Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hiểu về 2 chữ Vãng Sanh

18/02/201222:51(Xem: 4449)
Hiểu về 2 chữ Vãng Sanh
phatdida
HIỂU VỀ HAI CHỮ "VÃNG SANH"
Thích Hạnh Chơn

Sanh tử là vấn đề ai cũng phải trải qua nhưng không phải ai cũng có thể hiểu rõ bản chất của nó. Đứng trên quan điểm nhị nguyên, sanh tử được cho là hai thái cực trái ngược nhau và do đó nhân loại luôn tìm cách kéo dài sự sống mà lý tưởng của nó là trường sanh bất tử. Dù có nỗ lực vượt bậc, con người cũng không thể đạt được mục tiêu ấy vì lý do đơn giản, đó là quy luật của tạo hóa. Trong khi chấp nhận sự thật sanh tử, con người lại tiếp tục tìm cách lý giải hiện tượng sau khi chết với hai thái cực trái ngược nhau là không còn gì tồn tại sau khi chết (đoạn kiến) và vẫn còn sự tồn tại sau khi chết. Ở thái độ thứ hai, lại có nhiều quan điểm khác nhau. Có thuyết cho rằng linh hồn (tâm) tồn tại bất biến hay bất diệt[1](thường kiến), có thuyết cho rằng sau khi chết linh hồn tội lỗi phải chờ đợi đến ngày phán quyết cuối cùng để hoặc lên thiêng đàng hay đọa địa ngục do Chúa quyết định (Cơ đốc giáo, Hồi giáo…).[2]Phật giáo cũng khẳng định sau khi chết con người không mất hẳn mà tiếp tục luân hồi theo nghiệp đã tạo, trừ các bậc thánh. Thần thức, bardo hay gọi cho dễ hiểu là linh hồn vô ngã[3]tiếp tục tồn tại ở các cõi hay cảnh giới phù hợp với nghiệp thức của người ấy.

Do nhận thức theo quan điểm nhị nguyên nên việc quan tâm đến sự tồn tại sau khi chết là hoàn toàn dễ hiểu. Theo trường phái Tịnh độ, mục đích của người tu Tịnh độ là cầu vãng sanh về thế giới Cực Lạc. Tuy nhiên, kinh điển đại thừa thường mang tính ẩn dụ thay vì nói thẳng chữ đâu nghĩa đó. Do đó, hiểu đúng về giáo lý đại thừa là một thách đố lớn với hành giả Phật giáo nói riêng và những người tín ngưỡng Phật giáo nói chung. Bài viết này đưa ra một cách hiểu về ‘vãng sanh’ dựa trên cơ sở giáo lý cốt tủy của đạo Phật nhằm mục đích cung cấp cho những hành giả tu tập Phật giáo tín ngưỡng, cụ thể là pháp môn Tịnh độ có thêm một ý kiến tham khảo và hy vọng rằng nó giúp hành giả tu Tịnh độ có niềm tin vững hơn và thực tế hơn trong cuộc sống hiện thực này. Bài viết sẽ trình bày bốn điểm như sau:

Quan niệm về thế giới Cực Lạc

Khi tìm hiểu Phật giáo, người học Phật nên phân biệt hai nguồn giáo lý để hiểu đúng lời Phật dạy và phương tiện của chư tổ. Trong khi nguồn giáo lý nguyên thủy thường rất rõ ràng, cụ thể thì nguồn giáo lý đại thừa thường được trình bày thông qua biểu tượng, ẩn dụ. Do đó, người học Phật giáo đại thừa dễ mắc sai lầm khi hiểu giáo pháp theo ‘nghĩa đen’ – chữ đâu nghĩa đó thay vì dựa trên cơ sở pháp ấn của Phật giáo.[4]Rõ ràng, không ai phủ nhận giáo lý Tịnh độ thuộc hệ đại thừa và mang giá trị biểu tượng hơn là cụ thể. Kinh A Di Đà miêu tả cảnh giới Cực Lạc ở phương Tây cách xa hơn ‘mười muôn ức cõi Phật’. Nếu hiểu theo ‘nghĩa đen’ thì Cực Lạc là một cõi vật chất tồn tại ở phương Tây, cách rất xa thế giới Ta bà. Nếu là cõi vật chất (dù là báu) có sự sống tồn tại khách quan thì dù xa vẫn có thể đến được bằng chính thân ngũ uẩn mà không cần đợi chết. Bằng chứng là khoa học đang chinh phục và thậm chí còn đến được các hành tinh không có sự sống.

