Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chánh Niệm và Niệm Phật

16/04/202408:09(Xem: 164)
Chánh Niệm và Niệm Phật
phat a di da phat

CHÁNH NIỆM VÀ NIỆM PHẬT

 

Một đám đông Mỹ-Mễ-Mít làm việc chung với nhau, ngày nào cũng đùa giỡn rần rật, chơi khăm rồi cười sằng sặc, tán dóc đủ thứ chuyện trên đời, từ chính trị cho đến chuyện súng ống tràn lan, giá xăng tăng… Nhưng nhiều nhất và thường xuyên nhất vẫn là chuyện bóng cà na và chuyện đàn bà. Y cũng là một tên tích cực trong nhóm, thậm chí còn nổi trội về những trò gây cười. Y là tay nghịch ngầm và có nhiều ý tưởng mới, hễ y ra tay hay góp lời là cả đám cười hả hê. Những lúc câu chuyện trở nên thô tục quá thì y giật mình nhớ lại vấn đề chánh niệm nên ngưng nói. Giữ chánh niệm không phải là dễ, nhất là khi ở trong một môi trường mọi người đều thất niệm hay không biết chánh niệm là gì, quả thật những chuyện đùa , chuyện sắc dục nó hấp dẫn và dễ dãi hơn là chuyện chánh niệm.

Chánh niệm là giữ ý niệm đúng đắn ( theo tiêu chuẩn Bát Chánh Đạo) mọi thời, mọi nơi. Chánh niệm thường được giải thích là biết một cách rõ ràng những gì mình nghĩ, nói và làm, sống trọn vẹn trong từng phút giây hiện tại, không hối tiếc quá khứ, không hy cầu tương lai… Tuy nhiên làm người mà sống được chánh niệm trọn vẹn mọi lúc mọi nơi thì khó lắm, dễ mấy ai làm được? giả sử làm được thì thành thánh cả rồi!

Một ngày hai mươi bốn giờ, một tuần bảy ngày, một tháng trung bình ba mươi ngày, một năm ba trăm sáu lăm ngày, một đời trong vòng trăm năm. Nếu ai giữ được chánh niệm toàn thời gian thì vị ấy chẳng phải là người nữa mà là bậc thánh quả Arahanta rồi. Làm người mà giữ được chánh niệm thì khó lắm, nếu những vị xuất gia ở trong chùa thì còn tương đối dễ vì cảnh chùa thanh tịnh không bị sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp quấy nhiễu. Các căn không phải va chạm tiếp xúc với sáu trần, bởi vậy mà dân gian mới bảo:

“Thứ nhất là tu tại gia

Thứ nhì thu chợ thứ ba tu chùa”

Ở đây chỉ nói về mứcc độ khó và dễ của việc giữ chánh niệm, ở chùa tương đối u nhã thanh tịnh hơn cảnh đời nên dễ sống tỉnh thức và chánh niệm hơn ngoài đời. Còn chuyện tu cao thấp ở chợ ở chùa thế nào thì vốn quá rõ ràng không cần phải nói nữa! Chỉ có những bậc dõng mãnh, tinh tấn, quyết chí mới có thể bỏ chợ vào chùa.

Thời gian hai mươi bốn giờ trong ngày, chỉ cần giữ được chánh niệm chừng hai mươi phần trăm thời gian ấy đã là khá rồi. Công việc bận rộn nặng nhọc khó mà giữa được chánh niệm. Công việc cần phải tính toán suy nghĩ, phải tập trung tâm ý để làm viêc thì cũng khó mà giữ chánh niệm, lúc ấy chỉ còn lo hiệu quả công việc chứ tâm ý đâu nữa mà tỉnh thức với chánh niệm. Sống ở đời thân xúc chạm, tâm nghĩ tưởng tán lọan, lo lắng, yêu ghét, thích chán… lắm thứ. Bởi vậy phải có đạo tâm, tín tâm mới có thể cố gắng để sống tỉnh thức và chánh niệm.

Những lúc cả bọn tụ lại để giỡn, nói xàm y cũng biết là mình đang thất niệm nhưng vì mình là phàm phu nên chấp nhận và tặc lưỡi cho qua, để rồi nhiều khi quán xét lại những gì mình nói, làm thì sanh hối, tuy thất niệm nhưng vẫn còn nghĩ đến chánh niệm nên cũng hạn chế bớt phần nào chứ không để nói cho sướng miệng. Không dùng những từ quá thô tục và chỉ đùa những vấn đề vô thưởng vô phạt để giảm bớt khẩu nghiệp của mình.

Giữ chánh niệm phụ thuộc rất nhiều vào hòan cảnh sống, những lúc lên chùa hay đang ở đạo tràng là lúc dễ giữ chánh niệm nhất vì chùa vốn thanh tịnh lại gần thầy, gần Phật (dù là tượng hay tranh). Ở trong một tập thể tốt, biết đạo… thì dễ giữ chánh niệm hơn là ở trong một tập thể xấu và không có ai có tín tậm. ( Tuy nhiên ở chùa cũng có nhiều người thất niệm, dù lên chùa mà vẫn toàn nói chuyện thị phi, chính trị, thậm chí tranh giành ảnh hưởng ở chùa…). Khi mình ở một mình cũng sanh dễ duôi và ý niệm tà vạy hơn là ở trong tập thể. Vì khi ở trong một tập thể thì có thể vì sĩ diện, vì ý thức mà tự hạn chế những lời nói hay việc làm tà niệm ấy! Giữ chánh niệm trong lúc lái xe rất quan trọng, lái xe thì biết mình đang lái xe, không thể vừa lái xe vừa gởi tin nhắn, xem phim hay làm thêm bất cứ việc gì khác, vì vừa vi phạm luật vùa thất niệm, chỉ cần một tích tắc thôi là có thể gây ra tai nạn. Lái xe trong thất niệm với cái tâm vô thường thay đổi quá giận hay qúa vui cũng đều dễ dẫn đến tai nạn như chơi.

Ngôn ngữ và lời nói là phương tiện giao tiếp giữa con người với nhau, tiếng nói là sự rung động của không khí tạo ra làn sóng âm thanh, nó vô hình vô tướng nhưng có sức mạnh kinh khủng, gây ra hiệu quả lớn làm cho ta có thể thấy tận mắt ngay trong hiện đời. Cũng một lời nói thiếu chánh niệm có thể gây ra thảm cảnh máu chảy đầu rơi, sát thân, diệt tộc...Tuy nhiên cũng một lời nói nhưng ngược lại, có thể làm cho người khác lên hương, mang lại bổng lộc. Có những lời nói thiếu chánh niệm có thể khiến người khác đau khổ, thậm chí tự tử, hoặc khiến người nghe phải thề độc:” Sống để bụng chết mang theo”. Người có địa vị càng cao thì hậu quả hay kết quả của lời nói càng lớn. Hàng ngày chúng ta thường thất niệm nên thường nói cho sướng miệng, một hiện tượng tràn lan và có ảnh hưởng sậu rộng hiện nay là những nhóm hài nhảm nhí, toàn chửi bới, nói xàm, diễn tục… rất nhiều người trong chúng ta bị ảnh hưởng một cách vô thức, giới trẻ nhận thức lệch lạc, rất nhiều người xem chửi như là một loại:” văn hóa chửi” và cho đó là đẳng cấp, là hơn người mà không biết rằng đó là sự thất niệm lớn, đang tạo khẩu nghiệp nặng nề. Khi mình thất niệm thì thường nói cho đã cái miệng, chuyện bé xé ra to, khi sự việc qua rồi  thì sanh hối lỗi, tiếc nuối nhưng tiếc thay lời nói đã găm vào tâm người nghe, khó mà xóa bỏ hay rút lại, thậm chí không thể xóa được.

Hiện nay với sự phát triển cao độ của khoa học kỹ thuật, sự bùng nổ thông tin, công nghệ điện toán… đã đem lại sự tiện ích lớn lao cho con người. Mình có thể ngồi nhà làm việc hay liên lạc với bất kỳ ai ở thế gian này, có thể vui chơi, giải trí, học tập…. Và với một lượng kiến thức khổng lồ giúp chúng ta giải đáp được mọi thứ, tuy nhiên mặt trái của nó cũng ghê gớm lắm, vô số tin giả, tin độc hại, thuyết âm mưu, những cái xàm xí nhảm nhí… Người thất niệm rất dễ bập vào những thứ ấy, xem rồi bình loạn hoặc đăng những điều quấy quá. Bản thân bút giả cũng thất niệm nên sa đà vào những trang web đen, phim xấu. Khi tỉnh ra thì lại hối hận, sám hối nhưng rồi lại sa vào vết cũ, cứ như thế đã nhiều lần. Vì thế nên mới nói khi ở một mình dễ thất niệm hơn sống trong tập thể, nếu đó là tập thể tốt lành, tỉnh thức… Khi sống chung một môi trường có người có tín tâm, có người tỉnh thức thì mình cũng có nhiều cơ hội để giữ vững chánh niệm. Những khi ở một mình, tuy cũng nhớ về chánh niệm, nghĩ đến giới và sự thanh tịnh… nhưng cái ma lực hấp dẫn rù quến của những cái links bậy bạ rất dễ làm cho thất niệm và dễ tặc lưỡi cho qua.

Kinh nghiệm của bản thân bút giả khi niệm dnah hiệu Phật rất có hiệu quả trong việc giữ chánh niệm, thông thường y vẫn niệm thầm danh hiệu Phật ở nơi làm việc (trừ những lúc tập trung làm hay tán gẫu, đùa giỡn). Niệm danh hiệu Phật, giữ danh hiệu Phật trong tâm trí, trụ vào danh hiệu Phật để tâm mình tạm thời không trụ vào sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Khi trụ vào danh hiệu Phật tức là có chánh niệm, sống trong chánh niệm vì lúc ấy cũng tạm thời không còn vướng vào những tà niệm, vọng niệm của tài, sắc, danh, thực, thùy.

Một chút mở rộng: Phậtt giáo nam truyền và Theravada cho niệm Phật là niệm đức hiệu chứ không phải niệm danh hiệu, đó là niệm: Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự, Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Phật giáo nam truyền và Phật giáo Theravada không niệm danh hiệu Phật A Di Đà mà là niệm Phật, niệm pháp, niệm tăng, niệm thiên, niệm thí… cho đến niệm tử. Khá nhiều vị cực đoan bài bác Phật A Di Đà và pháp môn Tịnh Độ. Họ cho là phương pháp ấy không phải chánh pháp, không phải do Phật Thích Ca dạy. Bút giả cũng từng nghi ngờ và niềm tin lung lay nhưng rồi trong quá trình sống đã nhận được nhiều lợi ích từ việc niệm Phật, trụ tâm vào câu Phật hiệu cho nên đã vượt qua được sự nghi ngờ ấy và quyết chí giữ vững việc niệm Phật. Khi mình niệm Phật, nghĩ Phật, nhớ Phật, tưởng Phật thì ấy là cái niệm chánh, cái niệm tịnh. Niệm Phật cũng chính là sống trong chánh niệm vậy.

 

 

CHÁNH KIẾN VỚI PHẬT TỬ SƠ CƠ

 

Đạo Phật là đạo từ bi trí huệ, mục đích tối thượng của đạo Phật không ngoài việc giúp con người sống an lạc, buông xả để đi đến giác ngộ và giải thoát. Đức Phật cũng từng nói:” Nước trong biển chỉ có một vị mặn và pháp của ta cũng chỉ có một vị giải thoát”.

Đạo Phật hình thành và phát triển ở Ấn Độ từ hai mươi lăm thế kỷ trước bởi đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Ngày nay đạo Phật có mặt khắp năm châu và với nhiều tông môn pháp phái truyền  thống khác nhau. Dù có tu học theo trường phái nào hay tông môn nào cũng đều căn cứ vào cái căn bản cốt lõi của đạo Phật ấy là: Tứ diệu đế, bát chánh đạo, ba mươi bảy phẩm trợ đạo...Trong ấy thì bát chánh đạo chính là con đường trung đạo, con đường chuyển phàm thành thánh, chuyển mê thành giác, chuyển ngũ trược ác thế thành niết bàn. Không cứ gì Phật tử, tất cả mọi người trên thế gian này nếu y cứ theo bát chánh đạo mà hành thì cũng đều thành tựu được cả. Mọi người dù có mang nhãn mác gì đi nữa nhưng một khi thực hành tu tập bát chánh đạo thì cũng đều có thể đi đến giác ngộ, niết bàn.

Tu học bát chánh đạo chính là tu học giới- định- tuệ vậy. Giới tương ưng với: Chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng. Định tương ưng với: Chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định và cuối cùng tuệ tương ưng với: Chánh kiến, chánh tư duy. Chúng ta thường nghe có giới thì mới sanh định và có định thì mới có trí tuệ, nhưng ở đây rõ ràng chánh kiến và chánh tư duy lại đứng đầu. Chúng ta thử tìm hiểu một tí nhé!

