Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hiểu về 2 chữ Vãng Sanh

18/02/201222:51(Xem: 4450)
Hiểu về 2 chữ Vãng Sanh
phatdida
HIỂU VỀ HAI CHỮ "VÃNG SANH"
Thích Hạnh Chơn

Sanh tử là vấn đề ai cũng phải trải qua nhưng không phải ai cũng có thể hiểu rõ bản chất của nó. Đứng trên quan điểm nhị nguyên, sanh tử được cho là hai thái cực trái ngược nhau và do đó nhân loại luôn tìm cách kéo dài sự sống mà lý tưởng của nó là trường sanh bất tử. Dù có nỗ lực vượt bậc, con người cũng không thể đạt được mục tiêu ấy vì lý do đơn giản, đó là quy luật của tạo hóa. Trong khi chấp nhận sự thật sanh tử, con người lại tiếp tục tìm cách lý giải hiện tượng sau khi chết với hai thái cực trái ngược nhau là không còn gì tồn tại sau khi chết (đoạn kiến) và vẫn còn sự tồn tại sau khi chết. Ở thái độ thứ hai, lại có nhiều quan điểm khác nhau. Có thuyết cho rằng linh hồn (tâm) tồn tại bất biến hay bất diệt[1](thường kiến), có thuyết cho rằng sau khi chết linh hồn tội lỗi phải chờ đợi đến ngày phán quyết cuối cùng để hoặc lên thiêng đàng hay đọa địa ngục do Chúa quyết định (Cơ đốc giáo, Hồi giáo…).[2]Phật giáo cũng khẳng định sau khi chết con người không mất hẳn mà tiếp tục luân hồi theo nghiệp đã tạo, trừ các bậc thánh. Thần thức, bardo hay gọi cho dễ hiểu là linh hồn vô ngã[3]tiếp tục tồn tại ở các cõi hay cảnh giới phù hợp với nghiệp thức của người ấy.

Do nhận thức theo quan điểm nhị nguyên nên việc quan tâm đến sự tồn tại sau khi chết là hoàn toàn dễ hiểu. Theo trường phái Tịnh độ, mục đích của người tu Tịnh độ là cầu vãng sanh về thế giới Cực Lạc. Tuy nhiên, kinh điển đại thừa thường mang tính ẩn dụ thay vì nói thẳng chữ đâu nghĩa đó. Do đó, hiểu đúng về giáo lý đại thừa là một thách đố lớn với hành giả Phật giáo nói riêng và những người tín ngưỡng Phật giáo nói chung. Bài viết này đưa ra một cách hiểu về ‘vãng sanh’ dựa trên cơ sở giáo lý cốt tủy của đạo Phật nhằm mục đích cung cấp cho những hành giả tu tập Phật giáo tín ngưỡng, cụ thể là pháp môn Tịnh độ có thêm một ý kiến tham khảo và hy vọng rằng nó giúp hành giả tu Tịnh độ có niềm tin vững hơn và thực tế hơn trong cuộc sống hiện thực này. Bài viết sẽ trình bày bốn điểm như sau:

Quan niệm về thế giới Cực Lạc

Khi tìm hiểu Phật giáo, người học Phật nên phân biệt hai nguồn giáo lý để hiểu đúng lời Phật dạy và phương tiện của chư tổ. Trong khi nguồn giáo lý nguyên thủy thường rất rõ ràng, cụ thể thì nguồn giáo lý đại thừa thường được trình bày thông qua biểu tượng, ẩn dụ. Do đó, người học Phật giáo đại thừa dễ mắc sai lầm khi hiểu giáo pháp theo ‘nghĩa đen’ – chữ đâu nghĩa đó thay vì dựa trên cơ sở pháp ấn của Phật giáo.[4]Rõ ràng, không ai phủ nhận giáo lý Tịnh độ thuộc hệ đại thừa và mang giá trị biểu tượng hơn là cụ thể. Kinh A Di Đà miêu tả cảnh giới Cực Lạc ở phương Tây cách xa hơn ‘mười muôn ức cõi Phật’. Nếu hiểu theo ‘nghĩa đen’ thì Cực Lạc là một cõi vật chất tồn tại ở phương Tây, cách rất xa thế giới Ta bà. Nếu là cõi vật chất (dù là báu) có sự sống tồn tại khách quan thì dù xa vẫn có thể đến được bằng chính thân ngũ uẩn mà không cần đợi chết. Bằng chứng là khoa học đang chinh phục và thậm chí còn đến được các hành tinh không có sự sống.