Hơn nữa, nếu cho rằng Cực Lạc là cõi vật chất do Đức Phật A Di Đà sáng tạo và sở hữu thì sẽ có những phản biện. Thứ nhất, Đức Phật Thích Ca không dạy rằng các đức Phật có thể sáng tạo ra thế giới như chính bản thân Ngài sinh ra cõi đời này nhưng không hề sáng tạo ra thế giới Ta bà. Thứ hai, cho rằng Phật A Di Đà sáng tạo ra thế giới Cực Lạc thì chẳng khác nào chúng ta chấp nhận thuyết Chúa sáng tạo ra Thiên Đường và tất cả những thứ khác bao gồm con người và thế giới chúng ta đang sống. Nếu chỉ kể Cực Lạc và Thiên Đường thôi thì Phật giáo và Cơ đốc giáo có gì khác nhau, vì cả hai đều chấp nhận đấng sáng tạo. Thứ ba, một cõi vật chất sanh mà không diệt là không thể tồn tại vì trái với pháp ấn vô thường, vô ngã của đạo Phật.

Dựa vào các ý trên, người học Phật nên nhìn lại để quán chiếu và hiểu lời Phật dạy theo hướng biểu tượng. Thể tánh của đức Phật A Di Đà là vô lượng thọ, vô lượng quang, là Phật Pháp thân. Giáo lý đại thừa đều chấp nhận rằng Pháp thân bao trùm tất cả thế giới. Thế giới Cực Lạc hiểu theo nghĩa Pháp thân Phật thì đó là cảnh giới thanh tịnh, thuộc về tâm. Từ thể tánh thanh tịnh của Phật A Di Đà biểu hiện ra cảnh giới Cực Lạc (Tịnh độ) là hoàn toàn phù hợp với những lời dạy sau:

‘Tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ’;
‘Tam nghiệp hằng thanh tịnh, đồng Phật vãng Tây phương’ (Tỳ ni Nhật dụng);
‘Tịnh độ là lòng trong sạch, chớ còn ngờ hỏi đến Tây phương, Di Đà là tính sáng soi, mựa phải nhọc tìm về Cực Lạc.’ (Lời của Phật Hoàng Trần Nhân Tông)[5]
‘Chớ bảo cõi Tây phương là gần, hành trình về Tây phương xa xôi đến mười vạn dặm đường. Đức Phật A Di Đà thương mà tiếp dẫn mới giải thoát khỏi tử sanh.’[6]
‘Chớ bảo cõi Tây phương xa xôi, cõi Tây phương ở ngay trước mặt. Như nước chảy về biển cả, như trăng lặn không ra khỏi bầu trời.’[7]

Thế giới Cực Lạc rất xa nhưng cũng rất gần và mọi người đều có thể tiếp xúc được khi tam nghiệp hằng thanh tịnh, tức không còn phiền não, là Phật tánh, là Niết bàn, là hạnh phúc chân thật. Khi tâm của chúng ta thanh tịnh thì đồng tâm Phật (Phật tánh) thì Phật, Bồ tát đang chờ mời chúng ta vào thế giới Cực Lạc để cùng thể nghiệm sự giải thoát. Như thế, hạnh nguyện độ sanh của Phật và Bồ tát thường hằng và thật công tâm. Chỉ e rằng chúng sanh không tạo đủ ‘độ cảm’ nên không ‘ứng hợp’ với chư Phật và do đó, cầu thì vẫn cứ cầu mà ứng thì khó đạt được.

Cầu vãng sanh và cái chết

Nếu ta hiểu Cực Lạc không phải là cõi vật lý mà là cảnh của tâm thì vấn đề tiếp theo là cầu vãng sanh như thế nào? Cầu vãng sanh phải chăng là cầu chết?

Xưa nay nói đến vãng sanh thì ai cũng hiểu là chết và về thế giới Cực Lạc. Do hiểu như thế nên người tu Tịnh độ rất muốn được vãng sanh để về cõi không còn khổ đau như cõi Ta bà. Cầu vãng sanh như thế đồng nghĩa với cầu chết và chết để được về cõi tịnh hết khổ đau thì có vẻ như ai cũng thích. Thế nhưng, sự thật có ai dám vứt bỏ mạng sống quý giá này để về Cực Lạc ngay không? Chắc chắn là không có, thậm chí còn muốn sống lâu thêm dù luôn rên đau khổ. Đó là sự mâu thuẩn khi ta hiểu vãng sanh đồng nghĩa với chết.

