Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Niệm Phật thành Phật

13/04/201201:20(Xem: 12182)
Niệm Phật thành Phật


TVQD_ Lo Thien Phat A Di Da 2a
NIỆM PHẬT THÀNH PHẬT

Thượng Tọa Thích Phước Nhơn

Mục Lục

1. Tình ái là cội nguồn sanh tử
2. Công đức sáu chữ Di Đà
3. Niệm Phật đoạn sanh tử
4. Ta Bà là thế giới mộng cảnh
5. Mượn cảnh mộng đạt thật tướng
6. Sáu chữ Di Đà diệt trừ ngũ dục
7. Niệm Phật phải cầu sanh Tây Phương Cực Lạc
8. Niệm Phật sanh Tây đạt tam bất thối
9. Di Đà Thánh hiệu tâm bất thối
10. Tình không dứt khó vãng sanh
11. Thiện ác quả báo vô tình cảm
12. Niệm thánh hiệu Di Đà là gây nhân Phật
13. Đọan trừ sanh tử chân thật phú quý
14. Niệm Phật phải nhất tâm
15. Vạn người niệm Phật vạn người vãng sanh
16. Niệm Phật cần phải dụng tâm
17. Thân khẩu ý thanh tịnh đạo nghiệp viên thành
18. Niệm Phật tiêu tội chướng phước tuệ sanh
19. Đoạn nghi ngờ sanh tín tâm cầu vãng sanh
20. Đoạn nhân Ta Bà quyết sanh Tịnh Độ
21. Tâm rời Phật hiệu nghiệp ác liền kề
22. Niệm Phật tức niệm tâm
23. Niệm Phật cầu vãng sanh cần phải ăn chay
24. Niệm Phật cầu vãng sanh cần thọ quy giới
25. Thường niệm Di Đà là hành Bồ Tát đạo
26. Vì đạo vô thượng Bồ đề mà niệm Phật cầu vãng sanh
27. Niệm Phật cầu vãng sanh là tự mình trở về nhà
28. Niệm Phật thành Phật

    Lời đầu sách

    Tịnh Độ là một trong mười tông phái của Phật Giáo Bắc Tông khi được truyền vào Trung Quốc cũng như Việt Nam. Pháp môn niệm Phật cầu vãng sanh dần dần trở thành phổ cập trong quảng đại quần chúng. Người niệm Phật cầu vãng sanh càng ngày càng nhiều, nhất là trong thời mạt pháp cận đại. Tăng cũng như tục mỗi khi gặp nhau đều chắp tay và niệm: Nam Mô A Di Đà Phật! Ngay cả những người không thường đi chùa, không phải là Phật tử cũng thuộc lòng câu Phật hiệu Di Đà.

    Pháp môn niệm Phật cầu vãng sanh, dễ tu, dễ thực hành cho mọi tầng lớp từ già tới trẻ, từ tu sĩ đến cư sĩ, từ người nông dân cho đến vị tiến sĩ, bác học, nhất là phù hợp cho chúng sanh trong thời buổi cơ khí năng động này. Bất kỳ ai trong chúng ta niệm Phật với đầy đủ tín, hạnh, nguyện thì cũng sẽ được vãng sanh về cảnh giới của Phật A Di Đà dự vào hàng bất thối Bồ Tát.