Hơn nữa, nếu cho rằng Cực Lạc là cõi vật chất do Đức Phật A Di Đà sáng tạo và sở hữu thì sẽ có những phản biện. Thứ nhất, Đức Phật Thích Ca không dạy rằng các đức Phật có thể sáng tạo ra thế giới như chính bản thân Ngài sinh ra cõi đời này nhưng không hề sáng tạo ra thế giới Ta bà. Thứ hai, cho rằng Phật A Di Đà sáng tạo ra thế giới Cực Lạc thì chẳng khác nào chúng ta chấp nhận thuyết Chúa sáng tạo ra Thiên Đường và tất cả những thứ khác bao gồm con người và thế giới chúng ta đang sống. Nếu chỉ kể Cực Lạc và Thiên Đường thôi thì Phật giáo và Cơ đốc giáo có gì khác nhau, vì cả hai đều chấp nhận đấng sáng tạo. Thứ ba, một cõi vật chất sanh mà không diệt là không thể tồn tại vì trái với pháp ấn vô thường, vô ngã của đạo Phật.

Dựa vào các ý trên, người học Phật nên nhìn lại để quán chiếu và hiểu lời Phật dạy theo hướng biểu tượng. Thể tánh của đức Phật A Di Đà là vô lượng thọ, vô lượng quang, là Phật Pháp thân. Giáo lý đại thừa đều chấp nhận rằng Pháp thân bao trùm tất cả thế giới. Thế giới Cực Lạc hiểu theo nghĩa Pháp thân Phật thì đó là cảnh giới thanh tịnh, thuộc về tâm. Từ thể tánh thanh tịnh của Phật A Di Đà biểu hiện ra cảnh giới Cực Lạc (Tịnh độ) là hoàn toàn phù hợp với những lời dạy sau:

‘Tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ’;
‘Tam nghiệp hằng thanh tịnh, đồng Phật vãng Tây phương’ (Tỳ ni Nhật dụng);
‘Tịnh độ là lòng trong sạch, chớ còn ngờ hỏi đến Tây phương, Di Đà là tính sáng soi, mựa phải nhọc tìm về Cực Lạc.’ (Lời của Phật Hoàng Trần Nhân Tông)[5]
‘Chớ bảo cõi Tây phương là gần, hành trình về Tây phương xa xôi đến mười vạn dặm đường. Đức Phật A Di Đà thương mà tiếp dẫn mới giải thoát khỏi tử sanh.’[6]
‘Chớ bảo cõi Tây phương xa xôi, cõi Tây phương ở ngay trước mặt. Như nước chảy về biển cả, như trăng lặn không ra khỏi bầu trời.’[7]

Thế giới Cực Lạc rất xa nhưng cũng rất gần và mọi người đều có thể tiếp xúc được khi tam nghiệp hằng thanh tịnh, tức không còn phiền não, là Phật tánh, là Niết bàn, là hạnh phúc chân thật. Khi tâm của chúng ta thanh tịnh thì đồng tâm Phật (Phật tánh) thì Phật, Bồ tát đang chờ mời chúng ta vào thế giới Cực Lạc để cùng thể nghiệm sự giải thoát. Như thế, hạnh nguyện độ sanh của Phật và Bồ tát thường hằng và thật công tâm. Chỉ e rằng chúng sanh không tạo đủ ‘độ cảm’ nên không ‘ứng hợp’ với chư Phật và do đó, cầu thì vẫn cứ cầu mà ứng thì khó đạt được.

Cầu vãng sanh và cái chết

Nếu ta hiểu Cực Lạc không phải là cõi vật lý mà là cảnh của tâm thì vấn đề tiếp theo là cầu vãng sanh như thế nào? Cầu vãng sanh phải chăng là cầu chết?

Xưa nay nói đến vãng sanh thì ai cũng hiểu là chết và về thế giới Cực Lạc. Do hiểu như thế nên người tu Tịnh độ rất muốn được vãng sanh để về cõi không còn khổ đau như cõi Ta bà. Cầu vãng sanh như thế đồng nghĩa với cầu chết và chết để được về cõi tịnh hết khổ đau thì có vẻ như ai cũng thích. Thế nhưng, sự thật có ai dám vứt bỏ mạng sống quý giá này để về Cực Lạc ngay không? Chắc chắn là không có, thậm chí còn muốn sống lâu thêm dù luôn rên đau khổ. Đó là sự mâu thuẩn khi ta hiểu vãng sanh đồng nghĩa với chết.