Chánh kiến đứng đầu trong bát chánh đạo, chánh kiến có hai là chánh kiến hợp thế và chánh kiến siêu thế. Chánh kiến là sự hiểu biết về khổ, nguồn gốc của khổ, con đường thoát khổ và sự chấm dứt khổ. Chánh kiến tức là tứ diệu đế vậy. Mở rộng và liên hệ một chút là chánh kiến tức cái thấy, cái biết đúng đắn, chân chánh. Chánh kiến là cái nhìn sự vật, sự việc, hiện tượng đúng với bản chất của nó, nói cách khác là như thị ( look as is). Chánh kiến là cái tri kiến đúng, không lệch hai bên, không để quan điểm yêu thích can thiệp vào. Điều này quả là khó với người thế gian, vì con người từ xưa đến giờ luôn nhìn sự việc, sự vật  qua lăng kính yêu – ghét, thích- chán, lợi – hại, được – mất, ta – địch… Bởi vì thế mà Phật tử sơ cơ chúng ta cần có chánh kiến, có cái nhìn khách quan, cái hiểu biết đúng. Chánh kiến khôn phải tự nhiên mà có, cũng chẳng phải cho Phật hay thánh thần ban cho. Chánh kiến phải tự thân mình tu tập dần dần mới hình thành. Mình mê muội vọng tưởng đã lâu, giờ phản tỉnh xoay lại, phải cố gắng học và hành thì mới có thể có được. Trong thế giới ngày nay, chánh kiến quả là rất khó có, người có chánh kiến cũng khó gặp, đừng nói là Phật tử sơ cơ, ngay cả nhiều vị xuất gia vẫn không có chánh kiến, vì không có chánh kiến nên nói năng, hành động bị sai sử bởi mê lầm, kiến chấp. Vì không có chánh kiến nên nói bậy làm sai để bảo vệ quyền lợi danh vị của mình hay của nhóm mình. Chúng ta có thể thấy cụ thể như những trường hợp đăng đàn nói nhảm, nói xàm, nói bậy tỷ như:” Trung Quốc là anh, Việt Nam là em. Trung Quốc đánh Việt Nam cũng như anh dạy dỗ em” hoặc “ Lý Thường Kiệt đánh Tống là hỗn”, “ Xây dựng quân đội như Bắc Hàn”...Rồi bao nhiêu vụ lùm xùm làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín đạo Phật cũng như gây bất mãn trong dân chúng như: Trừ tà, mở ngải, trục vong,lên đồng, cúng sao giải hạn, huy động tiền cúng dường vô tội vạ… Tất cả những trường hợp trên là đều là những điển hình của sự thiếu chánh kiến. Những Phật tử sơ cơ nghe theo, làm theo, tin theo cũng đều là vì thiếu chánh kiến vậy. Người không có chánh kiến sẽ làm bậy nói sai và dễ bị đi sai đường vì sự rù quến của tà môn ngoại đạo ( tu theo bà Thanh Hải, Pháp Luân Công…).

Chánh tư duy là sự suy tư theo hướng ly dục, thiện tâm vô sân và ly hại. Chánh tư duy là sự tư duy có chủ ý đúng, ly dục, ly sân tầm và ly hại tầm, đó là theo kinh sách. Còn chánh tư duy theo cách nghĩ của hàng Phật tử sơ cơ thì chánh tư duy là sự suy nghĩ đúng đắn, chân chánh, hợp chân lý. Con người vốn thiên sai vạn biệt vì nghiệp của mình, vì biên kiến, tà kiến, giới kiến thủ. Con người vì tư lợi, vì danh hão, vì mê vọng mà tư duy thiếu sự sáng suốt, tư duy tà vạy. Tư duy đúng và chân chánh phải hợp lẽ đạo, phải khế hợp với tứ diệu đế, tam pháp ấn; Khổ, không, vô thường, vô ngã… Nếu những tư duy mà ngược lại thì đó là tà tư duy. Chánh kiến và chánh tư duy thường đi liền với nhau, chánh kiến quyềt định nội dung của chánh tư duy, có chánh kiến thì có chánh tư duy, có chánh tư duy thì chánh kiến vững vàng, cả hai bổ sung cho nhau. Chánh tư duy là những suy nghĩ hiền thiện, đúng pháp, lợi mình, lợi người, lợi vật. Chánhn tư duy dẫn dắt nói năng hay hành động của mình đi đúng hướng trên con đường tu học Phật pháp.

Chánh ngữ là lời nói chân chánh, hiền thiện, hợp đạo. Nói năng vì chánh pháp, vì sự thật. Người có chánh ngữ sẽ không nói linh tinh, nói xàm, nói nhảm, nói vì tư lợi, nói vì quyền thế chính trị, danh văn lợi dưỡng… Muốn có chánh ngữ thì ắt phải có chánh kiến và chánh tư duy. Người có chánh kiến tu cái miệng, là là một trong tam nghiệp: Thân – khẩu – ý.

Chánh nghiệp thuộc về phần tu giới, không sát sanh, trộm cắp, tà dâm; mở rộng ra thì chánh nghiệp tức là tạo tác sự nghiệp một cách đúng và chân chánh. Nghiệp dẫn dắt tất cả mọi người đi lên hay đi xuống . Nghiệp là do thân-khẩu-ý tạo ra, nghiệp là do tư duy, nói năng hành động của chính mình mà ra. Nghiệp chân chánh thì đem lại lợi lạc cho chính mình, cho gia đình mình và những người xung quanh. Nghiệp chân chánh sẽ đem lại lợi mình, lợi người, lợi vật, đem lại sự thức tỉnh, quân bình, an lạc. Chánh nghiệp của người Phật tử sơ cơ yêu thương giúp đỡ nhau trong đời sống cũng như trên con đường tu học Phật pháp. Người Phật tử sơ cơ giữ những giới mình đã thọ ấy cũng chính là tạo nghiệp chân chánh vậy.

Chánh mạng là sự nuôi mạng hạp đạo, đúng đắn, tuân theo những gì Phật dạy. Mình sống, mình mưu cầu để sống thì kẻ khác hay vật cũng ham sống sợ chết vậy. Chánh mạng là mưu sinh để nuôi thân mạng này nhưng không được làm hại người, hại vật, hại môi tường xung quanh. Người Phật tử sơ cơ sinh sống bằng những nghề lương thiện, mưu sinh để nuôi thân nuôi gia đình cần tránh những nghề gây đau khổ hay chết chóc cho kẻ khác như: chế tạo hay buôn bán vũ khí, ma túy, rượu, nhà thổ, lò mổ...Mình sống và cần tôn trọng sự sống của kẻ khác, không thể lấy sự đau khổ hay chết chóc của kẻ khác hay con vật để nuôi mạng mình.

Chánh tinh tấn tức là sự siêng năng, nỗ lực, kiên trì tu bốn điều cần thiết cần thiết chân chánh đó là: Việc ác chưa sanh thì đừng để sanh ra, việc ác đã sanh thì làm cho tiêu trừ đi, điều thiện chưa sanh thì hãy làm cho phát sanh, điều thiện sanh ra rồi thì làm cho tăng trưởng. Chánh tinh tấn là sự cố gắng một cách đúng và hợp chánh pháp. Cố gắng tu học, nghiên cứu kinh sách, tụng kinh, niệm Phật, tọa thiền, bố thí, phóng sanh… Nói chung tất cả những gì đem lại lợi mình, lợi người, lợi vật; những gì đem lại an lạc, quân bình và khai mang trí huệ. Chánh tinh tấn là sự cố gắng đúng pháp trên con đường tu học giác ngộ giải thoát. Nếu như cũng cố gắng nhưng sự cố gắng làm cho mình mê mờ, ràng buộc thêm, xa rời chánh pháp thì đó không phải là chánh tinh tấn mà là tà tinh tấn. Tỷ như người Phật tử siêng năng đi hầu đồng, trục vong, bói toán, mở ngải, bùa chú, yêu thuật, cúng bái quỷ thần… thì sự tinh tấn này là tà tinh tấn vì nó không đem lại lợi ích, nó chỉ làm cho mình thêm tà vạy lạc đường. Hoặc giả như cũng tinh tấn nhưng tu theo bà Thanh Hải, theo Pháp Luân Công… thì càng ngày càng xa rời chánh pháp, xa rời con đường giác ngộ và giải thoát. Muốn có chánh tinh tấn thì cần phải có chánh kiến và chánh tư duy để biện biệt được chánh- tà để mà tu học. Nếu cũng cố gắng mà không có chánh kiến, chánh tư duy thì ai bày vẽ gì cũng nghe theo và cuối cùng theo họ vào đường tà.

Chánh niệm, chữ niệm trong phép viết chữ Hán gồm bộ kim ở trên và chữ tâm ở dưới, nghĩa là cái tâm nghĩ nhớ, tập trung ở ngay tại cái phút giây hiện tại. Bây giờ và ở đây. Chánh niệm là sự có mặt của tâm ở hiện tại quan sát một cách khách quan những gì xuất hiện trong ta và quanh ta, cái tâm duy trì ở hiện tại, lặng lẽ, sáng suốt. Chánh niệm đóng vai trò điều khiển tu tập: Quán thân trên thân, quán thọ trên thọ, quán tâm trên tâm, quán pháp trên pháp, đi sâu hơn có lẽ là việc tu học của những bậc xuất gia. Hàng Phật tử sơ cơ chúng ta thì cạn cợt một tí thôi: Chánh niệm là sự nghĩ nhớ đúng, chân chánh ngay hiện tại bây giờ. Quá khứ đã qua không hối tiếc tương lai chưa đến không mong cầu, chỉ có phút giây hiện tại này. Mình làm việc gì thì biết việc ấy, toàn tâm toàn ý vào việc ấy.  Hơi thở vào biết thở vào, hơi thở ra biết thở ra, hơi thở ngắn biết hơi thở ngắn, hơi thở dài biết hơi thở dài, an trú vào hơi thở… Người có chánh niệm thì tâm ý không lan man hay vẩn vơ muôn mối, nhà Phật thường ví người không có chánh niệm là “Tâm viên ý mã” tức là cái tâm vọng tưởng loạn động như khỉ chuyền cành, ngựa chạy rông vậy. Người có chánh niệm thì trọn tâm ý trong việc mình làm, biết việc mình làm. Chánh niệm không những chỉ cần cho người học đạo mà còn cần cho cả người ngoài đời. Có chánh niệm thì mới an được cái tâm, tâm có an thì mới định, mới phát sinh trí huệ. Người có chánh niệm thì làm việc gì cũng trọn vẹn, không bị sai sót, hư hỏng.

Chánh định theo kinh sách gồm có: tầm, tứ, hỷ, lạc, nhất tâm. Chánh định (Samadhi) là chú tâm vào một điểm. Chánh định có thiền chỉ (Bhavana) và thiền quán ( Vipassana), tùy trình độ mà đi từ thấp đến cao tứ thiền, tứ không… Với hàng Phật tử sơ cơ thì chúng ta chỉ cần biết chánh định tức là định tâm đúng phương pháp, Phật giáo có nhiều phương pháp để định tâm, thiền định là phương pháp rộng rãi, phổ biến và được sử dụng nhiều nhất. Thiền định có nhiều cấp độ thích hợp với mọi căn tánh và trình độ khác nhau, có thiền bắc tông, thiền nam tông, có thiềm minh sát, tham thoại đầu, sổ tức, chỉ, quán...Nói chung tất cả đều giúp cho hành giả định được cái tâm, dẹp được cái vọng… tâm có lắng, có định thì huệ mới phát sanh. Ngoại đạo cũng có thiền định như không phải chánh định vì mục đích của họ để khai mở luân xa, cầu đắc thần thông… Chánh định của Phật giáo là để định tâm, để khai mở trí huệ, chánh định là con đườngtu học, là một trong tam học: Giới – định- tuệ.

Nhân việc nói về chánh kiến của người Phật tử sơ cơ, bút giả chỉ trình bày những hiểu biết nông cạn của mình về bát chánh đạo đối với hàng Phật tử sơ cơ, tuyệt nhiên không dám lạm bàn về chánh kiến hay bát chánh đạo đối với quý tu sĩ và những bậc xuất gia. Học Phật là để áp dụng vào đời sống hàng ngày chứ không phải để nói suông hay hý luận trên mặt chữ nghĩa, nay bút giả nói sơ về một chút áp dụng chánh kiến, chánh tư duy trong việc học Phật của mình. Cũng nhờ có chút xíu xiu về chánh kiến nên bút giả đã nhận ra được ít nhiều điều đúng, điều sai trong việc nghe pháp, học Phật của mình.