    Khi mới xuất gia học đạo hằng ngày chúng tôi thường nghe câu niệm Phật của quý Hòa Thượng, quý Sư Bà, Ni Sư, bạn hữu đồng tu cũng như nam nữ Phật tử; đồng thời chúng tôi cũng thường nghe quý Hòa Thượng, Sư bà khuyên bảo nên niệm Phật cầu vãng sanh, nhưng thực sự chúng thôi chưa thâm nhập và hiểu tường tận sự lợi ích của pháp môn niệm Phật. Chúng tôi cũng có đọc một vài quyển sách nói về phương cách và lợi ích của pháp môn niệm Phật cầu vãng sanh; nhưng, có lẽ vì cơ duyên chưa hội đủ hoặc trí hiểu biết chưa thuần thục, nên tâm ý vẫn còn mơ hồ và nghi vấn như: làm sao lại hóa sanh nơi hoa sen mà không do cha mẹ sanh, những gì là chín lớp liên hoa hóa sanh? Ta Bà thế giới, Cực Lạc thế giới có gì khác biệt, sao chúng sanh ở Cực Lạc thế giới lại thuần là thanh tịnh không có nghiệp ác; gì là tín, gì là hạnh, gì là nguyện…bao nhiêu nghi vấn cứ chồng chất trong tâm tưởng? Nay cơ duyên đã đủ chúng tôi cùng đại chúng nơi Phổ Quang Tịnh Nghiệp Đạo Tràng Tây Úc hơn ba năm qua đã thường xuyên nghe Thượng tọa Viện Chủ giảng về Pháp Môn niệm Phật, càng nghe chúng tôi càng cảm thấy an lạc và thấu triệt sự vi diệu lợi ích bất khả tư nghì của pháp môn niệm Phật. không biết cảm nghĩ của đại chúng đồng tham dự trong đạo tràng như thế nào; nhưng, riêng chúng tôi cảm nghĩ đây là một nhân duyên hết sức to lớn và vui vẻ đối với chúng tôi trong thời gian học đạo và tu tập.

    Vì sự an lạc và lợi ích thiết thực cho cá nhân chúng tôi trong thời gian tu tập, và nhận thấy những bài giảng về Tịnh Độ này cần nên phổ biến rộng rãi hơn cho những ai có duyên với pháp môn niệm Phật; nên chúng tôi quyết định góp nhặt và ghi lại thành tập sách nhỏ với nhan đề là: “Niệm Phật thành Phật”. Sau khi ghi xong chúng tôi đã trình lên Thượng Tọa Viện Chủ xin Ngài xem lại và sửa chữa một vài ý sai lệch và, được Thượng Tọa đồng ý cho xuất bản.

    Những bài giảng này được ghi lại từ những buổi giảng riêng về Tịnh Độ; nhưng, cũng có những bài chúng tôi ghi những đoạn ngắn từ nơi khóa giảng Kinh Tứ Thập Nhị Chương và những buổi giảng khác tại đạo tràng. Tuy đã cố gắng hết sức để ghi lại trọn vẹn ý nghĩa của những bài giảng, nhưng sức hiểu biết và thu thập của chúng tôi có hạn nên không thể tránh khỏi những sơ xuất; mong đại chúng tham dự đạo tràng Phổ quang cũng như quý vị thức giả xa gần niệm tình chỉ giáo.