Hơn nữa, nếu có ai hỏi rằng pháp hữu về Cực Lạc để làm gì thì dường như ai cũng đồng thanh đáp rằng về Cực Lạc để tu thành Phật rồi trở lại Ta bà hóa độ chúng sanh. Lời đáp ấy có vẻ rất cao thượng mang tinh thần Bồ tát nhưng sự thật thì chính mỗi người tự biết rõ. Có hai ý xin trình bày để quý vị xem mà đánh giá sự thật của câu trả lời trên.

Thứ nhất, các vị tu Tịnh độ thường có ý niệm chán ghét Ta bà, cầu sanh về Cực Lạc với mục đích để chạy trốn khổ đau nơi Ta bà, mong được hưởng thụ sự an lạc sẵn có nơi Tịnh độ. Trong kinh Nam truyền (Pali) Phật dạy pháp quán ‘yểm ly’ với mục đích là để khuyến khích hành giả không tham đắm, chấp trước mà dễ chuyên tâm tu tập phụng sự, cống hiến; không hiểu từ đâu mà hành giả Tịnh độ lại hiểu chán ghét là chạy trốn. Vả lại, ở Ta bà – một thế giới có khổ có vui mà hành giả còn chưa phấn đấu tinh tấn tu tập đúng mức thì lấy gì bảo đảm là quý vị sẽ tu tập ở một nơi hoàn toàn sung sướng. Quan điểm này hoàn toàn trái ngược với lời dạy của đức Phật Thích Ca và chính tự thân Ngài chứng minh lời dạy ấy. Đó là chỉ có cõi Ta bà này là nơi phù hợp nhất để tu hành chứng nghiệm giác ngộ, giải thoát.

Thứ hai, hiện tại chúng ta không tu cho bản thân mình và giúp những người thân xung quanh trong khi ta có đủ điều kiện thì liệu ai tin rằng ta sẽ trở lại Ta bà mà độ sanh. Một lời hứa hẹn không có cơ sở thực tế. Hơn nữa, không có đức Phật, Bồ tát nào phát nguyện tu tập tại cõi hạnh phúc (Cực Lạc) để được chứng ngộ rồi sau đó đến cõi khổ đau độ sanh cả. Từ Đức Phật lịch sử Thích Ca Mâu Ni cho đến Đức Phật A Di Đà, Bồ tát Quan Thế Âm, Bồ tát Địa Tạng, v.v…. Vậy thì, hành giả Tịnh độ mong về Cực Lạc tu pháp môn gì, thực hành phước báo gì để thành Phật và pháp môn ấy có phù hợp với hạnh nguyện của Phật A Di Đà và chư Bồ tát đã và đang thực hiện không?!

Liên hệ đến Niết bàn, nhiều người cũng quan niệm sai lầm khi cho rằng Niết bàn là chết, hay Niết bàn hữu dư và vô dư. Quan niệm Niết bàn là chết làm cho Phật giáo trở nên yểm thế. Sự thật, đức Phật và các vị A-la-hán chứng Niết bàn ngay khi còn sống và giáo hóa chúng sanh ngay trên cõi đời này, và Niết bàn là Niết bàn chứ không có hữu dư hay vô dư vì không thể đồng nhất sự tồn tại xác thân với Niết bàn. Có gì khác nhau giữa Niết bàn khi còn xác thân và khi xác thân tan rã!? Vấn đề chỉ là do chính chúng ta chủ quan dựa trên hiện tượng mà phân biệt thôi.

Để giải quyết vấn đề này thì không có gì hay hơn là hiểu đúng ý nghĩa vãng sanh. Chư vị tổ sư, các bậc tôn túc đã chỉ dạy vãng sanh là vượt qua phiền não. Khi vượt thoát hoàn toàn phiền não tức là vãng sanh hoàn toàn, là Niết bàn, là Tịnh độ. Và do đó, cầu vãng sanh là cầu giải thoát, Niết bàn chứ không phải chỉ là cầu về Tây phương sau khi chết. Vãng sanh đồng nghĩa với chết là phương tiện, là niềm tin còn vãng sanh là thoát khỏi phiền não mới đích thực là giáo pháp của đức Phật. Cầu vãng sanh như thế thì vãng sanh càng nhanh càng tốt và chắc chắn không ai từ chối cả.

