Phật hiện tại, giúp tâm chúng ta có chất liệu để thành Phật. « Nhất thiết ch
12/09/2019(Xem: 6360)
Đại sư Từ Chiếu (Chi: Tzu Chao) có lần nói: "Người tu Tịnh độ lúc sắp chết thường bị Ba Điều Nghi và Bốn cửa ải làm trở ngại cho việc vãng sanh Cực Lạc. Do đó hành giả ngày thường cần chuẩn bị, suy tư và đề phòng để có thể loại trừ chúng trong lúc lâm chung.
24/08/2019(Xem: 10823)
Niết bàn là khái niệm thể hiện triết lý độc đáo về giải thoát của Phật giáo. Đây là một trạng thái tâm linh hoàn toàn thanh thản, giải thoát khỏi mọi đau khổ của cuộc đời. Trạng thái này có thể đạt được khi còn đang sống (Hữu dư Niết bàn) hoặc khi đã chết (Vô dư Niết bàn). Phật giáo Tiểu thừa hướng tới Vô dư Niết bàn - một Niết bàn tịch diệt, cô đơn, từ bỏ mọi thú vui trần thế. Phật giáo Đại thừa lại hướng tới Hữu dư Niết bàn - một Niết bàn nhân bản, nhập thế và hoạt động cùng những buồn vui nhân thế. Quan niệm này đã mang lại một sức hấp dẫn, sức sống mới cho Phật giáo, đặc biệt là trong xã hội hiện đại.
22/08/2019(Xem: 7526)
Chư Tôn liên tông vãng sanh tịnh độ Cực Lạc lưu lại bằng chứng: - Đa số các ngài vãng sanh tự tại và biết trước ngày tháng ra đi - Một số lưu lại xá lợi (Sư Thích Thiền Tâm biết trước 6 tháng, ngày vãng sanh Cực Lạc, ra đi ngay trên bổn tọa trước đại chúng, lưu lại xá lợi răng ngũ sắc, và một bài kệ Bồ Tát Thích Quảng Đức an nhiên tự thiêu vì đạo pháp để lại xá lợi trái tim bất diệt)
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]