Pháp sư Tịnh không là một vị pháp sư lớn của thời đại, tiếng tăm bay xa khắp cõi. Phật tử người Hoa, Phật tử Việt đều hâm mộ, số người quy và theo tu học rất đông. Ngài chuyên tu tịnh độ và đặc biệt xiển dương kinh “ Vô Lượng Thọ” . Phải nói là chưa có bộ kinh nào được giảng và phổ biến rộng rãi như bộ kinh này,  băng video, vcr, mp3, trên Net… tràn ngập khắp nơi, lượng người nghe cũng đông đảo. Bút  giả cũng hâm mộ lắm, đã nghe suốt nhiều năm qua và hiện vẫn tiếp tục nghe, tuy nhiên trước kia nghe bằng cảm tình, nghe bằng sự hâm mộ, bây giờ thì nghe bằng lý, nghe qua lăng kính chánh kiến và chánhn tư duy. Sở dĩ có sự khác biệt này là vì sau một thời gian dài nghe đến độ có thể nhớ nằm lòng nội dung giảng nhưng từ khi nghe bằng chánh kiến và chánh tư duy thì nhận thấy có nhiều điều bất hợp lý, nhiều chỗ sai sự thật. Tuy rằng hâm mộ và kính trọng pháp sư nhưng những điều không đúng thì không thể nhắm mắt nghe theo. Đạo Phật là đạo chánh tín, tỉnh giác chứ không phải mê tín , cuồng tín. Học Phật cần có sự kiểm chứng chứ không thể nhắm mắt mà hùa theo. Trong nhà Phật cũng có câu: Đừng vội tin điều gì chỉ vì điều ấy được ghi lại trong sách vở, chỉ vì nhiều người tin, chỉ vì thầy tổ mình nói hay chỉ vì tập quán xưa nay… Ngay chính đức Phật cũng dạy:” Tin ta mà không hiểu ta tức là hủy báng ta”

Trước hết chúng ta thử nói về chủ trương quy y của pháp sư và tông môn, nếu những người chưa từng quy y thì không có điều gì để bàn, điều đáng nói ở đây là những Phật tử đã quy y, đã có pháp danh lại còn bắt phải tái quy y và gắn thêm hai chữ Diệu Âm vào pháp danh đã có. Việc này thật không cần thiết, rất buồn cười, giống như vẽ rắn thêm chân. Mục đích là tạo ra những đệ tử riêng, lập tông môn riêng. Nội dung quy y cũng thay đổi trở nên hạn hẹp một cách rất đáng tiếc. Đao Phật xưa nay quy y là quy y Phật, pháp tăng, có thể hiểu là tự tánh tam bảo hoặc thật tướng tam bảo cũng đều đúng cả. Bây giờ Pháp sư dạy quy y tam bảo kiểu mới: Quy y Phật tức là quy y A Di Đà Phật, quy y pháp là quy y kinh Vô Lượng Thọ, quy y tăng là quy y Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát. Điều này qủa thật không biết nói sao cho thỏa lòng, nói ra e đụng chạm và gây xáo trộn nhiều, nhưng rõ ràng quy y kiểu này thì hạn hẹp, cục bộ và không được như pháp cho lắm. Việc niệm danh hiệu Phật xưa nay vẫn thông suốt, giờ tự dưng phải đổi lại là niệm A Mi Đà Phật, hoàn toàn không cần thiết, chỉ làm rườm rà và xáo trộn thêm. Hình thức lễ lạy cũng vậy, người Phật tử quỳ xuống, hạ thấp cái ngã, hai bàn tay ôm chân Phật để tỏ lòng tôn kính, bây giờ thay đổi là hai bàn tay phải cụp lại rồi xòe ra như hoa sen nở. Vấn đề này xin dành cho các bậc tôn túc cho ý kiến chứ bút giả không dám bàn, riêng bút giả thì vẫn cứ lễ lạy như truyền thống xưa nay. Việc tu học thì khuyên mọi người buông bỏ hết các kinh và các danh hiệu Phật, Bồ Tát khác, chỉ niệm duy duy nhất kinh Vô Lượng Thọ và danh hiệu Phật A Di Đà. Cứ niệm Phật không cần học nhiều vì học nhiều là tạp tu, loạn tu sẽ không được nhất tâm và tức sẽ không được vãng sanh. Rõ ràng chúng ta vẫn nghe: Tu mà không học là tu mù, học mà không tu là đãy sách. Vậy pháp sư khuyên bỏ hết chỉ chú tâm niệm Phật e rằng chẳng biết Phật dạy gì, chẳng biết căn bản cốt lõi của Phật giáo là gì.

Pháp sư Tịnh Không giảng:” Phật Thích Ca Mâu Ni nhờ niệm Phật mà thành Phật”. Chúng ta đều biết rằng đức bổn sư Thích Ca Mâu Ni sau khi xuất gia tầm đạo đã tu khổ hạnh sáu năm nơi núi tuyết nhưng cuối cùng không được kết quả, sau đó đức bổn sư đến ngồi thiền bốn mươi chín ngày đêm dưới cội bồ đề, cho đến khi thấy sao mai mọc mà ngộ đạo. Ngài tu thiền miên mật suốt bốn mươi chín ngày trong kiếp chót và đã tu vô lượng kiếp trong quá khứ, làm gì có chuyện đức bổn sư Thích Ca Mâu Ni tu niệm Phật mà thành Phật, đây chỉ là một cách nhận vơ kiểu “ Thấy người sang bắt quàng làm họ” để đề cao pháp môn tu niệm Phật mà thôi!

Pháp sư nhắc nhở mọi người đừng “Tự tán hủy tha” nhưng suốt băng giảng ngài lại phạm “Tự tán hủy tha” một cách thái quá. Vì quá cổ xúy cho pháp môn tịnh độ mà sanh ra mỉa mai châm chích pháp môn tu thiền, những lời nói cụ thể như:’ Người niệm Phật thành Phật ( vãng sanh) thì nhiều, còn người tu thiền thì một người khai ngộ cũng không nghe thấy”, hoặc như:” Ngồi đó ngủ sao bằng nằm ngủ có phải khỏe hơn không”. Người tu thiền, ngồi an tọa tỉnh giác, thức tỉnh, thanh lọc tâm ý, quán sát từng niệm khởi, từng hơi thở chứ đâu phải ngồi để ngủ! Rồi pháp sư còn đi xa hơn nữa:” Những người ăn chay trì trai thì có đến chín mươi phần trăm đều bị bệnh ruột bao tử. Họ dồn ba bữa ăn làm một để mà ăn”. Điều này quá đáng, hai mươi lăm thế kỷ qua chưa từng nghe nói người trì trai bị bệnh ruột bao tử, lại còn con số chín mươi phần trăm kia ở đâu ra? Người trì trai họ ăn một bữa chính ngọ và bữa ăn bình thường chứ chẳng phải dồn ba bữa làm một để ăn. Chư tăng, ni Phật giáo nam truyền và một số ít tăng, ni Phật giáo Bắc truyền vẫn trì trai, chẳng có nghe ai nói vì trì trai mà bị bệnh ruột bao tử cả!

Pháp sư giảng về cảnh giới Tây Phương Cực Lạc cứ như là một truyện cổ tích hay một thế giới thần tiên kiểu như fairy tales vậy. Pháp sư bảo:” Người vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc cứ mỗi bữa ăn thì thức ăn thất trân bát bảo, bá vị hiện ra, bởi vì người vãng sanh vẫn còn tập khí ăn uống nên khi khởi niệm thì thức ăn uống tự động xuất hiện. Nếu nói thế thì những tập khí như: vệ sinh tiểu tiện, sinh hoạt tính dục...khi khởi lên thì những vấn đề ấy lại xuất hiện ư? Nếu thế thì còn gì là Tịnh độ, là Tây Phương Cực Lạc nữa? Ngài còn giảng:” Tây Phương Cực Lạc là chơn thường bất biến, duy chỉ có hoa sen là biến. Người niệm Phật thì hoa sen nở, khi không niệm nữa hay đổi ý tu thiền thì hoa sen héo đi. Phật chờ cho đến khi người ấy vãng sanh thì đem cái hoa sen héo ấy đến trao...” Những lời này quả thật có thể nói rất “ thần thoại”, không có chút gì như pháp, xa rời với căn bản Phật học.

Suốt quá trình giảng kinh Vô Lượng Thọ, pháp sư luôn nhắc người học Phật đừng “ Tự tán hủy tha” nhưng pháp sư lại phạm rất nặng, có lẽ tánh tự tôn dân tộc của ngài lớn quá, ngài không vượt qua được chính mình, ngài cũng giống như những người Hoa khác ở cái điểm này. Cái tư tưởng Đại Hán luôn luôn cho mình là nhất thiên hạ. Pháp sư giảng:” Phật giáo Trung Quốc với tập quán ăn chay là điểm đặc biệt nhất trên thế giới. Phật giáo nước không hề có” . Ngài tự tán:” Văn tự Trung Quốc tràn đầy trí huệ, trên toàn thế giới không có bất cứ một dân tộc hay một quốc gia nào có thể sánh bằng!”. Không biết là pháp sư có biết đến văn tự, văn minh của Lưỡng Hà, Ả Rập, Ai Cập, Hy Lạp, La Mã chăng? Hay là biết nhưng làm ngơ và tự cho mình là văn minh và trí huệ nhất? Thậm chí pháp sư còn đưa ra những lời nói hoàn toàn sai sự thật, bóp mép sự thật. Trong băng giảng pháp sư bảo rằng:” Lịch sử năm ngàn năm của Trung Hoa chưa từng xâm lược nước nào, chưa từng gây ra đau khổ cho bất cứ dân tộc nào, có chăng là chiến tranh bởi sự  thay đổi của các triều đại Trung Hoa mà thôi!”. Sự thật thì tất cả mọi người đều biết, cả thế giới đều biết: Năm ngàn năm lịch sử Trung Hoa không ngừng xâm lăng, gây chiến chinh, đánh cướp tiêu diệt các nước nhỏ, các dân tộc yếu. Nhiều quốc gia đã sáp nhập vào Trung Hoa, nhiều sắc tộc đã bị đồng hóa. Các triều đại Trung Hoa đã gây vô vàn đau khổ tang thương cho những nước nhỏ và những dân tộc yếu ở xung quanh, nói như cụ Nguyễn Trãi thì:’ Trúc Nam sơn không ghi hết tội, nước Đông Hải không rửa sạch mùi”. Ngay cả hiện nay cũng thế, Trung Hoa vẫn ngày đêm xâm lấn, cướp đất, cướp biển, sáp nhập… mở rộng lãnh thổ, các tộc người Tạng, Duy Ngô Nhĩ, Việt, các sắc dân và các nước vùng trung Á đều là nạn nhân của Trung Hoa. Họ vẫn đang ngày đêm chịu sự bức hiếp và đe dọa của Trung Hoa. Cái máu xâm lăng và đồng hóa của giới cầm quyền Trung Hoa không bao giờ thay đổi! Pháp sư còn bóp méo một sự thật khác nữa, ngài nói:” Vua các nước nhỏ chung quanh tấn cống cho các hoàng đế Trung Hoa là do lòng mến mộ, kính yêu và các hoàng đế Trung Hoa cũng đáp lễ lại gấp bội!” Lịch sử vẫn còn ghi lại rõ ràng, sự tấn cống lễ vật vàng bạc, châu báu, đặc sản quý… là một vấn nạn của các nước nhỏ, một nỗi lo sợ khốn khổ và đau khổ, một gánh nặng vô cùng, một khi vì lý do gì đó mà không thể tấn cống, tấn cống không đủ  theo sự bắt ép hoặc tấn cống trễ… các hoàng đế Trung Hoa liền lấy cớ đó cất quân đánh liền, làm gì có chuyện tấn cống lễ vật là vì yêu mến và càng không có chuyện đáp lễ gấp bội! Pháp sư để cao tự tán dân tộc mình một cách thái quá đến độ bất chấp lịch sử lẫn hiện thực, ngài bảo:” Người Trung hoa rất tôn trọng trí thức, không có một dân tộc nào có thể sánh kịp. Trong những buổi lễ hay các cuộc gặp mặt… chiếc ghế lớn của chủ tọa luôn dành cho người có học, cho dù người có học rất nghèo”. Sự thật thì ai cũng biết, xã hội Trung Hoa rất bạo liệt, mạnh được yếu thua, kẻ có tiền hay quyền thế là ông vua đứng trên mọi thiết chế xã hội. Ghế chủ tọa luôn luôn dành cho kẻ có quyền thế, tài chủ hoặc cường sơn thảo khấu, làm gì có chuyện ghế chủ tọa dành cho anh hàn sĩ, anh học trò nghèo. Nói như vậy là để tôn mình lên, ca tụng dân tộc mình văn minh, cái tánh tự tôn, tinh thần đại Hán quá mạnh. Pháp sư là một sa môn đa văn túc trí, phẩm hạnh thanh khiết, tinh tấn tu học nhưng tiếc thay không thoát khỏi cái tư tưởng đại Hán – trung Hoa.

Pháp sư đề cao Khổng Tử ngang hàng với đức bổn sư Thích Ca Mâu Ni. Ngài giảng:” Phật Thích ca Mâu Ni giảng trung đạo, Khổng Tử dạy trung dung thì cũng đâu có kém là bao, Khổng Tử cũng vĩ đại đâu có kém mấy”. Trung đạo là con đường chuyển phàm thành thánh, con đường đi đến giác ngộ và giải thoát. Trung dung là học thuyết chính trị của nho gia, vẫn trong vòng tranh danh đoạt lợi, vẫn quanh quẩn sanh tử luân hồi. Đem trung dung so với trung đạo khác nào đem ánh sáng đom đóm so với vầng thái dương. Đem Khổng Tử, một hiền triết, một chính trị gia so với đức phật, một bậc thầy của hàng trời người, một đấng giác ngộ đã hòan toàn không còn sanh tử luân hồi,  quả là một việc buồn cười, không thể nào so sánh được!

Bộ kinh Vô Lượng Thọ ngài giảng rất hay, rất hấp dẫn và lôi cuốn người nghe, tuy nhiên những điểm sai trái, không đúng sự thật, không như pháp thì chúng ta phải nhận rõ để không bị mê mờ lôi cuốn theo. Danh ngôn cũng có câu:” Yêu ai cũng cần biết cái dở của họ và ghét ai cũng phải nhìn nhận cái hay của họ”. Chúng ta hâm mộ pháp sư, yêu mến pháp sư, nghe giảng pháp và tu học theo pháp sư cũng cần phải nhìn nhận những điều không đúng, tin phải chánh chứ không phải tin mà mê, chánh tín chứ không phải mê tín là vậy! Những đồ đệ của Pháp sư, những người hâm mộ pháp sư suốt nhiều năm dài cứ tung hô người này vãng sanh, người kia đắc đạo thông qua việc để lại xá lợi. Thật sự thì sau khi hỏa thiêu, những phân tử canxi kết tinh lại giống như san hô hay những mảnh thạch cao, nào có phải xá lợi, xá lợi đâu mà nhiều quá xá và to tướng như thế. Tiếc thay những người vì quá hâm mộ mà gây nên làn sóng cuồng tín: lưu xá lợi, chết có thọai tướng, hào quang, hương thơm… đi tung tin khắp nơi, thậm chí động vật cũng vãng sanh, rồi đặt máy niệm Phật cho những chúng sanh mà chúng ta không thấy được bằng mắt thường nghe… Đây là hậu qủa của việc thiếu chánh kiến, thiếu chánh tư duy mà ra, vì vậy học Phật chúng ta cần phải có chánh kiến và chánh tư duy là vậy!