Hơn nữa, nếu có ai hỏi rằng pháp hữu về Cực Lạc để làm gì thì dường như ai cũng đồng thanh đáp rằng về Cực Lạc để tu thành Phật rồi trở lại Ta bà hóa độ chúng sanh. Lời đáp ấy có vẻ rất cao thượng mang tinh thần Bồ tát nhưng sự thật thì chính mỗi người tự biết rõ. Có hai ý xin trình bày để quý vị xem mà đánh giá sự thật của câu trả lời trên.

Thứ nhất, các vị tu Tịnh độ thường có ý niệm chán ghét Ta bà, cầu sanh về Cực Lạc với mục đích để chạy trốn khổ đau nơi Ta bà, mong được hưởng thụ sự an lạc sẵn có nơi Tịnh độ. Trong kinh Nam truyền (Pali) Phật dạy pháp quán ‘yểm ly’ với mục đích là để khuyến khích hành giả không tham đắm, chấp trước mà dễ chuyên tâm tu tập phụng sự, cống hiến; không hiểu từ đâu mà hành giả Tịnh độ lại hiểu chán ghét là chạy trốn. Vả lại, ở Ta bà – một thế giới có khổ có vui mà hành giả còn chưa phấn đấu tinh tấn tu tập đúng mức thì lấy gì bảo đảm là quý vị sẽ tu tập ở một nơi hoàn toàn sung sướng. Quan điểm này hoàn toàn trái ngược với lời dạy của đức Phật Thích Ca và chính tự thân Ngài chứng minh lời dạy ấy. Đó là chỉ có cõi Ta bà này là nơi phù hợp nhất để tu hành chứng nghiệm giác ngộ, giải thoát.

Thứ hai, hiện tại chúng ta không tu cho bản thân mình và giúp những người thân xung quanh trong khi ta có đủ điều kiện thì liệu ai tin rằng ta sẽ trở lại Ta bà mà độ sanh. Một lời hứa hẹn không có cơ sở thực tế. Hơn nữa, không có đức Phật, Bồ tát nào phát nguyện tu tập tại cõi hạnh phúc (Cực Lạc) để được chứng ngộ rồi sau đó đến cõi khổ đau độ sanh cả. Từ Đức Phật lịch sử Thích Ca Mâu Ni cho đến Đức Phật A Di Đà, Bồ tát Quan Thế Âm, Bồ tát Địa Tạng, v.v…. Vậy thì, hành giả Tịnh độ mong về Cực Lạc tu pháp môn gì, thực hành phước báo gì để thành Phật và pháp môn ấy có phù hợp với hạnh nguyện của Phật A Di Đà và chư Bồ tát đã và đang thực hiện không?!

Liên hệ đến Niết bàn, nhiều người cũng quan niệm sai lầm khi cho rằng Niết bàn là chết, hay Niết bàn hữu dư và vô dư. Quan niệm Niết bàn là chết làm cho Phật giáo trở nên yểm thế. Sự thật, đức Phật và các vị A-la-hán chứng Niết bàn ngay khi còn sống và giáo hóa chúng sanh ngay trên cõi đời này, và Niết bàn là Niết bàn chứ không có hữu dư hay vô dư vì không thể đồng nhất sự tồn tại xác thân với Niết bàn. Có gì khác nhau giữa Niết bàn khi còn xác thân và khi xác thân tan rã!? Vấn đề chỉ là do chính chúng ta chủ quan dựa trên hiện tượng mà phân biệt thôi.

Để giải quyết vấn đề này thì không có gì hay hơn là hiểu đúng ý nghĩa vãng sanh. Chư vị tổ sư, các bậc tôn túc đã chỉ dạy vãng sanh là vượt qua phiền não. Khi vượt thoát hoàn toàn phiền não tức là vãng sanh hoàn toàn, là Niết bàn, là Tịnh độ. Và do đó, cầu vãng sanh là cầu giải thoát, Niết bàn chứ không phải chỉ là cầu về Tây phương sau khi chết. Vãng sanh đồng nghĩa với chết là phương tiện, là niềm tin còn vãng sanh là thoát khỏi phiền não mới đích thực là giáo pháp của đức Phật. Cầu vãng sanh như thế thì vãng sanh càng nhanh càng tốt và chắc chắn không ai từ chối cả.