Sự ngộ nhận vãng sanh như là một ‘ca vãng sanh’

Đã hiểu vãng sanh như là sự chấm dứt phiền não thì vấn đề hộ niệm sẽ được hiểu đúng và không bị rơi vào tình trạng ngộ nhận ‘vãng sanh như một ca’. Nhiều nhóm cư sĩ làm công việc hộ niệm cho người chết, sau khi đám tang xong thì cho rằng đã hoàn thành một ca vãng sanh. Những người hộ niệm phiền não còn quá đủ, người chết phiền não cũng còn dư. Vậy mà những tuyên bố như thế cũng làm bao nhiêu người mê và ca ngợi không ngớt. Ngay cả đức Phật khi được hỏi về trường hợp sau khi chết của các đệ tử, Ngài cũng chỉ trả lời là tái sanh về cõi lành. Đành rằng quý vị hộ niệm có ý mong muốn tốt nhưng khi tuyên bố một việc không có thật hay do mình ảo tưởng, nhất là những việc có ảnh hưởng đến sự thăng trầm của kiếp người thì thiết nghĩ quý vị rất nên thận trọng. Đừng vì đam mê một chút tiếng tăm mà ta bị tổn phước báo khi gây hoang mang và tạo sự ỷ lại cho nhiều người chưa hiểu đạo Phật. Ấy là chưa kể những việc làm mâu thuẩn khác như là đọc tên cầu siêu….. Đã tuyên bố vãng sanh rồi thì phải mừng chứ sao lại còn khóc, còn đọc tên cầu siêu mà không thay bằng sự tưởng niệm mang tính tri ân giáo dục và vui mừng. Xin quý vị suy ngẫm lại xem để tránh tự lừa chính mình.

Khi đã hiểu ý nghĩa và điều kiện vãng sanh thì những người làm công việc hộ niệm không còn ngộ nhận ‘có hại’ như trên và gia quyến người chết cũng không bị ‘ảo tưởng’. Hộ niệm là một việc làm đáng khích lệ vì đó là hành động trợ duyên tích cực cho cả người chết và gia đình thân quyến của họ. Nó như là một sự nhắc nhở tích cực để người mất tỉnh thức quay về đường thiện, tái sanh cõi lành. Chư Phật, Bồ tát luôn cứu độ, tiếp dẫn bằng con đường hướng đạo với vai trò là bậc đạo sư như chính đức Phật Thích Ca vậy. Việc hiểu lầm vãng sanh là do hộ niệm dẫn đến thái độ ỷ lại và mong mỏi rằng khi chết có nhiều thầy cô, ban hộ niệm đến tụng kinh mới được vãng sanh cần phải xem lại. Đáng tiếc, nhiều người xuất gia cũng có tư tưởng như thế huống gì những người tín ngưỡng. Tất cả chỉ vì sự lạm dụng hai chữ ‘phương tiện’ trong khi truyền bá Phật pháp.

Tu tịnh độ theo tinh thần nhân quả

Giáo lý nhân quả là một tuyệt phẩm của đạo Phật do đức Phật giác ngộ và truyền dạy lại. Nhân quả là chân lý dù con người có tin hay không tin, có chấp nhận hay không chấp nhận. Hành giả muốn tin thế giới Cực Lạc là cõi vật chất ở Tây phương hay là cảnh của tâm bao trùm tam thiên thế giới điều đó không trở ngại gì đến sự vãng sanh. Quan trọng là chúng ta phải dứt sạch phiền não. Đó chính là chánh nhân để vãng sanh ngay hiện tại và cảnh giới Tây phương.

Muốn đạt được chánh nhân ấy, tâm hành giả phải luôn thanh tịnh (nhất tâm bất loạn) hay chánh niệm tỉnh thức. Tâm ấy chỉ có thể đạt được khi miệng nói lời chánh ngữ hay luôn niệm Phật và thân phải tu thiện, tạo phước, cứu giúp mọi người và muôn loài. Thành tựu được tâm bất loạn hay chánh niệm tỉnh thức và đầy đủ phước đức thì hành giả đã thành tựu vãnh sanh. Khi ấy, hành giả nguyện sanh về Cực Lạc hay bất cứ nơi đâu cũng không có gì trở ngại.