Hiện nay sâu vào đời mạt pháp, nhiều tà sư tham chính, thân chính, phò chính mà nói và làm không đúng như pháp, thậm chí nói bậy làm càn. Chúng ta có thể thấy ở cố quận mình, nhiều tà sư đăng đàn nói nhảm dễ sợ, dùng lời ma mị miệng lưỡi lươn lẹo để mê hoặc dẫn dắt người sơ cơ đi theo chú ý của họ. Phật tử sơ cơ chúng ta cần phải vận dụng chánh kiến, chánh tư duy để nghe pháp và học Phật, không dụng cảm tình. Có chánh kiến, chánh tư duy thì việc học Phật không bị mê lầm, không uổng phí thời gian và công sức. Có chánh kiến, chánh tư duy thì chánh tin tấn mới đem lại kết quả tốt đẹp.

 

CHUYỆN MỘT PHẬT TỬ

 

Giờ ăn trưa rất nhộn nhịp, cả căn phòng rộn ràng với trăm người ăn uống và nói chuyện, nhiều người vừa ăn vừa lướt mạng xã hội. Steven lơ đãng nhìn ra ngoài bãi đậu xe thấy thằng Omamudho Abdulah đang trải chiếc thảm cá nhân ở giữa hai chiếc xe và quỳ mọp xuống cầu nguyện. Không biết một ngày nó cầu nguyện mấy lần chứ từ khi vào làm ở hãng này thì thấy nó cầu nguyện trước giờ làm, giờ ăn trưa và sau buổi làm. Có tận mắt thấy nó quỳ lạy mới cảm nhận được sự toàn tâm tòan ý như thế nào. Tháng Ramadan là tháng ăn chay của tín đồ hồi giáo, nó nhịn ăn từ trước khi mặt trời mọc cho đến sau khi mặt trời lăn, công việc dù có nhiều giờ hay nặng nhọc cách mấy nó vẫn nhịn ăn trong khoảng thời gian đó. Thằng Mauricio nói với Steven:

- Nếu tao theo đạo thằng Omamudho chắc tao chết mất! Tụt đường huyết chịu sao nổi? Không biết những người bị đau bao tử mà nhịn ăn kiểu này chắc lên thiên đàng sớm.

- Chắc những người bệnh có sự nới lỏng?

- Tao không nghĩ vậy! Giáo luật của tụi nó rất khắc nghiệt! Tháng ăn chay của những tín đồ thiên chúa như tao thì khác. Tụi tao chỉ cữ ăn thịt súc vật, ngoài ra tôm, cá, ốc, hến… chơi tuốt. Chúng ta có quyền thụ hưởng những gì chúa ban tăng.

Steven nói với thằng Mauricio:

- Phật tử tụi tao cũng khác, ăn chay là ăn thực vật, rau, củ , quả… Không ăn thịt bất cứ lọai động vật nào.

- Đó là giáo luật à?

- Không, chỉ là sự khuyến khích mà thôi. Đạo Phật khuyến khích ăn chay để nuôi dưỡng lòng từ, tôn trọng sự sống của muôn loài.

- Mầy không ăn thịt vì tình thương, vậy mày thử vào chuồng cọp trong sở thú thử nó có thương mầy chăng?

Cả bàn ăn cười rần rật, cười ngả nghiêng. Thằng Justin giơ hai ngón cái lên, thằng Jerome vỗ tay lốp bốp. Thằng Jessie la to:

- Đúng đấy! Mày thử vào chuồng cọp thử xem cọp có từ bi với mày hay không?

Steven chờ một tí cho lắng xuống rồi mới bảo:

- Vì tao là con người, cọp là động vật, người thì hành xử có tri giác, văn hóa, kiến thức và tâm linh. Cọp chỉ sống theo bản năng sinh tồn.

Thằng Mauricio lại hỏi:

- Tao nghe Phật giáo có ngồi thiền, vậy mày có thực tập chăng? Thiền để làm gì vậy?

- Đúng đấy! Thiền để tâm mình lắng xuống, mày cứ thử xem thì biết, một hồ nước nếu cứ quậy hoài thì sẽ đục, để lắng xuống thì nước mới trong, khi nước trong sẽ hiện được cảnh vật. Con người cũng thế, thiền là để tâm mình lắng xuống, từ đó mới có thể phát sanh sự hiểu biết khôn ngoan. Cái tâm mình quyết định tất cả, thăng hay đọa cũng từ tâm.

Thằng mauricio lắc đầu quầy quậy:

- Thật mơ hồ, tao không hiểu nổi, tao tin chúa tạo ra tất cả, thăng đọa gì cũng do chúa. Mầy cầu nguyện  và tin ở chúa thì khi chết sẽ  được lên thiên đàng, bằng không sẽ bị ném xuống hỏa ngục.

- Đạo Phật tao thì khác, tự mình chịu trách nhiệm những gì mình nghĩ, nói và làm; làm lành thì thăng làm ác thì đọa, không có ai có thể làm cho người khác thăng hay đọa được!

Thằng Mauricio là bạn thân của Steven, nó lai nửa trắng nửa đen, ngày nào vào chỗ làm cũng đùa giỡn rần rật. Nó mê hàng hiệu như điếu đổ, ăn mặc toàn đồ mắc tiền, nó có hàng trăm đôi giày, mỗi tuần thì đổi một kiểu tóc, cuối tuần đi hộp đêm. Nó thường nói với Steven:

- Mầy mặc toàn đồ rẻ tiền, người ta xem thường. Mầy phải ăn mặc sang trọng thì người ta mới nể!

- Tao chẳng cần ai nể, vả lại giá trị con người là ở nội tại chứ không phải ở quần áo bề ngoài.

- Mầy mặc đơn sơ, lại ăn chay, sống khắc khổ thế! Tội gì phải chịu vậy? Mầy làm vậy để được gì?

- Tao chẳng thấy khổ tí nào, thậm chí ngược lại nữa là khác, lúc nào cũng an lạc và hài lòng vì biết đủ. Tao sống vậy, làm vậy là hoàn toàn tự nhiên, chẳng có mục đích hay mong cầu gì.

Thằng Mauricio giơ hai tay lên kêu trời:

- Tao không hiểu nổi mày!

 

**

Sáng thứ bảy, Steven dẫn Mauricio tới quán cà phê Việt ở trong thị trấn, nó quất tô phở xong còn chơi thêm ổ bánh mì. Nó khen ngon nức nở rồi thắc mắc:

- Mầy ăn chay sao cho tao ăn phở và bánh mì thịt?

- Tao tùy thuận mọi người, với vợ con tao cũng thế thôi. Tao không có quyền và cũng không thể buộc người khác ăn chay theo. Ngay cả đức Phật cũng thế thôi! Ngài chỉ khuyến khích chứ không bắt buộc, trừ những người đã là tu sĩ thì khác.

Steven và Mauricio chơi thân đến độ có thể giỡn và chơi khăm nhau suốt ngày, có thể nói mọi chuyện từ gái gú, ăn mặc, thời sự cho đến những vấn đề gai góc dễ gây xích mích như: Tôn giáo, chính trị và giới tính, chẳng có gì để ngại, cái đáng ngại ấy là trình độ tiếng Anh ba rọi của Steven không đủ để hiểu hết lời, nói hết ý mà thôi. Trong những chuyện ấy, đôi khi cũng có những vấn đề tranh cãi, ai giữ ý người đó nhưng mọi ngày gặp nhau vẫn vui vẻ như chẳng có gì xảy ra. Steven bảo nó:

- Mày biết không? Con vật đánh nhau, cắn xé nhau vì tranh giành hang ổ, lãnh địa, miếng mồi và con cái để giao phối. Con người cũng thế, chẳng khác gì mấy, từ xưa đến giớ đánh nhau liên miên vì tranh đất đai lãnh thổ, đánh nhau để cướp của  cải tài sản, đánh nhau vì nhan sắc...Con người còn hơn con vật một bậc là đánh nhau vì danh tiếng, vì sự háo thắng, vì cái bản ngã của mình. Mày thấy đấy! Putin xua quân xâm lăng Ukraine cũng vì háo danh, y mơ làm đại đế, cướp đất lập đế quốc, y muốn Ukraine cũng như các nước nhỏ phải làm chư hầu. Quân lính của y tàn độc giết người, phá nhà, cướp của, hãm hiếp… Tham vọng cá nhân của y cộng với bản năng của quân binh đã đẩy Ukraine vào thảm họa, gây tang thương thống khổ ngất trời cho người Ukrainian. Mauricio, những người Phật tử như chúng tao nghe lời Phật dạy:” Không trực tiếp giết hay xúi người khác giết, không vui với sự giết” tuy nhiên với trường hợp những tên độc tài như Puitn thì tao thật sự mong cho y bị lật đổ hay ám sát chết đi.

Thằng Mauricio tán đồng:

- Tao cũng nghĩ vậy! Nếu y bị lật đổ hay bị giết chết thì cục diện chính trị sẽ thay đổi, có thể cuộc chiến phi nghĩa và tàn bạo này sẽ chấm dứt.

Trước khi cuộc chiến này nổ ra, Steven cũng đã nghĩ:”Giá mà có thế lực nào đó làm đảo chánh hoặc ám sát y thì có lẽ cuộc chiến sẽ không xảy ra”. Nguyên nhân sâu xa hay ân oán quả báo thế nào thì không biết , tuy nhiên nguyên nhân trực tiếp và gần nhất ấy chính là sự tham lam và hoang tưởng của Putin. Y thèm khát đất đai và mong tái lập lại đế quốc như thuở trước. Y độc tài, hiếu chiến và bản tánh tàn độc nên y bất chấp mọi lời can gián, cảnh báo trừng phạt của thế giới. Y xua quân tấn công Ukraine. Steven giật mình thoát ra khỏi phút giây tâm ý miên man khi nghe thằng Mauricio gọi:

- Steven, sao tự nhiên im lặng vậy? Đang nhập thiền hả?

Steven cười:

- Không! Tao đang để tâm ý chạy rông như ngựa hoang trên đồng cỏ, như khỉ chuyền cành trên rừng. Chính vì cái tâm mình vọng động như thế nên Phật mới dạy ngồi thiền. Thiền để ngăn chặn và hóa giải cái tâm viên ý mã đó, thiền để mình lắng xuống, để nhận biết sự thật, để sống chánh niệm.

 

**

 Thằng Mauricio cũng như những người Âu – Mỹ khác, nó chỉ biết đạo Phật chỉ có thiền chứ không biết đến những pháp môn khác. Hiện nay ở Âu – Mỹ cũng có nhiều người dạy thiền và đủ loại thiền, trong số ấy có khá nhiều loại thiền hoàn toàn không phải của Phật giáo, không giúp ích gì trong việc tĩnh tâm hay chánh kiến mà chỉ mang tính chất như yoga hoặc chỉ là liệu pháp tâm lý để chữa trị bệnh về mặt thân xác. Thằng Mauricio cười cười:

- Tao nghe thiền hay lắm nhưng chịu thôi, tao không thể ngồi thiền được!

- Thiền đâu chỉ ngồi, còn có nhiều tư thế oai nghi khác, ngồi chỉ là một trong nhiều cách tối ưu để thực tập. Nếu mầy giữ được tâm ý bình an, không loạn động, giảm ham muốn vật chất, giảm sự tham đắm hưởng thụ vật chất như: ăn ngon, mặc đẹp, sắc dục hay tánh háo danh… ấy chính là đang thực tập thiền vậy.

Thằng Mauricio nhấp một ngụm cà phê rồi cười:

- Thiền thế nào được? Khi mà cà phê khích thích tim tao đập mạnh như thế này!

Nhìn mặt nó, biết nó láu lỉnh cà khịa, Steven cùng cười xòa với nó.

 

CHẲNG PHẢI MUỐN THẾ

 

 Trời trở lạnh rồi, những ngày gần cuối năm thời gian hao hớt dần thì cái lạnh lại tăng lên. Lá vàng không còn lác đác như đầu mùa mà giờ từng đám, từng vạt đổ ào ạt, trên mặt đất dường như phủ kín bởi sắc màu lá. Những chiếc lá đủ màu sắc rực rỡ làm cho trời đất như mênh mông hơn. Lá rơi càng nhiều thì ánh sáng mặt trời càng soi sáng hơn, cả những ngóc ngách hay những vùng vốn âm u bởi cây cối

 Những con cuốn chiếu cuộn mình tròn vo như hạt cây nằm trong hóc, trong kẽ ngách của mặt đất. Côn trùng cũng ẩn mình im bặt hết hoặc đã chết rồi, tuy nhiên trước khi chết chúng kịp đẻ trứng và ấu trùng để lưu giống mùa sau, đây là điều kỳ diệu của thiên nhiên, sự sanh diệt liên lỉ không bao giờ dứt, cái sống và chết hiện diện ở thế gian này. Côn trùng chết đi nhưng trứng và ấu trùng sẽ sanh trưởng trở lại khi trời ấm lúc mùa sang.

 Từ trên không trung, bầy vịt trời kêu ông ổng, chúng gọi bầy bay về phương nam tránh rét. Chúng bay theo đội hình rất chỉnh tề và gần như bất di bất dịch, luôn luôn theo hình chữ V. Những nhà khoa học giải thích rằng:” Đội hình chữ V giúp chúng tiết kiệm sức lực vì tiếp thêm cộng lực từ những cú đập cánh của đồng loại”, lý thuyết là thế, đúng sai thì cũng chẳng thế nào biết, nếu bọn vịt trời hiểu tiếng người e chúng cười khẩy cái thuyết loài người về cách bay của chúng.