Sự ngộ nhận vãng sanh như là một ‘ca vãng sanh’

Đã hiểu vãng sanh như là sự chấm dứt phiền não thì vấn đề hộ niệm sẽ được hiểu đúng và không bị rơi vào tình trạng ngộ nhận ‘vãng sanh như một ca’. Nhiều nhóm cư sĩ làm công việc hộ niệm cho người chết, sau khi đám tang xong thì cho rằng đã hoàn thành một ca vãng sanh. Những người hộ niệm phiền não còn quá đủ, người chết phiền não cũng còn dư. Vậy mà những tuyên bố như thế cũng làm bao nhiêu người mê và ca ngợi không ngớt. Ngay cả đức Phật khi được hỏi về trường hợp sau khi chết của các đệ tử, Ngài cũng chỉ trả lời là tái sanh về cõi lành. Đành rằng quý vị hộ niệm có ý mong muốn tốt nhưng khi tuyên bố một việc không có thật hay do mình ảo tưởng, nhất là những việc có ảnh hưởng đến sự thăng trầm của kiếp người thì thiết nghĩ quý vị rất nên thận trọng. Đừng vì đam mê một chút tiếng tăm mà ta bị tổn phước báo khi gây hoang mang và tạo sự ỷ lại cho nhiều người chưa hiểu đạo Phật. Ấy là chưa kể những việc làm mâu thuẩn khác như là đọc tên cầu siêu….. Đã tuyên bố vãng sanh rồi thì phải mừng chứ sao lại còn khóc, còn đọc tên cầu siêu mà không thay bằng sự tưởng niệm mang tính tri ân giáo dục và vui mừng. Xin quý vị suy ngẫm lại xem để tránh tự lừa chính mình.

Khi đã hiểu ý nghĩa và điều kiện vãng sanh thì những người làm công việc hộ niệm không còn ngộ nhận ‘có hại’ như trên và gia quyến người chết cũng không bị ‘ảo tưởng’. Hộ niệm là một việc làm đáng khích lệ vì đó là hành động trợ duyên tích cực cho cả người chết và gia đình thân quyến của họ. Nó như là một sự nhắc nhở tích cực để người mất tỉnh thức quay về đường thiện, tái sanh cõi lành. Chư Phật, Bồ tát luôn cứu độ, tiếp dẫn bằng con đường hướng đạo với vai trò là bậc đạo sư như chính đức Phật Thích Ca vậy. Việc hiểu lầm vãng sanh là do hộ niệm dẫn đến thái độ ỷ lại và mong mỏi rằng khi chết có nhiều thầy cô, ban hộ niệm đến tụng kinh mới được vãng sanh cần phải xem lại. Đáng tiếc, nhiều người xuất gia cũng có tư tưởng như thế huống gì những người tín ngưỡng. Tất cả chỉ vì sự lạm dụng hai chữ ‘phương tiện’ trong khi truyền bá Phật pháp.

Tu tịnh độ theo tinh thần nhân quả

Giáo lý nhân quả là một tuyệt phẩm của đạo Phật do đức Phật giác ngộ và truyền dạy lại. Nhân quả là chân lý dù con người có tin hay không tin, có chấp nhận hay không chấp nhận. Hành giả muốn tin thế giới Cực Lạc là cõi vật chất ở Tây phương hay là cảnh của tâm bao trùm tam thiên thế giới điều đó không trở ngại gì đến sự vãng sanh. Quan trọng là chúng ta phải dứt sạch phiền não. Đó chính là chánh nhân để vãng sanh ngay hiện tại và cảnh giới Tây phương.

Muốn đạt được chánh nhân ấy, tâm hành giả phải luôn thanh tịnh (nhất tâm bất loạn) hay chánh niệm tỉnh thức. Tâm ấy chỉ có thể đạt được khi miệng nói lời chánh ngữ hay luôn niệm Phật và thân phải tu thiện, tạo phước, cứu giúp mọi người và muôn loài. Thành tựu được tâm bất loạn hay chánh niệm tỉnh thức và đầy đủ phước đức thì hành giả đã thành tựu vãnh sanh. Khi ấy, hành giả nguyện sanh về Cực Lạc hay bất cứ nơi đâu cũng không có gì trở ngại.