    Phổ Quang Tây Úc Châu

    Trong Đông Bính Tý, 1996

    Gửi ý kiến của bạn
    Tắt
    Telex
    VNI
    Tên của bạn
    Email của bạn
    10/07/2015(Xem: 5855)
    Hầu hết các kinh luận Đại thừa đa số đều thuyết minh tổng quát về pháp môn niệm Phật. Trên thực tế hình thành pháp môn Tịnh Độ phổ biến từ tư tưởng các bộ kinh căn bản như Kinh Bát Chu Tam Muội (Ban Châu Tam Muội), Kinh A Di Đà, Kinh Quán Vô Lượng Thọ, Kinh Vô Lượng Thọ, Kinh Hoa Nghiêm và Kinh Thủ Lăng Nghiêm và nhiều bộ kinh khác. Pháp niệm Phật đến với quần chúng ước tính khoảng mười tám thế kỷ qua (Tính từ khi Kinh Ban Châu Tam Muội được dịch tại Trung quốc năm 179 s.dl.), và pháp môn Tịnh Độ được hình thành và phát triển thời tổ sư Huệ Viễn (334-416 TL) cho đến ngày nay. Thực tế lịch sử đã chứng minh pháp môn niệm Phật đã đóng một vai trò quan trọng trong lĩnh vực truyền bá Phật giáo Đại thừa. Y cứ từ kinh điển liên quan Pháp môn niệm Phật, trên căn bản thì thiền sư Tông Mật (784-841), tổ thứ năm của tông Hoa Nghiêm đã phân thành bốn phương pháp niệm Phật. Đó là trì danh niệm Phật, quán tượng niệm Phật, quán tưởng niệm Phật và thật tướng niệm Phật. Từ thời đại Tổ Liên Trì về sau
    25/06/2015(Xem: 6019)
    Trong Phật pháp có nhiều pháp môn tu học học và hướng đến giác ngộ giải thoát. Giác ngộ là thấy rõ đạo lý duyên khởi của nhân sanh và vũ trụ. Giải thoát có nghĩa là dứt sự khổ đau luân hồi do tâm thức chấp thật ngã và thật pháp tạo vọng nghiệp. Chung quy tu tập theo Phật giáo nhận thức rõ giải thoát là từ tâm này, luân hồi sanh tử cũng do tâm này, vì tâm này là chủ nhân của muôn pháp. Kinh Tâm Địa Quán có dạy: “Tâm sanh thì pháp sanh,
    07/05/2015(Xem: 6853)
    Các con ơi! Ta vô cùng hoan hỷ đón nhận tất cả các con về thế giới Cực Lạc trang nghiêm thù thắng mà ta đã thiết lập để cho các con trở về tịnh dưỡng. Ta thật yên tâm khi các con về mái nhà chung tình này để được nghe pháp, tu tập mà không bị quấy nhiễu bởi lục trần nhiễm ô của thế giới Ta Bà. Tuy nhiên, các con ạ! Các con thấy đó. Đa số các con đều được hóa sanh ở những phẩm vị thấp, Trung phẩm và Hạ phẩm.
    28/04/2015(Xem: 5872)
    Người phương Tây và dân trí thức trong thời mạt pháp hầu như không tin pháp môn niệm phật cầu vãng sanh Cực Lạc. Họ không tin vì hai lý do. Thứ nhất họ cho rằng Phật A DI ĐÀ và Tịnh độ Cực Lạc là huyền thuyết. Thứ hai là Kinh sách Đại Thừa Phật Giáo không đáng tin cậy vì thường hiểu lầm là Đại thừa ra đời từ cuộc Tập Kết Kinh điển thứ thứ Tư, hơn 400 năm sau khi Đức Phật nhập niết bàn, cách thời Phật Thích Ca quá xa khiến cho kinh sách đại thừa có phần sai lệch và khó có thể kiểm chứng. Sau đây là những chân lý chứng minh kinh điển đại thừa Phật giáo và Pháp môn niệm Phật nói riêng là hoàn toàn chân thực, không hư dối. Những chân lý này được kiến giải một cách khách quan dựa trên những sự kiện lịch sử Phật giáo và những lời thuyết giảng của Đức Phật ghi lại trong Kinh điển Đại thừa xảy ra đúng với những sự kiện lịch sử sau thời Đức Phật và phù hợp với những thành tựu khoa học ngày nay.
    28/04/2015(Xem: 6588)
    Một đời giáo hóa của Đức Phật Thích Ca được khái quát hóa trong ngũ thời bát giáo mà theo ngài Trí Giả, Tổ sư sáng lập ra Tông Thiên Thai đã sử dụng ngũ thời để phân định trình tự thuyết pháp của đức Phật; dùng “Bát giáo” để phân biệt pháp môn được thuyết và nghi thức thuyết pháp. Ngũ thời được chia trình tự như sau:
    10/03/2015(Xem: 7979)
    Trong diễn đàn này nhiều quý bạn hữu đã nói về niệm Phật A-Di-Đà bốn chữ hay sáu chữ. Theo tôi thì chúng ta đã học Mười hạnh Phổ-Hiền thì bình-đẳng kính chung không từ một ai, nhưng tin vào lời người ta nói thì phải có sự quán xét đúng hay sai. Đặc biệt với Phật pháp và giáo lý nhà Phật thì đòi hỏi phải thật nghiêm túc nếu không sai một ly đi vạn dặm, có khi mất hết cả công sức bao nhiêu năm tu hành bỏ ra mà không thành tựu, thậm chí còn sa hố là phỉ báng chính pháp, phát đi những điều không đúng về giáo lý của Phật.