 Chẳng mấy chốc là trời sang đông, tuyết bắt đầu rơi, những bông tuyết đầu mùa bay bay trong hư không rất đẹp, rất nên thơ. Những bầy chim di cư muộn màng cuối cùng rồi cũng đồng loạt bay về phương nam. Trời càng ngày càng lạnh dần thêm, tuyết ngày một nhiều hơn, có hôm tuyết đổ suốt đêm, sáng ra mặt đất trắng tinh khôi như một khung trời mới lạ vừa xuất hiện, cũng có khi cứ ngỡ mây trắng từ trên cao phủ mặt đất này. Họ nhà chim cũng có những loài không sợ rét bao giờ, tiêu biểu như bọn chim cardinal (chim hồng y). Chúng bất chấp giá rét, tuyết băng trắng càng làm nổi bật sắc lông của chúng, cái màu lông đỏ pha cam và viền đen quanh đầu. Những con chim cardinal nhảy tí tách trên cành tìm những trái cây dại còn sót, chúng cũng xúm lại quanh những cái lồng treo thức ăn mà con người biếu tặng chúng.

 Cô bé Jessica đứng ngắm những con chim cardinal không chớp mắt, khuôn mặt thanh tú đẹp như hoa áp sát cửa sổ kiếng, hơi nóng từ lò sưởi tỏa ra làm cho hai má cô bẻ đỏ hồng lên. Jessica thì thầm:

- Hey cardinal, các cậu có lạnh không? Các cậu đi chân trần trên tuyết thật là tài. Tớ không thể nào làm thế được. Tớ ra ngoài là phải mặc áo thật dày, quấn khăn, mang ủng...nếu không thì cảm lạnh chết mất thôi!

 Những con chim cardinal có nghe gì không mà bọn nó ngừng lanh chanh chuyền cành, nghiêng nghiêng cái đầu nhìn vào khung cửa kiếng, đôi mắt tròn xoe, đen lay láy như hạt tiêu, thỉnh thoảng lại ngúc ngoắc cái đầu… Jessica lại nói với chúng:

- Tuyết phủ khắp nơi, không còn côn trùng và bông cỏ , vậy các cậu có đói bụng không? Hãy lại chỗ lồng treo đấy, ba tớ có để các loại hạt khoái khẩu cho các cậu, nào là: hạt hướng dương, hạt kê, lúa mì, bắp…

 Nói xong cô bé lấy bàn tay bé xíu xinh xinh xoa lớp hơi nước đọng trên mặt kiếng và ngón tay chỉ về hướng lồng treo thức ăn cho chim. Cả bọn dường như không nghe thấy, chúng vẫn thoăn thoắt trên cành, chợt có một con Cardinal trông to hơn đồng bọn bay tới, nó cọ cọ cái mỏ với một con chim mái, chúng kêu líu ríu rồi vỗ cánh bay làm cho những bông tuyết từ cành cây đổ xuống. Jessica lo lắng:

- Ba ơi, những con chim đẹp quá, chúng ở ngoài trời lạnh như thế, liệu chúng có sống nổi không?

 Ba cô bé ngưng đọc sách, quay nhìn với ánh mắt trìu mến:

-Không sao đâu con, Bọn cardinal quen với cái lạnh rồi, chúng là cư dân xứ lạnh, tổ tiên và họ hàng chúng sống ở đây đã bao đời rồi.

- Mình ra chơi tuyết đi ba

- Ừ, con mặc thêm áo ấm vào, đội mũ che kín tai và mang găng tay nhé!

 Hai cha con ào ra sân, tuyết phủ trắng cả mặt đất không còn nhận ra đâu là đường đi, đâu là sân nhà, bờ bụi lùm cây cũng mất hút dưới lớp tuyết, cảnh vật đẹp vô cùng, màu trắng tinh khiết như tấm áo choàng phủ lấy mặt đất. Nhìn xa xa tất cả chỉ còn một màu trắng xóa mênh mông. Mặt đất như trở về thời nguyên sơ nào đấy, cảnh tượng như một cảnh giới nào đó chứ chẳng phải ở thế gian này. Bầy chim cardinal thấy bóng người vội vụt bay, bay lòng vòng rồi lại đậu xuống chỗ cũ. Jessica nhìn chúng và bảo:

- Các cậu đừng sợ, tớ không làm hại các cậu đâu, tớ chỉ đắp người tuyết thôi!

 Cô bé nắm dài trên tuyết, quạt hai tay và hai chân tạo tành một vòng tròn trên tuyết. Hai cha con vo tuyết thành ba khối tròn, hai khối to thì làm thân, khối nhỏ hơn làm đầu người tuyết. Jessica tháo khăn quàng của mình quàng vào cổ người tuyết. Người tuyết của Jessica tuy không sắc sảo như trên bưu thiếp hay phim ảnh nhưng người tuyết này sống động như thật.Cái miệng vành trăng khuyết cười toe toét, cái mũi bằng củ cà rốt và cặp mắt là hai trái chanh. Người tuyết đứng trước sân nhà nhìn đất trời cho đến khi tuyết tan.

 Jessica ngửa nhìn bầu trời, một con đại bàng chao liệng thành những vòng tròn trên không trung, đôi cánh soải rộng dường như không vỗ, ấy vậy mà nó không rơi xuống mới thật lạ kỳ. Đại bàng lượn những vòn tròn khi thì rộng ra khi thì khép dần lại. Cô bé kêu to:

- Ba, nhìn kìa! Con đại bàng bay trên trời cũng không di cư tránh rét. Con không thích nó, nó chuyên bắt nạt và ăn thịt những con thỏ, groundhog và con sóc.

 Ba của Jessica nãy giờ quan sát những vòng chao lượn của đại bàng, nghe con gái kêu, anh quay lại:

- Đại bàng không sợ rét, nó là vua của loài chim, nó ăn thịt những con thú nhỏ hơn là vì đói, vì sự sống còn mà thôi!

- Thế sao nó không ăn bông cỏ, hạt cây, trái cây như những loài chim khác?

- Không thể được con ơi! Không phải nó muốn ăn thịt, chẳng phải nó muốn làm thế, mà đó là tự nhiên thế thôi!

- Tại sao nó bay cao tít trên trời mà không chịu đậu xuống bờ rào như bọn cardinal?

- Đại bàng không ăn hạt cây, bông cỏ, không đậu bờ rào như chim sẻ, chim cardinal. Đơn giản nó là đại bàng chứ không phải là sẻ hay cardinal. Chẳng phải nó muốn làm thế, nhưng vì nó là đại bàng nên nó phải bay cao. Tổ tiên nhà nó đã từng vậy, giờ nó cũng thế. Bọn chin sẻ, cardinal kia cũng không ăn thịt, không bay cao mà chỉ đậu bờ rào, chỉ vì bọn chúng không phải là đại bàng.

 Con bé không thắc mắc gì nữa, mãi chạy loanh quanh chơi tuyết. Bầu trời xanh thẳm, mùa hạ cũng trong xanh nhưng bây giờ thì còn thăm thẳm hơn, cái màu xanh như thông đến tận cùng vũ trụ. Mặt đất trắng, màu trắng tinh khiết mở rộng ra khắp mười phương. Khi tuyết đã phủ kín mặt đất thì không còn giới tuyến, biên giới, lằn ranh nào nữa, tất cả xóa nhòa và liên kết thành một màn trắng bất tận. Trời xanh bao la, đất rộng mênh mông, sơn hà đại địa trường cửu tháng năm, đời người hạn hữu trong vòng trăm năm. Thế mà cái tham của con người ghê gớm và mê muội biết bao. Con người tranh giành mưu chiếm đoạt cả đất trời, đem cái hữu hạn nhỏ nhoi để chiếm hữu cái vô hạn độ quả tthật không còn gì vô minh hơn, cái vô minh cũng vô hạn độ như vũ trụ này. Có những kẻ độc tài nắm quyền lực trong tay muốn biến đồng loại thành gà vịt và thế giới này thành chuồng trại, nói sao hết được mức độ tàn bạo, hôn ám của kẻ cường quyền, cũng chẳng làm sao nói hết nỗi thống khổ đau đớn của những nạn nhân dưới dự cai trị độc tài. Những kẻ độc tài thường tự sánh mình là rồng, hổ, đại bàng… ý muốn tỏ cái khí độ hơn người, tiếc thay rồng hay đại bàng đâu có cái tâm tham lam muốn chiếm đoạt sở hữu như thế. Cái oai phong uy lực của đại bàng vốn tự nhiên là thế, chẳng phải nó muốn thế hay làm màu như thế. Những con đại bàng ở sườn non, đỉnh núi, ngọn cây… chúng làm tổ trên vách đá cheo leo hoặc những cành cao không có bất cứ loài thú nào hay con người có thể mon men tới được. Đại bàng không ăn bông cỏ, hạt cây hay thực phẩm nhân tạo của con người. Đại bàng tự do bay lượn phóng khoáng giữa đất trời chứ chẳng phải vui với cái lồng sơn son thếp vàng, càng xa lạ với sợi xích vàng, coi khinh chuồng trại mà lũ gà vịt tranh nhau chui vào. Đại bàng tự do chao lượng trên thinh không, cái tự do tuyệt vời mà bao kẻ hằng mơ, tuy rằng cái tự do ấy vẫn còn hạn hữu bởi kiếp sống loài chim, bởi phúc phần nhân qủa chỉ bấy nhiêu đó thôi!

 Dòng tư tưởng miên man chợt bị cắt ngang khi cô bé cất tiếng hỏi:

- Sao những con chim cardinal không bay lên trời cao như đại bàng hở ba?

- Cardinal không thể bay cao chao lượn như đại bàng được! Bọn chúng không thể làm điều cái điều mà đại bàng làm. Đại bàng cũng không thể đậu ở rào dậu, ăn bông cỏ như cardinal, chẳng phải chúng muốn thế mà tự nhiên sinh ra đã là thế!

- Những con chim cardinal không bay di trú, thế chúng có phải hùng dũng như đại bàng không vậy ba?

- Không, không phải hùng dũng như đại bàng, chẳng qua là thói quen tập quán của chúng vậy thôi!

 Dường như chơi đã thỏa thích, cô bé kêu gọi:

- Vô nhà thôi ba ơi! Lanh quá rồi, hai bàn tay con đỏ cóng.

 Cô bé kéo tay ba đi vô nhà, lên thềm bậc cấp còn quay lại chào những chú cardinal trên cành cây trước hiên nhà:

- Tớ vào nhà đây, tớ không thể sống ngoài trời tuyết như các cậu được, các cậu vui chơi tuyết khi nào đói thì hãy đến cái lồng treo thức ăn nhé! Ở đấy ba tớ có đủ bông cỏ và các loại hạt cho các cậu.

Những con chim cardinal có nghe lời cô bé hay không mà sao cứ lích rích trên cành, nhảy lách tách trên tuyết, chúng bới những chỗ còn có cộng cỏ ló trên mặt tuyết để tìm thức ăn. Con đại bàng vẫn không ngừng chao lượn trên bầu trời, không biết nó đã vẽ bao  nhiêu vòng tròn vô hình trong hư không, từ trên cao xanh ấy, mắt nó theo dõi tất cả những cử động dù là nhỏ nhất của bọn thỏ, sóc, groundhog trên mặt đất.

 Bên trong ngôi nhà thật ấm cúng, dù là ngôi nhà cũ kỹ và rất nhỏ, bếp sưởi với ngọn lửa giả và khúc củi giả tí tách âm thanh giả, tất cả đều bằng kim loại và điện, bởi vậy không có mùi gỗ thông, không có khói mụi và dĩ nhiên cũng không cần ống khói và cả ông thợ nạo ống khói với mặt mày lem luốc. Tuy đồ giả nhưng hơi ấm vẫn tuyệt vời làm sao. Jessica nằm trên thảm trước lò sưởi hỏi:

- Nhà mình không có ống khói, vậy làm sao ông già Noel vào được? Cả cỗ xe trượt tuyết và những con tuần lộc sẽ vào bằng lối nào?

- Con đừng lo lắng, ông già Noel biết cách vào.

- Ông gìa Noel to thế, làm sao chui lọt ống khói được?

- Thế mà ông ấy chui lọt mới tài chứ! Ba thấy con còn giỏi hơn, ông già Noel với cỗ xe tuần lộc và cái bao đỏ chứa quà to thế, vậy mà có được trong cái đầu be bé xinh xinh của con.

 Con bé cười nắc nẻ, tiếng cười của con trẻ sao mà trong trẻo, thơ ngây và thánh thiện đến như thế. Tiếng cười làm vui nhộn cả gian phòng. Con bé nói mà không dứt tiếng cười:

- Ông già Noel làm sao mà ở trong đầu của con được?

- Thế sao ông ấy biết món quà con thích để mà bỏ vào chiếc ủng treo ở đầu giường?

- Con hổng biết.

 Hai cha con đối đáp một cách trìu mến và vui vẻ trước lò sưởi bên bậu cửa, một con sóc nâu nhảy lên cửa sổ, mắt láo liêng nhìn qua lớp kiếng. Jessica nhào tới gõ nhè nhẹ lên kiếng:

- Này, cậu phá phách lắm đấy nhé! bao nhiêu món đồ chơi tớ để trên bậu cửa bị cậu và các bạn cậu làm đổ cả. Các cậu còn đào bới làm hư nát mấy luống hoa ba tớ trồng. Tớ thích các cậu mà các cậu làm cho tớ bực mình.

 Con sóc nâu dáo dác đôi mắt, miệng nhóp nhép măm măm liên hồi, hai chân trước máy máy không ngừng nghỉ. Nó không sợ Jessica, nó cứ nhìn cô bé nói mà không hề tỏ ra sợ sệt,  có lẽ bản năng sinh tồn cho nó biết không có gì nguy hiểm. Jessica nhìn nó, lại gõ gõ vào lớp kiếng:

- Cậu coi chừng đấy! Đại bàng đang chao lượn trên cao, nó thấy cậu là cậu tiêu đời. Rồi còn bọn mèo hoang nữa kìa, chúng nó là những tên trộm vặt và lười biếng, chúng nó cũng nguy hiểm cho cậu đấy!