Từ bi và cứu khổ là bổn nguyện của tất cả chư Phật. Tuy nhiên, ba đời chư Phật chưa vị Phật nào phủ định nhân quả hay thay đổi nhân quả bằng năng lực thần thông. Nghĩa là Phật không bao giờ ‘đặc cách’ cho bất cứ một chúng sanh nào để cứu độ khi mà họ chưa dứt sạch nghiệp vì làm như thế là phủ định nhân quả hay ‘đạp lên’ nhân quả. Do đó, chúng ta không cần quá bận tâm việc Phật cứu độ theo nghĩa ‘nghĩa đen’ nữa mà nên dành trọn thời gian để tạo chánh nhân theo lời Phật dạy tức là dứt sạch hoàn toàn phiền não, đạt tâm bất loạn (chánh niệm) và đầy đủ phước đức thì khi ấy không phải Phật đang cứu độ ấy sao!

Tịnh độ là một pháp môn có nhiều tranh luận vì có nhiều sự lý giải khác nhau. Do đó, thay vì phủ bác lẫn nhau thì chúng ta hãy tiếp nhận sự kiến giải khác nhau từ đa chiều rồi tư duy quán chiếu theo tinh thần Phật dạy trong kinh Kalama. Từ đó, mỗi người sẽ tìm thấy cho mình hướng đi đúng, phù hợp với giáo lý cốt yếu của Phật giáo.

Hãy thận trọng khi tuyên bố những gì mình chưa chứng nghiệm, nhất là những tuyên bố chỉ dựa vào niềm tin kinh điển mà không phải dựa trên nhân quả và pháp ấn của đạo Phật. Hậu quả của nó khó mà lường hết được!

Hành giả Tịnh độ vẫn được khuyến tấn tin Phật A Di Đà cứu độ và thế giới Cực Lạc để tu tập tinh tấn hơn. Tuy nhiên, tu tập là một quá trình chuyển hóa thân tâm. Niềm tin và cầu nguyện là chất xúc tác để hành giả thực hành tinh chuyên hơn. Nhờ chất xúc tác mà hành giả niệm Phật đạt đến nhất tâm bất loạn thì vãng sanh có mặt hiện tiền. Có thể các bạn không đồng ý nhưng đó là điều các bạn có thể trải nghiệm được ngay bây giờ và tại thế giới này. Các bạn có quyền nghĩ về tương lai ở Cực Lạc nhưng lời khuyên chân thành là đừng đánh mất giá trị cuộc sống hiện tại hay hiểu một cách khác là đừng đánh mất ‘Tịnh độ hiện tiền.’

Hư Thật Mộng
[1] Thuyết này chủ trương thế giới và tự ngã thường còn. Bà-Phù-Đà-Ca-Chiên-Diên (Pakudha-Katyayana) – một trong sáu vị thầy ngoại đạo thời đức Phật, chủ trương thuyết này. Ông cho rằng tâm vật nhị nguyên bất diệt.

[2] Xem http://en.wikipedia.org/wiki/Last_Judgment

[3] Năm uẩn của con người gồm sắc thân cộng với phần tâm gồm cảm thọ, tri giác, suy nghĩ và nhận thức đều vô ngã. Dù gọi thần thức hay linh hồn thì thần thức hay linh hồn đó phải là vô ngã.

[4] Pháp ấn gồm Vô thường, Khổ, Vô ngã, Niết bàn hay Vô thường, Khổ, Vô ngã (theo Nam truyền).

[5]Xem thêm bài viết ‘Tịnh độ là lòng trong sạch, Di Đà là tính sáng soi’ của TT. Thích Phước Đạt (http://giacngo.vn/triethoc/2011/11/30/5FF001/), (/)

[6] ‘Mạc đạo Tây phương cận, Tây phương thập vạn trình, Di Đà thùy tiếp dẫn, vô tử diệc vô sanh’