    23/01/2015(Xem: 7103)
    Từ khi Phật giáo hòa nhập vào văn hóa nhân loại thì bắt đầu ý nghĩa đón xuân cổ truyền được mở rộng thành ý nghĩa đón Xuân Di Lặc. Từ đó, đón xuân trong quan niệm người Đông Á mang đậm bản sắc văn hóa Phật giáo và văn hóa nhân loại. Chúng ta vận dụng tính nhân bản đạo đức Phật giáo làm tô đẹp ý nghĩa mùa xuân cổ truyền và chuyển hóa những tập quán tiêu cực để quần chúng có thêm chánh kiến trong sinh hoạt đón xuân hằng năm.
    23/01/2015(Xem: 6383)
    Trong sinh hoạt hằng ngày của chúng ta thường thể hiện và vận dụng trăm pháp rất thực tế, nó là tổng hợp nội dung của hiện tượng tâm lý, những yếu tố cơ bản nhất vốn có trong con người, cũng do đây mà chúng ta có thể biết điều này và biết được điều khác. Chúng ta vì người mà ứng xử, hay hóa độ chúng sanh mà không hiểu hiện tượng tâm lý con người thì rất chướng ngại. Một trăm pháp này bao gồm trong pháp thế gian và pháp xuất thế gian, lộ trình tu học từ địa vị phàm phu đến quả vị thánh, là nền tảng cơ bản của người học Phật, cho nên mọi người cần phải học môn này.
    23/01/2015(Xem: 7182)
    Chúng ta nghiên cứu xuyên suốt tư tưởng Phật học nhận thức được rằng, có hai pháp môn cần phải tham cứu trước. Một là “Luật Tông” là căn bản nhất của tất cả các pháp môn. Các tông phái Phật học rất nhiều do giới luật mà tồn tại. Khi Đức Phật sắp nhập diệt, đã từng phó chúc cho A Nan rằng: “Sau khi Thế Tôn nhập diệt, các thầy hãy lấy giới luật làm thầy, nương vào giới luật mà tu hành để được giải thoát giác ngộ”. Đây là vấn đề Phật học thường đề cập, đó là điều chắc thật không cần biện giải nhiều lời. Hai là “Duy Thức”, thông đạt tất cả nguyên lý các pháp. Kinh Hoa Nghiêm dạy: “Tâm như người thợ vẽ,
    23/01/2015(Xem: 6047)
    Bản văn này giới thiệu ý nghĩa căn bản của Thiền và niệm Phật, luận thuật quan niệm các học giả Phật giáo đối với sự phát triển tư tưởng Thiền tông và Niệm Phật. Từ trên khái niệm đến triển khai rõ ý nghĩa và nội dung vô cùng phong phú của Thiền và niệm Phật, đặc biệt chú trọng về phương diện lịch sử từ sau thời đại nhà Tùy để trình bày mối quan hệ về Thiền tông và niệm Phật. Ở đây tóm lược hệ thống ý nghĩa quá trình diễn biến về Thiền và niệm Phật trong mối quan hệ mang tính đặc trưng theo từng giai đoạn. Sau cùng, luận văn từ trong diễn biến lịch sử của Thiền và niệm Phật để đưa đến kết luận xu thế dung hợp giữa Thiền và Tịnh độ theo hướng đi của Phật giáo Trung quốc. Căn cứ hiện thực của lịch sử Phật giáo và đưa đến nhận định rằng: Từ sau thời Tống thì Thiền Tịnh song tu là phương pháp mô phạm căn bản của sự tu trì Phật giáo Trung quốc. Tin chắc rằng, trong tương lai Phật giáo Trung quốc vẫn duy trì năng lực truyền thống Phật pháp vốn có của chính mình.
    facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
    Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
    nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

    May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
    Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
    may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
    the Land of Ultimate Bliss.

    Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
    Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
    Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
    Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
    Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
    Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
    Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
    quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
    KHÁCH VIẾNG THĂM
    110,220,567