Từ bi và cứu khổ là bổn nguyện của tất cả chư Phật. Tuy nhiên, ba đời chư Phật chưa vị Phật nào phủ định nhân quả hay thay đổi nhân quả bằng năng lực thần thông. Nghĩa là Phật không bao giờ ‘đặc cách’ cho bất cứ một chúng sanh nào để cứu độ khi mà họ chưa dứt sạch nghiệp vì làm như thế là phủ định nhân quả hay ‘đạp lên’ nhân quả. Do đó, chúng ta không cần quá bận tâm việc Phật cứu độ theo nghĩa ‘nghĩa đen’ nữa mà nên dành trọn thời gian để tạo chánh nhân theo lời Phật dạy tức là dứt sạch hoàn toàn phiền não, đạt tâm bất loạn (chánh niệm) và đầy đủ phước đức thì khi ấy không phải Phật đang cứu độ ấy sao!

Tịnh độ là một pháp môn có nhiều tranh luận vì có nhiều sự lý giải khác nhau. Do đó, thay vì phủ bác lẫn nhau thì chúng ta hãy tiếp nhận sự kiến giải khác nhau từ đa chiều rồi tư duy quán chiếu theo tinh thần Phật dạy trong kinh Kalama. Từ đó, mỗi người sẽ tìm thấy cho mình hướng đi đúng, phù hợp với giáo lý cốt yếu của Phật giáo.

Hãy thận trọng khi tuyên bố những gì mình chưa chứng nghiệm, nhất là những tuyên bố chỉ dựa vào niềm tin kinh điển mà không phải dựa trên nhân quả và pháp ấn của đạo Phật. Hậu quả của nó khó mà lường hết được!

Hành giả Tịnh độ vẫn được khuyến tấn tin Phật A Di Đà cứu độ và thế giới Cực Lạc để tu tập tinh tấn hơn. Tuy nhiên, tu tập là một quá trình chuyển hóa thân tâm. Niềm tin và cầu nguyện là chất xúc tác để hành giả thực hành tinh chuyên hơn. Nhờ chất xúc tác mà hành giả niệm Phật đạt đến nhất tâm bất loạn thì vãng sanh có mặt hiện tiền. Có thể các bạn không đồng ý nhưng đó là điều các bạn có thể trải nghiệm được ngay bây giờ và tại thế giới này. Các bạn có quyền nghĩ về tương lai ở Cực Lạc nhưng lời khuyên chân thành là đừng đánh mất giá trị cuộc sống hiện tại hay hiểu một cách khác là đừng đánh mất ‘Tịnh độ hiện tiền.’

Hư Thật Mộng
[1] Thuyết này chủ trương thế giới và tự ngã thường còn. Bà-Phù-Đà-Ca-Chiên-Diên (Pakudha-Katyayana) – một trong sáu vị thầy ngoại đạo thời đức Phật, chủ trương thuyết này. Ông cho rằng tâm vật nhị nguyên bất diệt.

[2] Xem http://en.wikipedia.org/wiki/Last_Judgment

[3] Năm uẩn của con người gồm sắc thân cộng với phần tâm gồm cảm thọ, tri giác, suy nghĩ và nhận thức đều vô ngã. Dù gọi thần thức hay linh hồn thì thần thức hay linh hồn đó phải là vô ngã.

[4] Pháp ấn gồm Vô thường, Khổ, Vô ngã, Niết bàn hay Vô thường, Khổ, Vô ngã (theo Nam truyền).