Con bé Jessica nói chuyện với sóc nâu một lát, sóc nâu nhảy phóc đi và chui tọt vào bộng cây trước hiên nhà. Jessica dường như chơi đã thỏa thích và thấm mệt nên lăn ra ngủ thiếp bên cạnh lò sưởi.   Ngoài khung cửa những bông tuyết bay phất phơ trắng xóa, trong giấc mơ Jessica thấy hai mẹ con nữ thần Demeter và Persephone”*” Mỗi khi Perserphone về âm phủ với Hades thì mặt đất trở nên đìu hiu ảm đạm, băng giá suốt sáu tháng mùa đông, ngoài đồng không còn một cộng cỏ bông hoa nào. Bởi vì lúc bấy giờ nữ thần Demeter thương nhớ con gái nên chểnh mảng trách vụ của mình. Sáu tháng sau đó, khi nữ thần Peserphone lại trở về dương gian, bấy giờ nắng vàng trời xanh, cây lá biếc, hoa cỏ tươi nhuận, mùa màng bội thu. Hai mẹ con nữ thần Demeter và Pesephone mang lại sự lụi tàn, ảm đạm thê lương và cả chết chóc nhưng cũng là hiện thân cửa sự sống, sự sung túc, sự sanh sôi nảy nở, sự tăng trưởng hoan ca… Sanh và diệt vốn chỉ là một nhưng lại hóa hai, những tưởng là hai nhưng thật sự vẫn là một, cứ như thế hai mẹ con nữ thần đến và đi với thế gian này.

 

p.s.“*” Thần thoại Hy Lạp: Nữ thần Persephone là con gái của Demeter và Zeus. Zeus đem con gái gả cho thần Hades mà không cho Demeter biết. Con gái về âm phủ, bà buồn bã làm cho mùa màng tiêu điều, băng gía khắp nơi. Zeus phải ra lệnh Hades để Persephone về lại với mẹ, ngặt nỗi Persephone đã ăn ở dưới âm phủ, vì thế nàng chỉ có thể về dương gian sáu tháng mà thôi. Từ đó mỗi khi nàng về dương gian thì sự sống hồi sinh, mùa màng tăng trưởng, còn sáu tháng nàng về âm phủ thì trần gian vào mùa lạnh lẽo tàn đông

 

CHẲNG PHẢI SƯỚNG SAO

 

Kim Thánh Thán là một văn nhân nổi tiếng vào cuối đời Minh đầu đời Thanh, trong gia tài văn chương của ông có một bài tản văn nổi tiếng mà người yêu thích văn chươgn xưa nay đều biết. Bài ấy viết về ba mươi ba cái sướng, liệt kê những việc rất quen thuộc của đời thường, những việc thậm chí tưởng như như rất tầm thường nhưng lại bất ngờ đem đến sự vui sướng hạnh phúc. Chúng ta vì bận bịu trong cuộc mưu sinh, vì mưu cầu những cái gì cao xa, đeo đuổi những việc lớn mà quên đi cái hạnh phúc thực tại “ Bây giờ và tại đây”. Trong những việc ông liệt kê có một việc như sau:

“ Nhà có món đồ cổ sứt bể không sao hàn gắn được, để thì thấy tiếc nhưng bực vì chẳng đượcc việc gì, bèn giao cho nhà bếp đựng mắn muối, thế chẳng phải sướng sao?”

Sướng, sướng thật đấy! Nhẹ cả người, món đồ cổ tuy có quý nhưng sứt mẻ rồi, cất giữ ngày đêm lâu nay đã mệt, giờ hư hỏng nhìn thì tiếc, giữ lại chẳng được gì, mỗi lần nhìn thấy lại thêm khó chịu trong lòng. Giao quách cho nhà bếp đựng mắn muối, hóa ra món đồ sứt mẻ cũng còn hữu dụng, đã thế dứt đi cái lòng tiếc bấy lâu nay, thật sướng làm sao.

Sự việc là thế, có thể hiểu và lý luận  nhiều kiểu nhưng theo cái nhìn Phật học thì đây chính là sự buông xả, buông bỏ, buông xuống ( let it go, let it down). Mọi người chúng ta ai ai cũng có một món “ Đồ cổ”đeo nặng trong tâm, giữ thì chẳng được việc gì mà bỏ thì tiếc, thật sự thì không phải chỉ một món “ Đồ cổ” như ông Kim đâu. Trong tâm chúng ta có rất nhiều món “Đồ cổ sứt bể” vô dụng lắm!  Thôi thì học theo họ Kim, đem cái vật ấy giao cho nhà bếp đựng mắm muối, chẳng còn lo hay tính toán quý hay tiện, sang hay hèn, cao hay thấp mà chi! Người đời chỉ vì cái “Vật cổ” vô lý ấy mà khổ, ngày nay mình học Phật, cứ bắt chước ông Kim làm một phát thử xem sao:

- Mặc kệ tông môn, pháp phái, truyền thừa, đàm luận, học thuyết đúng sai… Ta cứ một việc niệm Phật, há chẳng sướng sao?

- Mặc kệ sự bài bác, chê bai cao thấp, không phải chánh pháp… ta cứ nhất tâm niệm Phật, há chẳng sướng sao?

- Mặc kê sự phân tích, chia chẻ, triết thuyết… Ta cứ hết lòng niệm Phật, há chẳng sướng sao?

- Mặc kệ nam truyền, bắc truyền, tạng truyền… ta dốc chí niệm Phật, há chẳng sướng sao?

- Mậc kệ thiền, tịnh, tạng, thông, biêt, viên… ta chỉ biết niệm Phật, há chẳng sướng sao?

- Mặc kệ sắc với không, hữu với phi, tánh không bát nhã...Ta chỉ trụ vào câu Phật hiệu, há chẳng sướng sao?

- Mặc kệ thanh trần hay thanh tịnh, tịnh hay uế âm… Ta chỉ niệm và nghe Phật hiệu, há chẳng sướng sao?

- Mặc kệ cho hương phàm hay hương thánh, hương như ý hay bất như ý… Ta chỉ trụ vào danh hiệu Phật, há chẳng sướng sao?

- Mặc cho vị đời hay vị xuất thế, vị ngọt bùi hay vị đắng cay… Ta chỉ trụ vào câu phật hiệu, há chẳng sướng sao?

- Mặc cho xúc chạm thân với tâm, xúc thích hay xúc bất như ý… Ta vẫn trụ vào câu Phật hiệu, há chẳng sướng sao?

- Mặc cho pháp trần vây lấy, pháp sanh diệt diễn ra… Ta chỉ trụ vào hồng danh Phật, há chẳng sướng sao?

- Mặc cho tài tác oai tác quái, điều khiển người thế gian… Ta quay về niệm Phật, há chẳng sướng sao?

- Mặc cho sắc dục lẫy lừng, sắc mê hoặc thế gian….Ta quay vào niệm Phật, há chẳng sướn g sao?

- Mặc cho danh thơm ca tụng, danh xấu ố chê bai, danh cao vọng cái tôi… Ta chỉ có hồng danh Phật, há chẳng sướng sao?

- Mặc cho thực lôi cuốn, ăn uống làm đầu, miếng ngon đầu lưỡi…. Ta chỉ dùng miệng lưỡi niệm Phật, há chẳng sướng sao?

- Mặc cho thùy miên theo thói thường hay quá độ… Ta chỉ chú tâm vào Phật hiệu, há chẳng sướng sao?

- Mặc cho đời thị phi bất tận, hắc bạch bất phân… Ta cứ một lòng trụ trong hiệu Phật, há chẳng sướng sao?

- Mặc cho đông tây cách biệt, bắc nam bất đồng, cao thấp tương tranh…. Ta chỉ bình đẳng trong danh hiệu Phật, há chẳng sướng sao?

Là phật tử chắc mọi người ai cũng biết đến câu kinh nổi tiếng trong Kim Cang:” Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”. Hàng Phật tử sơ cơ như chúng ta chưa thể, chưa làm được, thậm chí làm không nổi việc:” Ưng vô sở trụ” đâu!  Biết thì biết trên mặt văn tự, chữ nghĩa thế thôi, nhìn vào thực tế đời sống là biết ngay, hễ mất tí tiền, thua thiệt một chút vật chất là lập tức lồng lộn tranh đấu cho bằng hoặc cho hơn, ấy là tâm trụ vào vật chất chứ đâu có “ Vô sở trụ”. Hễ được khen một lời thì sướng rần rật, còn khi bị chê bai hay phê bình thì giận cành hông, tìm cách trả đũa, thanh minh, thậm chí ôm hận... rõ ràng tâm trụ vào danh chứ đâu có “ Vô sở trụ”. Sắc thì càng tệ hơn nữa, thấy sắc là bập vào ngay, tham luyến đắm đuối và không bao giờ thõa mãn, chính sắc dục và tham ái sắc dục là nhiên liệu bất tận của tái sanh luân hồi, sáu căn chấp chặt sáu trần là đầu mối của luân hồi, rõ ràng tâm trụ vào sắc chứ đâu có “ Vô sở trụ”. Ăn uống càng không phải nói nữa, phần lớn ai cũng tham ăn, muốn ăn ngon, ăn nhiều, ăn sang, ăn bổ dưỡng cho chí cường dương, chỉ vì chút ngon đầu lưỡi mà gây nên sự thống khổ và chết thảm của vạn vật muôn loài, kể cả côn trùng cũng ăn nốt. Ngủ nghỉ và chơi bời thì thế gian này hiếm có người bỏ qua được. Tóm lại cái tâm chúng ta trụ vào ngũ dục lục trần chứ làm gì có “ Vô sở trụ”. Mình là hạng sơ cơ mà nói chuyện “ Ưng vô sở trụ”thì chỉ là chót lưỡi đầu môi, là con vẹt dối người và dối cả chính mình.

Ngũ dục, lục trần chấp chặt, dính mắc, đắm sâu. Sáu căn chỉ thích những gì vừa ý và ghét những gì không vừa ý. Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý cứ trụ vào sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp theo cảm tính, theo thói quen, theo tập quán chứ không hề nhận biết bản chất thật của sáu trần.

“Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” là việc của các bậc thượng thừa, hành giả tinh chuyên, các vị hòa thượng, cao tăng, đại đức… Hàng Phật tử sơ cơ như chúng ta thì vốn trụ ở ngũ dục lúc trần, giờ học đạo, hiểu đạo thì tập tành để giảm bớt sự lệ thuộc vào ngũ dục và lục trần bằng cách rút nhè nhẹ, rút từng tí một để chuyển cái tâm mình trụ vào Phật hiệu, trụ vào hồng danh Phật. Đây là cách làm tương đối dễ dàng, nhẹ nhàng, vững vàng và an toàn. Ngày xưa trụ vào ngũ dục lúc trần, giờ từng bước trụ vào câu Phật hiệu, trụ sâu hay cạn tùy thuộc vào khả năng của mỗi người. Trụ vào Phật hiệu có thể áp dụng cho tất cả mọi người,  mọi giới, thực hành được ở mọi nơi, mọi thời… thế thì niệm Phật há chẳng phải sướng sao!

 

 

HỌ NHÀ NẾN

 

Bóng tối mịt mùng bao phủ không gian, bên trong căn phòng lung linh ánh sáng từ ngọn nến tỏa ra, cái viền vàng hình lưỡi mác bọc lấy tim nến đỏ, ánh sáng phá vỡ màn đêm đen kịt ấy. Ngọn lửa nến âm thầm tỏa sáng, càng sáng bao nhiêu thì thân nến lại hao mòn bấy nhiêu. Những giọt lệ nóng hổi chảy dọc thân nến, đọng lại thành những mảng sáp hồng dưới chân. Đêm càng về khuya, thân nến giờ chỉ còn một phần ngắn, nến biết rằng chẳng mấy chốc nữa thôi nó sẽ lụi tàn, thân hoại mạng chung nhưng nến không hề sợ sệt hay hối tiếc. Nến sinh ra là để cháy sáng, có cháy sáng thì đời nến mới có ý nghĩa và đó cũng là lý do để xuất hiện trên cõi đời này, bằng như nến cứ giữ nguyên vẹn thì có khác gì đá cuội vô tri. Khởi thủy từ đời cụ tổ họ nhà nến đã vậy rồi, cứ thế từng đời, từng đời truyền thừa cho đến hôm nay. Công lao của họ nhà nến xưa giờ bút mực nào kể đủ?

Ngày xưa, khi loài người chưa có xăng dầu, ga hay điện. Loài người sống trong sự tối tăm mù mịt của đêm trường. Họ nhà nến xuất hiện và đã đi tiên phong trong việc khai sáng, đem lại văn minh cho loài người. Họ nhà nến lung linh trong suốt những đêm trường từ cổ đại đến trung đại và cả một phần của thời hiện đại. Nến đã giúp người viết sách, đọc sách và làm bao nhiêu việc trên đời. Họ nhà nến tận hiến cúng dường trên bàn thờ Phật, bàn thờ gia tiên. Họ nhà nến đỏ hoe lệ đổ trên đầu áo quan tiễn người về cõi vĩnh hằng. Họ nhà nến lập lòe hoa chúc trong đêm động phòng của những đôi trẻ thành thân. Cái vòng sanh tử khép kín của đời người, nến có mặt từ sanh đến tử, từ tử đến sanh. Nến có mặt để chúc mừng và cũng có mặt ở lúc tiễn đưa.