[7] ‘Mạc đạo Tây phương viễn, Tây phương tại mục tiền, thủy lưu quy đại hải, nguyệt lạc bất ly thiên.’ Xem thêm bài ‘Ý nghĩa vãng sanh’ của TT Thích Viên Giác (http://www.giacngo.vn/phathoc/luockhao/2010/12/28/7AE219/) (/)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/07/2015(Xem: 5781)
Hầu hết các kinh luận Đại thừa đa số đều thuyết minh tổng quát về pháp môn niệm Phật. Trên thực tế hình thành pháp môn Tịnh Độ phổ biến từ tư tưởng các bộ kinh căn bản như Kinh Bát Chu Tam Muội (Ban Châu Tam Muội), Kinh A Di Đà, Kinh Quán Vô Lượng Thọ, Kinh Vô Lượng Thọ, Kinh Hoa Nghiêm và Kinh Thủ Lăng Nghiêm và nhiều bộ kinh khác. Pháp niệm Phật đến với quần chúng ước tính khoảng mười tám thế kỷ qua (Tính từ khi Kinh Ban Châu Tam Muội được dịch tại Trung quốc năm 179 s.dl.), và pháp môn Tịnh Độ được hình thành và phát triển thời tổ sư Huệ Viễn (334-416 TL) cho đến ngày nay. Thực tế lịch sử đã chứng minh pháp môn niệm Phật đã đóng một vai trò quan trọng trong lĩnh vực truyền bá Phật giáo Đại thừa. Y cứ từ kinh điển liên quan Pháp môn niệm Phật, trên căn bản thì thiền sư Tông Mật (784-841), tổ thứ năm của tông Hoa Nghiêm đã phân thành bốn phương pháp niệm Phật. Đó là trì danh niệm Phật, quán tượng niệm Phật, quán tưởng niệm Phật và thật tướng niệm Phật. Từ thời đại Tổ Liên Trì về sau
25/06/2015(Xem: 5985)
Trong Phật pháp có nhiều pháp môn tu học học và hướng đến giác ngộ giải thoát. Giác ngộ là thấy rõ đạo lý duyên khởi của nhân sanh và vũ trụ. Giải thoát có nghĩa là dứt sự khổ đau luân hồi do tâm thức chấp thật ngã và thật pháp tạo vọng nghiệp. Chung quy tu tập theo Phật giáo nhận thức rõ giải thoát là từ tâm này, luân hồi sanh tử cũng do tâm này, vì tâm này là chủ nhân của muôn pháp. Kinh Tâm Địa Quán có dạy: “Tâm sanh thì pháp sanh,
07/05/2015(Xem: 6778)
Các con ơi! Ta vô cùng hoan hỷ đón nhận tất cả các con về thế giới Cực Lạc trang nghiêm thù thắng mà ta đã thiết lập để cho các con trở về tịnh dưỡng. Ta thật yên tâm khi các con về mái nhà chung tình này để được nghe pháp, tu tập mà không bị quấy nhiễu bởi lục trần nhiễm ô của thế giới Ta Bà. Tuy nhiên, các con ạ! Các con thấy đó. Đa số các con đều được hóa sanh ở những phẩm vị thấp, Trung phẩm và Hạ phẩm.
28/04/2015(Xem: 5801)
Người phương Tây và dân trí thức trong thời mạt pháp hầu như không tin pháp môn niệm phật cầu vãng sanh Cực Lạc. Họ không tin vì hai lý do. Thứ nhất họ cho rằng Phật A DI ĐÀ và Tịnh độ Cực Lạc là huyền thuyết. Thứ hai là Kinh sách Đại Thừa Phật Giáo không đáng tin cậy vì thường hiểu lầm là Đại thừa ra đời từ cuộc Tập Kết Kinh điển thứ thứ Tư, hơn 400 năm sau khi Đức Phật nhập niết bàn, cách thời Phật Thích Ca quá xa khiến cho kinh sách đại thừa có phần sai lệch và khó có thể kiểm chứng. Sau đây là những chân lý chứng minh kinh điển đại thừa Phật giáo và Pháp môn niệm Phật nói riêng là hoàn toàn chân thực, không hư dối. Những chân lý này được kiến giải một cách khách quan dựa trên những sự kiện lịch sử Phật giáo và những lời thuyết giảng của Đức Phật ghi lại trong Kinh điển Đại thừa xảy ra đúng với những sự kiện lịch sử sau thời Đức Phật và phù hợp với những thành tựu khoa học ngày nay.
28/04/2015(Xem: 6504)
Một đời giáo hóa của Đức Phật Thích Ca được khái quát hóa trong ngũ thời bát giáo mà theo ngài Trí Giả, Tổ sư sáng lập ra Tông Thiên Thai đã sử dụng ngũ thời để phân định trình tự thuyết pháp của đức Phật; dùng “Bát giáo” để phân biệt pháp môn được thuyết và nghi thức thuyết pháp. Ngũ thời được chia trình tự như sau:
10/03/2015(Xem: 7915)
Trong diễn đàn này nhiều quý bạn hữu đã nói về niệm Phật A-Di-Đà bốn chữ hay sáu chữ. Theo tôi thì chúng ta đã học Mười hạnh Phổ-Hiền thì bình-đẳng kính chung không từ một ai, nhưng tin vào lời người ta nói thì phải có sự quán xét đúng hay sai. Đặc biệt với Phật pháp và giáo lý nhà Phật thì đòi hỏi phải thật nghiêm túc nếu không sai một ly đi vạn dặm, có khi mất hết cả công sức bao nhiêu năm tu hành bỏ ra mà không thành tựu, thậm chí còn sa hố là phỉ báng chính pháp, phát đi những điều không đúng về giáo lý của Phật.
23/01/2015(Xem: 7067)
Từ khi Phật giáo hòa nhập vào văn hóa nhân loại thì bắt đầu ý nghĩa đón xuân cổ truyền được mở rộng thành ý nghĩa đón Xuân Di Lặc. Từ đó, đón xuân trong quan niệm người Đông Á mang đậm bản sắc văn hóa Phật giáo và văn hóa nhân loại. Chúng ta vận dụng tính nhân bản đạo đức Phật giáo làm tô đẹp ý nghĩa mùa xuân cổ truyền và chuyển hóa những tập quán tiêu cực để quần chúng có thêm chánh kiến trong sinh hoạt đón xuân hằng năm.
23/01/2015(Xem: 6344)
Trong sinh hoạt hằng ngày của chúng ta thường thể hiện và vận dụng trăm pháp rất thực tế, nó là tổng hợp nội dung của hiện tượng tâm lý, những yếu tố cơ bản nhất vốn có trong con người, cũng do đây mà chúng ta có thể biết điều này và biết được điều khác. Chúng ta vì người mà ứng xử, hay hóa độ chúng sanh mà không hiểu hiện tượng tâm lý con người thì rất chướng ngại. Một trăm pháp này bao gồm trong pháp thế gian và pháp xuất thế gian, lộ trình tu học từ địa vị phàm phu đến quả vị thánh, là nền tảng cơ bản của người học Phật, cho nên mọi người cần phải học môn này.
23/01/2015(Xem: 7136)
Chúng ta nghiên cứu xuyên suốt tư tưởng Phật học nhận thức được rằng, có hai pháp môn cần phải tham cứu trước. Một là “Luật Tông” là căn bản nhất của tất cả các pháp môn. Các tông phái Phật học rất nhiều do giới luật mà tồn tại. Khi Đức Phật sắp nhập diệt, đã từng phó chúc cho A Nan rằng: “Sau khi Thế Tôn nhập diệt, các thầy hãy lấy giới luật làm thầy, nương vào giới luật mà tu hành để được giải thoát giác ngộ”. Đây là vấn đề Phật học thường đề cập, đó là điều chắc thật không cần biện giải nhiều lời. Hai là “Duy Thức”, thông đạt tất cả nguyên lý các pháp. Kinh Hoa Nghiêm dạy: “Tâm như người thợ vẽ,
23/01/2015(Xem: 5998)
Bản văn này giới thiệu ý nghĩa căn bản của Thiền và niệm Phật, luận thuật quan niệm các học giả Phật giáo đối với sự phát triển tư tưởng Thiền tông và Niệm Phật. Từ trên khái niệm đến triển khai rõ ý nghĩa và nội dung vô cùng phong phú của Thiền và niệm Phật, đặc biệt chú trọng về phương diện lịch sử từ sau thời đại nhà Tùy để trình bày mối quan hệ về Thiền tông và niệm Phật. Ở đây tóm lược hệ thống ý nghĩa quá trình diễn biến về Thiền và niệm Phật trong mối quan hệ mang tính đặc trưng theo từng giai đoạn. Sau cùng, luận văn từ trong diễn biến lịch sử của Thiền và niệm Phật để đưa đến kết luận xu thế dung hợp giữa Thiền và Tịnh độ theo hướng đi của Phật giáo Trung quốc. Căn cứ hiện thực của lịch sử Phật giáo và đưa đến nhận định rằng: Từ sau thời Tống thì Thiền Tịnh song tu là phương pháp mô phạm căn bản của sự tu trì Phật giáo Trung quốc. Tin chắc rằng, trong tương lai Phật giáo Trung quốc vẫn duy trì năng lực truyền thống Phật pháp vốn có của chính mình.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567