[5]Xem thêm bài viết ‘Tịnh độ là lòng trong sạch, Di Đà là tính sáng soi’ của TT. Thích Phước Đạt (http://giacngo.vn/triethoc/2011/11/30/5FF001/), (/)

[6] ‘Mạc đạo Tây phương cận, Tây phương thập vạn trình, Di Đà thùy tiếp dẫn, vô tử diệc vô sanh’

[7] ‘Mạc đạo Tây phương viễn, Tây phương tại mục tiền, thủy lưu quy đại hải, nguyệt lạc bất ly thiên.’ Xem thêm bài ‘Ý nghĩa vãng sanh’ của TT Thích Viên Giác (http://www.giacngo.vn/phathoc/luockhao/2010/12/28/7AE219/) (/)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
16/04/2024(Xem: 48)
Một đám đông Mỹ-Mễ-Mít làm việc chung với nhau, ngày nào cũng đùa giỡn rần rật, chơi khăm rồi cười sằng sặc, tán dóc đủ thứ chuyện trên đời, từ chính trị cho đến chuyện súng ống tràn lan, giá xăng tăng… Nhưng nhiều nhất và thường xuyên nhất vẫn là chuyện bóng cà na và chuyện đàn bà. Y cũng là một tên tích cực trong nhóm, thậm chí còn nổi trội về những trò gây cười. Y là tay nghịch ngầm và có nhiều ý tưởng mới, hễ y ra tay hay góp lời là cả đám cười hả hê. Những lúc câu chuyện trở nên thô tục quá thì y giật mình nhớ lại vấn đề chánh niệm nên ngưng nói. Giữ chánh niệm không phải là dễ, nhất là khi ở trong một môi trường mọi người đều thất niệm hay không biết chánh niệm là gì, quả thật những chuyện đùa , chuyện sắc dục nó hấp dẫn và dễ dãi hơn là chuyện chánh niệm.
16/03/2024(Xem: 925)
Nam Mô có nghĩa là Trở về A, nghĩa là: vô Di Đà, nghĩa là: Lượng Phật, nghĩa là Giác, tánh biết Niệm danh hiệu: Nam Mô A Di Đà Phật, có nghĩa là “ trở về với tánh giác vô lượng của bản thân mình, đó là A Di Đà tánh, là ông Phật của chính mình” Cứu cánh của Pháp môn Tịnh Độ là đạt tới điểm chung của Thiền cũng là khám phá ra ông chủ của mình . Tịnh Độ là ông Phật của chính mình chứ không phải ở ông Phật Tây Phương Cực Lạc. 🏵️🌼🍁🌺🍀🌹🥀🌷🌸🏵️
20/01/2024(Xem: 524)
Quyển này bút giả tuyển dịch từ nguyên bản Tịnh Độ Thánh Hiền Lục của Phật giáo Trung Hoa. Bộ Tịnh Độ Thánh Hiền Lục do cư sĩ Bành Tế Thanh cùng cháu là Hy Tốc, người đời Càn Long nhà Thanh sưu tập những truyện niệm Phật được vãng sanh soạn thành. Đến cuối đời Đạo Quang, Thanh triều, Liên Quy cư sĩ Hồ Đỉnh góp nhặt các chuyện vãng sanh tục biên thêm. Sang đời Trung Hoa Dân Quốc, Đức Sum Pháp sư lại sưu tập những sự tích tu Tịnh độ có ứng nghiệm bổ túc vào. Trước sau có tất cả được gần một ngàn truyện.
18/11/2023(Xem: 3203)
Cách đây chừng 30 năm, Tổ Đình Viên Giác tại Hannover Đức Quốc chúng tôi có nhận được bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daizokyou) bằng Hán Văn gồm 100 tập do cố Hòa Thượng Thích Tịnh Hạnh từ Đài Loan giới thiệu để được tặng. Bộ Đại Tạng Kinh giá trị này do Phật Đà Giáo Dục Cơ Kim Hội xuất bản và gửi tặng đến các nơi có duyên. Phật Đà Giáo Dục Cơ Kim Hội dưới sự chứng minh và lãnh đạo tinh thần của cố Hòa Thượng Thích Tịnh Không đã làm được không biết bao nhiêu công đức truyền tải giáo lý Phật Đà qua việc xuất bản kinh điển và sách vở về Phật Giáo, với hình thức ấn tống bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau như: Hoa Ngữ, Anh Ngữ, Pháp Ngữ, Đức Ngữ, Việt Ngữ. Nhờ đó tôi có cơ hội để tham cứu Kinh điển rất thuận tiện.
23/10/2023(Xem: 4073)