Căn phòng lặng lẽ tịch mặt, cảnh vật im lìm, thỉnh thoảng tiếng tí tách từ ngọn lửa nến vọng rất khẽ. Ngọn nến hồng trụ giữa màn đêm như một dũng sĩ giác đấu, ánh sáng của nến đẩy lùi lớp lớp vô minh. Thân nến giờ ngắn lắm rồi, chỉ không đầy canh giờ nữa thôi, nến biết đời nó sắp xong, nói lời văn vẻ một chút thì sứ mệnh của nến sắp hoàn mãn rồi. Đời nến sắp đến phút giây chung cuộc, ngọn nến hồng thì thầm với cây nến trẻ được loài người tạo dáng với hình một tiểu thiên thần:

- Ta sẽ mãn phần trong canh giờ này, ta đã cháy hết mình, đã sống một cuộc đời hữu ích mà không phí một phút giây nào. Khi ta tan vào hư không thì chú em hãy thay ta tiếp tục sứ mệnh của họ nhà nến.

Cây nến trẻ ngập ngừng:

- Tôi không muốn hao mòn xác thân, tôi không muốn cháy sáng để rồi tàn lụi như các vị. Tôi mặc kệ bọn người, bọn họ muốn ánh sáng thì tự mà cháy lấy! Thân thể của tôi đẹp tuyệt như thế này, lẽ nào đem đốt cháy đi? Tại sao tôi phải làm cái việc chẳng có lợi gì cho tôi?

- Ai rồi cũng phải chết, xác thân nào cũng phải tan hoại. Nhỏ nhiệm như phù du vi sinh, lớn như sơn hà đại địa rồi cũng phải tan hoại, vì đây là cõi vô thường. Chú em bây giờ còn trẻ đẹp nhưng rồi cũng sẽ đến lúc hoaị đi. Chú em không chịu cháy lên, không chịu làm cái việc cần phải làm chú em vẫn cứ bị hoại như thường. Sứ mệnh họ nhà nến là cháy sáng, có cháy sáng thì đời nến chúng ta mới có ý nghĩa, bằng không thì chỉ là cục sáp vô tri.

- Thưa cụ, đành rằng là vậy, nhưng cứ để những cây nến khác làm nhiệm vụ này. Tôi chỉ muốn nằm ở trên kệ này mà thôi. Tôi mặc kệ loài người và cũng chẳng quan têm đến cái sứ mệnh nghiệt ngã đó. Tôi được cậu chủ cưng như một món đồ quý, thỉnh thoảng cậu chủ nâng niu và ngửi rồi khen thơm quá. Tôi cũng biết họ nhà nến sinh ra là để cháy sáng nhưng cứ xem như tôi là một ngoại lệ đặc biệt chỉ để chưng, chỉ để người đời như cậu chủ ngắm nghía là cũng vui rồi.

- Có sanh thì ắt có tử, tử để rồi sanh, nếu chú em không cháy sáng thì đời chú em chẳng có ý nghĩa gì và cũng chẳng lợi lộc gì cho đời. Sẽ có một lúc nào đó cậu chủ dọn dẹp sẽ đem vất những thứ cũ kỹ, cũng có thể chú em sẽ bị tiêu hao vì vô số lý do như: chuột gặm, nóng chảy, vật nặng đè bẹp…Nếu đời chú bị diệt vì những lý do này thì vô nghĩa quá, lúc đó chú em có hối hận thì cũng muộn rồi!

Ngọn lửa leo lét sắp tàn, thân nến chỉ còn chừng một lóng tay em bé, nói đến đây thì lặng lẽ trầm ngâm. Cây nến thiên thần trẻ cũng im lặng ra vẻ đăm chiêu. Thời gian như ngưng đọng lại, không gian xung quanh ngoài vùng sáng của nến đặc quánh vì màn đêm, chỉ có vừng sáng quanh ngọn nến vô cùng ảo diệu như một vùng cổ tích hiển hiện ở thế gian này. Ở bên gian phòng thờ, lọ nến thơm trước tôn tượng Thế Tôn vẫn ngày đêm tỏa sáng và tỏa hương. Lọ nến cũng chỉ còn phân nửa, cậu chủ thỉnh thoảng đến cắt bớt tim để ngọn lửa không phụt cao. Lọ nến vô cùng hoan hỷ và cung kính cúng dường Thế Tôn, cúng dường chư Phật, chư Bồ Tát, chư hiền thánh ba đời mười phương. Lọ nến nghe trọn cuộc đối đáp của cụ nến và cây nến trẻ bèn cất lời từ tốn:

- Cậu em tuy giờ trẻ đẹp nhưng cái đẹp phù du huyễn hoặc. Cậu em thử nghĩ xem thế gian này có gì là thật đâu, tất cả chỉ là duyên hợp mà thành. Họ nhà nến chúng ta cũng thế, chỉ đơn giản là những nguyên tử paraffin hợp lại, mà đã hợp thì sẽ tan. Cậu em trẻ đẹp nhưng cái xác thân không thật thì cái đẹp thật được sao? Cái đẹp thật và có ý nghĩa chính là ở sự cháy lên, dù cháy lên ở đâu và với mục đích gì. Sứ mệnh chúng ta phải cháy lên, cháy đến phút giây cuối cùng, có như thế chúng ta mới hãnh diện là họ nhà nến.

Cây nến trẻ vẫn khăng khăng:

- Tôi còn trẻ, tôi phải sống để hưởng thụ. Sứ mệnh gì đấy tôi không quan tâm, mai kia gìa hẵng hay.

Lọ nến thơm trên bàn thờ Phật không nói gì thêm, lặng lẽ tỏa ánh sáng dìu dịu, ngọn lửa liu riu dường như chiêm ngưỡng tôn tượng Thế Tôn đang thiền định, mùi hương Vanilla tỏa nhè nhẹ khắp nhà. Đây là cái mùi thơm mà cậu chủ rất thích. Lọ nến này là sự tiếp nối, trước đó đã từng có những lọ nến thơm mùi cam, chanh, kim ngân, caramel, pineapple, hyacinth… Hiện trên kệ cũng còn rất nhiều những lọ nến khác đang sẵn sàng tiếp nối khi lọ nến vanilla kết thúc. Cậu chủ rất yêu thích nến, đi đâu cũng để tâm sưu tầm nến đem về nhà. Cây nến hình thiên thần trẻ kia cũng chỉ là một trong nhiều loại nến ở trên kệ. Sở dĩ cây nến ấy còn tồn tại là vì có dáng đẹp nên cậu chủ ưu ái để dành lâu hơn, có lẽ cũng vì thế mà cây nến trẻ ấy sanh tâm ngã mạn cống cao, tự phụ cho mình hơn đồng loại, một sự kiêu hãnh đầy vô minh. Cây nến trẻ liếc quanh căn phòng, không chỉ trên kệ này mà còn nhiều chỗ khác nữa, họ nhà nến có mặt rất nhiều. Những lọ nến thơm to nhỏ đủ kiểu cách và màu sắc, những thương hiệu nến từ bình dân đến quý tộc cũng góp đủ mặt, những loại sáp với sắc màu khác nhau tương ưng với mùi thơm mà lọ nến ngậm hương. Rồi lại có những loại nến được đúc khuôn với muôn hình vạn trạng từ hình hoa quả, chim muông, động vật cho đến cả hình dáng của thiên thần trông vô cùng đẹp và sinh động. Họ nhà nến ở trong căn nhà này vốn có xuất xứ từ khắp các quốc trên thế giới, bọn họ sum họp ở đây để chờ ngày tiếp nối cháy sáng. Cây nến trẻ vừa thấy thích thú nhìn họ hàng đông đúc vừa tự phụ cao hơn đồng loại. Cậu chủ thì khỏi phải nói rồi, cậu mê những cây nến này, nâng niu như vật quý. Có đôi khi cây nến trẻ nghĩ thầm;”Những loại nến với hình thù đẹp như vậy, nỡ nào đem thắp sáng để rồi tiêu tan mất, uổng cả cái thân đẹp như thế này!” cây nến trẻ chỉ nghĩ thầm thế thôi chứ chẳng nói ra lời. Nào ngờ cây nến thơm hình trái thơm cười khúc khích, dường như nó có tha tâm thông nên đọc được ý nghĩ nội tâm của Chú nến trẻ kia:

- Chú em lầm rồi, không hề uổng phí tí nào, thậm chí còn ngược lại nữa là khác, có cháy sáng mới là sống, có cháy sáng thì đời ta mới có ý nghĩa, bằng như cứ nằm trơ trơ trên kệ này thì vô vị lắm! Ở đời có những cái chết rực rỡ và cũng có những kiếp sống nhạt nhẽo vô cùng. Họ nhà nến chúng ta có truyền thống sống đẹp chết sáng, tận hiến ánh sáng và cả hương thơm cho đời.

Chú nến trẻ vẫn cứng cỏi:

- Tại sao phải là chúng ta? Tại sao không phải là những kẻ khác? Tại sao chúng ta phải cháy sáng để kẻ khác hưởng ánh sáng? Họ hưởng ánh sáng của chúng ta rồi một lời cảm ơn cũng không có. Tôi không chấp nhận sự bất công, cần phải thay đổi cái lối mặc định này!

Một cây nến trắng mà loài người thường thân mật gọi là bạch lạp, nó khiêm nhường ở giữa những cây nến và hũ nến:

- Mỗi loài có một vị trí và chức năng khác nhau, đã sanh vì nghiệp duyên thì phải sống theo nghiệp duyên. Đến như đá cuội còn có chức năng riêng của nó, nó làm bổn phận của nó mà có hề than trách chi đâu. Họ nhà nến của chúng ta vốn sinh ra là để cháy sáng, đó không chỉ là bổn phận mà còn là vinh dự của chúng ta, có cháy sáng thì ta mới là ta.

Chú nến trẻ cà khịa:

- Tôi thấy chẳng có ai thắp bạch lạp trên bàn thờ Phật hay bàn thờ gia tiên, có chăng ở giáo đường thiên chúa, điều ấy có đúng chăng?

- Chú em nói đúng! Ấy chẳng qua là tập tục thói quen của mọi người, cái quan niệm có khi đúng có khi sai, đó là việc của loài người, còn chức năng của họ nhà nến chúng ta thì như nhau. Nến trắng, nến đỏ, nến vàng hay bất cứ màu sắc nào cũng đều có thể dâng tặng ánh sáng. Bạch lạp xưa từng thắp sáng chốn hoàng cung, trên những bàn tiệc, những lâu đài của giới quý tộc châu Âu. Bạch lạp thắp sáng trong giáo đường thiên chúa, cung hiến ánh sáng lên thiên chúa và các thánh thần, há chẳng phải vinh dự sao?

Chú nến trẻ không biết nói năng gì nữa, bao nhiêu lời lẽ lý luận của chú ta bị bác bỏ. Chú ta đuối lý, trong phút giây này đành im lặng, tuy vẫn còn ấm ức nhưng những lời đầy trí tuệ và tình cảm của anh em nhà nến đã tác động vào tâm tư chú ta. Một cây nến đỏ khác, kiểu dáng truyền thống gầy khẳng khiu, nằm ở tầng dưới của kệ lên tiếng:

- Chú em có tánh phân biệt, hãy mở rộng tầm nhìn một chút, cúng dường hay dâng hiến cũng đều thắp sáng cả, rất thiêng liêng. Như tôi đây, tuy thân phận tầm thường rẻ tiền hơn chú và đồng loại, không có mùi thơm nhưng tôi và tổ tiên từ xưa đến giờ luôn kính tiễn người đi, mỗi khi có người qua đời. Chúng tôi luôn cháy trên đầu áo quan, ngọn lửa nến làm cho người sống an tâm tin tưởng vào sự linh thiêng mầu nhiệm của sự gia hộ độ trì, ngọn nến cháy sáng dẫn đường cho vong linh hay hương linh người chết đi vào một cảnh giới an lành tốt đẹp hơn. Tang lễ không thể thiếu ngọn nến đỏ của chúng tôi, chúng tôi cháy sáng, thân thể tiêu hoại và rồi đời sẽ lãng quên nhưng không hề gì. Chúng tôi đã sống hết mình, đã cháy sáng trọn kiếp nến.

Đến đây thì nhuệ khí của chú nến trẻ đã hạ thấp lắm rồi, không còn dương dương tự đắc như lúc ban đầu, ít nhiều chú ta đã thấm thía bài học của các vị tiền bối lẫn bạn đồng trang lứa. Chú đã thấy cái giá trị thật ở sự cháy sáng chứ không phải nằm chưng trên kệ, tuy nhiên cái tôi vẫn còn to:

- Mình cháy sáng dâng hiến cho người đời mà người đời không biết đến công lao của mình thì dâng hiến làm chi? Thiệt cho mình quá!

Cây nến đỏ cười độ lượng:

- Không hề vô ích, chúng ta cháy sáng mang lại ý nghĩa lớn cho chính chúng ta, người đời biết hay không biết đến là việc của họ. Mình cháy sáng mà cái tâm ta vướng còn có cái cháy sáng, có đối tượng hưởng sáng, có cái sáng để dâng hiến thì xem ra không phải là họ nến rồi!