Hôm nay là ngày 21/11/2020, là một ngày đáng để kỷ niệm. Từ hôm nay trở đi tôi bắt đầu phúc giảng kinh Vô Lượng Thọ lần thứ hai, nguyện đem công đức này hồi hướng cho lão pháp sư thượng Tịnh hạ Không. Báo đáp ân sư ơn tri ngộ, Y giáo phụng hành an lòng Thầy. Ân pháp nhũ thật khó báo đáp, Toàn tâm toàn lực hoằng đại kinh. Thỉnh cầu ân sư thương xót chúng sanh khổ mà trụ thế độ quần manh! Chúng ta đều làm học trò ngoan biết nghe lời. Hôm nay là ngày 21/11/2020, là ngày kỷ niệm Bồ-tát Lưu Tố Thanh vãng sanh thế giới Tây Phương Cực Lạc tròn 8 năm, chúng tôi giảng kinh Vô Lượng Thọ lần thứ hai, lấy việc này biểu đạt sự tưởng nhớ và cảm ân sâu sắc của chúng ta dành cho Bồ-tát Lưu Tố Thanh.
18/04/2023(Xem: 3416)
Lời Giới Thiệu Sách “Nhân Hạnh Vãng Sanh” của Trí Khiêm
09/04/2023(Xem: 2114)
Trong quá trình chiến tranh Hoa Nhựt, một mặt Vương triều Nhật Bản muốn thiết lập một nền cai trị Đại Đông Á thống trị vùng Bắc Á và Đông Nam Á để khống chế về thu nhập tài nguyên kinh tế cho bản địa: Một mặt không phải người Nhật nào cũng muốn gây chiến tranh với các nước láng giềng, mà cần có sự giao lưu về văn hóa, văn học, tôn giáo, nên một số đông người Nhật đến Trung Hoa nghiên cứu học hỏi văn hóa lâu đời vào hàng thứ nhứt trên thế giới, văn hóa Khổng, văn hóa Lão Trang, văn hóa Phật Giáo, trong đó có giao lưu văn hóa Phật Giáo. do đó trong lĩnh vực hiệp hội Phật Giáo Trung Hoa do Đại sư Thái Hư sáng lập có những thành viên là người Nhựt, nên vấn đề ảnh hưởng các tông, phái Thiền Tịnh dành cho những người tu Phật của Phật
14/03/2023(Xem: 5269)
Trong xã hội bận rộn ngày nay, con người phải đối mặt với nhiều vấn đề tâm lý làm ảnh hưởng đến chất lượng sống, và đã đến lúc chúng ta cùng thư giãn, chú trọng đến sức khỏe tinh thần nhiều hơn. Cách thực hành dễ nhất, nhanh nhất, hiệu quả nhất là cùng Headspace, 10 phút thiền định mỗi ngày để thay đổi cuộc sống. Với những kiến thức mới về thiền trong bộ sách 3 cuốn rất mỏng và dễ đọc để ứng dụng này, chúng ta chắc chắn có lối sống tích cực, vui vẻ hơn và bình an hơn. Bộ sách gồm 3 cuốn mang đến những lợi ích khác nhau, từ quản lý sự căng thẳng đến trân trọng và biết ơn cuộc sống. Hướng dẫn những kỹ thuật căn bản nhất về thực hành thiền là mấu chốt để thay đổi cuộc sống của bất cứ ai may mắn đọc sách này.
20/10/2022(Xem: 1961)
Niệm Phật, cuối cùng thì bạn cũng đã đến đây! Cuối cùng thì bạn cũng đã bắt đầu khởi tâm tìm đường về “nhà”, sau biết bao nhiêu trầm luân, khổ hải của kiếp nhân sinh. Hết thảy những ai tìm đến niệm Phật, cũng đều là bởi một trong những nguyên nhân sau đây. Có phải bạn cũng thế hay không? Nghèo khó, gia đình suy vi khổ lụy, vợ con nay yếu mai đau, cửa nhà thiếu trước hụt sau. Bệnh nặng lâm thân, mà thuốc thang dây đưa không khỏi, mạng sống mong manh sớm tối. Cuộc sống bế tắc, gia đình bất hòa, anh em hoặc vợ chồng chẳng thuận, con cái ngỗ nghịch.
21/08/2022(Xem: 3571)
Lời dạy của Đức Phật, được ghi chép lại dưới dạng Kinh tạng. Hai ngàn sáu trăm năm đã trôi qua, bánh xe Đạo Pháp chuyển động không ngừng, dạy con người cách sống an lạc. Muốn sống an lạc, người học Phật phải liễu tri và hành trì, tu tập đúng lời Phật dạy.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567