Một cặp nến to tướng, trên thân đắp nổi rồng phượng theo truyền thống phương đông, loại nến này ít thấy tùy tiện đốt lên, ngày thường chẳng thấy ai xài. Nến này rất đặc biệt, chỉ dùng trong dịp lễ cưới hỏi, nến thắp lên để cáo yết tổ tiên ông bà về việc hôn sự của con cái, sau đó thì người mẹ hoặc người đỡ đầu sẽ cầm cặp nến này dắt đôi trẻ vào căn phòng dành cho việc động phòng, hai ngọn nến này cháy sáng trong đêm thành thân của tân lang và tân nương. Người phương tây không ai biết loại nến này cũng như chức năng của nó. Hai cây nến này cậu chủ sưu tầm cho đủ bộ chứ ngày động phòng hoa chúc của cậu chủ đã qua từ lâu rồi. Cặp nến rồng phụng này nằm đây chúng kiến bao nhiêu thế hệ nhà nến đến rồi đi. Nó nghe cây nến trẻ kia  lý sự nên thấy cần phải khai trí cho chú ta một tí:

- Cụ nến đỏ cháy sáng trên đầu áo quan là để tiễn người đi, dùng trong tang lễ nên có thể gọi là tử nến. Còn tôi đây dùng trong ngày lễ cưới thành thân của chú rể và cô dâu nên cũng có thể gọi là sinh nến, vì lễ thành thân là sự kết hợp âm dương, là sự tiếp nối dòng đời. Tử, sinh vốn tương tục, dòng tử sanh bất tận. Họ nhà nến chúng ta vinh dự được cháy sáng trong vòng đời của loài người. Loài người từ sanh đến tử, từ tử đến sanh đều có ngọn nến chứng tri. Cái vòng sanh tử khép tròn, điểm đầu cũng là điểm cuối, mười hai mắc xích trong vòng sanh tử ấy có ai phân biệt được bao giờ, chỉ có những bậc chứng đắc mới phá vỡ được mắc xích của dòng sanh tử. Họ nhà nến chúng ta có mặt trong những thời khắc quan trọng của đời người và họ nhà nến chúng ta cũng nằm trong cái quy luật thành – trụ- hoại- không không khác gì vạn vật muôn loài ở thế gian này! Chú em không thể cưỡng lại, mà cưỡng lại để làm gì? Đời nến phải cháy sáng, không cháy sáng sao gọi là nến được!

Cây nến trẻ tỏ rõ sự hoang mang:

- Nhưng cháy sáng để tàn lụi thì ghê quá!

- Có gì ghê đâu? Khi chúng mình cháy sáng, ánh sáng đẩy lùi bóng đen, ánh sáng hòa ánh sáng, đó là sự hạnh phúc tuyệt vời, những phân tử vật chất của chúng ta sẽ hòa vào không khí. Vật chất cấu tạo nên hình tướng vốn từ những nguyên tử nhỏ nhất, chúng ta tan hoại đi, loài người lại chế ra chúng ta bằng cách tập hợp những phân tử nhỏ nhất. Thấy thì có sanh có tử nhưng thật ra nào có sanh tử chi đâu, chẳng qua là sự biến dạng thay đổi từ hình thức vật chất này sang hình thức vật chất khác mà thôi!

Cụ nến đỏ gầy nhom, cụ vốn là tổ của họ nhà nến, từ xa xưa cụ đã từng giúp loài người thắp sáng đêm trường. Cụ đã hiện diện trong những lồng đèn để chưng hay những lồng đèn để giúp người đi đường trong đêm tối. Cụ giúp loài người vượt qua đêm trường, soi đường cho loài người đi, dù là người ở phương đông hay phương tây. Những đêm trung thu hay những lễ hội nhờ có nến mà trở nên đẹp như huyền thoại. Cụ nến đỏ là hình ảnh mẫu mực, là truyền thống của họ nhà nến. Nãy giờ cụ lắng nghe toàn bộ câu chuyện của chú nến trẻ và những loại nến khác, đợi đến lúc này cụ mới khẽ tằng hắng:

- Họ nhà nến chúng ta gắn bó với loài người từ xa xưa, thời trung cổ là lúc huy hoàng nhất của cả họ, lúc ấy sự hữu dụng của chúng ta lên cao tột đỉnh. Loài người từ đông sang tây ai ai cũng cần nến. Nến thắp trong hoàng cung, giáo đường, chùa chiền, dinh thự cho chí nhà dân thường. Thuở ấy nến là nguồn sáng vô cùng thiết yếu,  dùng trong việc tế lễ, sáng tạo nghệ thuật, sinh sống đời thường. Giả sử đêm trường trung cổ mà không có họ nhà nến chúng ta thì cung vua, lâu đài quý tộc hay lều cỏ nhà dân sẽ tối tăm mù mịt có khác chi hang ổ cầm thú. Bởi thế mà trong tâm thức của loài người, hình ảnh họ nhà nến chúng ta rất thiêng liệng lại rất gần gũi thân thương. Loài người còn có tâm linh thì họ sẽ không bao giờ quên chúng ta. Sau này loài người chế ra được dầu, điện thì họ nhà nến chúng ta dần mất vị thế ban đầu, không còn là nguồn sáng quan trọng nữa, tuy nhiên về mặt tâm linh thì ngọn nến chúng ta vẫn có một vai trò thiêng liêng không thể thiếu, cho dù là ở chùa chiền, đền đài, thánh thất hay những buổi lễ nguyện cầu, tưởng niệm...Ngay ở trong nhà dân, chúng ta vẫn trang trọng trên bàn thờ Phật, bàn thờ gia tiên. Ánh điện tuy sáng và tiện lợi nhưng không thể thay thế chúng ta về mặt ý nghĩa tâm linh.

Cụ nến đỏ dứt lời, một cây nến khác cũng giống y hệt cụ, có lẽ cùng từ một khuôn ra. Cây nến tằng hắng nhẹ:

- Các bạn trẻ trưởng thành ở đây, thụ hưởng văn minh phương tây, sử dụng khoa học kỹ thuật tân tiến của phương tây, có lẽ các bạn trẻ không biết gì về phương đông vớ những truyền thống rất huyền diệu. Họ nhà nến chúng ta vốn gắn bó với truyền thống phương đông rất lâu đời. Ở đây còn có một chi nhánh nhỏ họ nhà nến chúng ta, hiện nay vẫn còn tồn tại nhưng rất ít người biết, người phương tây lại càng không biết đến. Xứ Giao Châu ở vùng viễn đông xa xôi ấy, những người anh em nến của chúng ta vốn sinh ra với thân hình to lớn, cứ như những cột Gothic ở đền thờ Pantheon vậy. Những cây nến khổng lồ ấy ngày đêm âm thầm cháy sáng trong những ngôi chùa Miên, cháy liên tục từ năm này qua năm khác. Đây là một điều vô cùng vi diệu, nói ra khó tin nhưng lại là sự thật, Người phương tây chưa từng biết đến, các bạn trẻ của họ nến chúng ta cũng không mấy người biết. Thật vinh dự và tự hào về những người anh em khổng lồ của họ nhà nến.

Cả bọn nến xôn xao hẳn lên, bao nhiêu lời trầm trồ kinh ngạc, những đôi mắt mở to, ngọn lửa của lọ nến thơm trên bàn thờ Phật cháy bừng lên cứ như thể đột ngột bị phấn kích. Cây nến trẻ hình thiên thần lặng cả người, lần đầu trong đời nó được biết ngoài những loại nến thông thường quanh đây, nó còn có người anh em khổng lồ ở tận phương đông xa xôi kia. Nó chưa từng biết mặt và không biết có khi nào được gặp những người anh em ấy không. Nó bâng khuâng, những lời nói của cây nến ấy cứ vọng trong tâm nó. Nó đưa mắt nhìn một lượt những người anh em, những bậc trưởng thượng có mặt ở trong căn phòng này.

Cụ nến đỏ ho khục khặc làm cho ngọn lửa lung lay, ánh sáng in hình những vật dụng trong phòng lên tường, giây lát sau cụ lại tiếp:

- Loài người càng văn mình tân tiến, họ nhà nến chúng ta cũng được thơm lây, ngày xưa quanh đi quẩn lại cũng chỉ là những cây nến hình trụ tròn, giờ thì hình dáng vô cùng đa dạng, đã thế màu sắc cũng đẹp mắt và mùi thơm thì quá tuyệt vời. Loài người chế ra những mùi hương mà ngay cả trong thiên nhiên chưa hề có, hoặc là họ pha trộn nhiều loại hương lại với nhau. Họ nhà nến chúng ta ngày nay phong phú lắm, âu cũng là sự tương tức tương sinh. Họ chế thêm những dòng nến mới, rồi chúng ta lại cháy sáng dâng ánh sáng và hương cho họ. Họ tạo ra chúng ta và chúng ta thì hỗ trợ họ tối đa về mặt tâm linh. Tận hiến vốn là truyền thống xưa nay của họ nhà nến chúng ta. Thời đại hôm nay truyền thống cần có văn minh hiện đại, cả hai kết hợp hài hòa nhau. Hiện đại mà thiếu truyền thống thì vô hồn, truyền thống mà không hiện đại thì cứng nhắc chết khô và lạc điệu mất đi thôi!

Cụ nến dứt lời, một nhóm nến tí hon dùng để cắm trên bánh sinh nhật hát vang ca khúc mừng sinh nhật của chú nến trẻ kia. Chúng cười khúc khích vây quanh cây nến trẻ hình thiên thần, cây nến trẻ cũng hát theo điệp khúc bản nhạc sinh nhật kia. Những hũ nến thơm, những loại nến mang hình thú, những cây nến theo thể thức truyền thống… cùng hoan hỷ tỏa hương dù rằng tim nến chưa được đốt lên. Riêng lọ nến thơm trên bàn thờ Phật cười nhẹ an nhiên như thể nụ cười niêm hoa của Thế Tôn, ngọn lửa liu riu tỏa một vừng sáng mà người ngoài bước vào căn phòng cứ ngỡ hào quang của tôn tượng Phật, mùi hương từ nến loang cả không gian của ngôi nhà.

 

HỘ TƯỜNG

 

 Phật điện mông lung trong làn khói trầm hương, làn khói nhỏ mong manh phưởng phất dường như quyến luyến điều chi chẳng chịu bay lên, làn khói như vờn vẽ mật ngữ trong không khí. Mùi trầm pha lẫn mùi bổi, hương thơm của trầm pha với mùi ngan ngát đắng của gỗi bổi, chỉ có những người như thầy Tư thì mới có thể nghe ra, đàn na tín thí cắm đầu cắm cổ đốt cả nén hương nhưng có mấy ai phân biệt đâu là mùi trầm đâu là mùi bổi. Ngọn nến leo lét trước tôn tượng Thế Tôn, đôi lúc phụt lên thật cao khi dòng nến trên bề mặt chảy xuống, lúc thì ngọn lửa liu riu khi mà sáp tan ngập tim. Tiếng mõ lốc cốc đều đều như đưa người và phi nhân vào một cảnh giới nào đó khác với cõi đời thực này, thỉnh thoảng một chày chuông vang lên khi hết đoạn kinh hay chuyển ý, tiếng chuông lại kéo người về với thực tại. Thầy Tư ngồi kiết già trên bồ đoàn, mắt lim dim, một tay mõ, một tay chắp trước ngực. Thầy như đã nhập vào một cảnh giới thần tiên hay cung trời nào đó, không còn nhận biết xung quanh, giả như lúc này có kẻ trộm vào khiêng bộ ngũ sự đi thầy cũng chẳng biết. Sư phụ của thầy ban cho thầy pháp danh Hộ Tường, nhưng bao nhiêu năm nay thiện nam tín nữ quanh vùng chỉ quen gọi thầy là thầy Tư, riết rồi chẳng còn ai nhớ pháp danh của thầy nữa, Pháp danh của thầy giờ chỉ còn ở trên hộ điệp mà thôi.

 Người khách ngồi sau lưng thầy đã đợi một canh giờ, y vẫn điềm tĩnh nhẫn nại đợi cho đến khi khóa công phu của thầy kết thúc. Y không muốn hay không dám làm kinh động đến thầy? Y đến đây và mang theo bức thư của ông giáo Bảy, thầy đồ danh tiếng nhất đất Phú Phong này. Giáo Bảy là sư phụ dạy văn lẫn võ của thầy Tư năm nào. Hồi chuông boong boong boong dứt khóa lễ, thầy Tư quay lại thì thấy y nhưng chẳng ngạc nhiên. Thầy Tư mời y xuống trai đường uống trà, tự tay thầy pha một bình trà  và rót cho người khách một chung

- Mời thí chủ, thí chủ đợi tăng tôi đã lâu, xin xá cho.

 Người khách đón chung trà thầy Tư trao, y cảm ơn

- Bạch thầy, tôi có thể chờ bao lâu cũng được nhưng ông giáo Bảy và huynh đệ của thầy Tư thì có lẽ nóng lòng lắm rồi. Tôi mang thư của giáo Bảy đến cho thầy

 Nói xong y rút trong áo ra một phong thư  trao cho thầy Tư, mở phong thư ra, bên trong có một mảnh giấy bổi màu vàng sậm, trên ấy vỏn vẹn bốn câu lục bát viết bằng mực Tàu

 Ông thầy áo vải cơm chay

Cốc keng chuông mõ tháng ngày kệ kinh

Dân oan nước loạn mặc tình

Phật cười uổng cả công trình bấy lâu

 Ngoài bốn câu ấy ra, không có bất cứ một dòng chữ nào khác, kể cả chữ ký, dấu triện son cũng không. Dù không có bất cứ chỉ dấu gì nhưng thầy Tư dễ dàng nhanh chóng nhận ra nét chữ của ôgn giáo Bảy. Chữ ông giáo Bảy đã in sâu vào tâm khảm thầy Tư. Thầy Tư phân vân lắm, cân nhắc cả mấy tháng nay. Nội tâm thầy Tư đang bị giằng xé giữa một bên giới hạnh của một tu sĩ và một bên là trách nhiệm của một trượng phu trong đất trời. Anh Hai và anh Ba của thầy Tư đã mấy lần thúc giục thầy Tư hãy tạm ngưng việc tu hành để cùng nhau hợp lực cứu dân, cứu quốc. Hôm tết thầy Tư về nhà thăm song thân, anh Hai và anh Ba đã tranh luận với thầy Tư cả buổi

- Thầy Tư, tuy thầy đã xuất gia nhưng với tui thầy vẫn là chú út như ngày xưa. Thầy biết đấy, mấy năm nay dân chúng ta thán ngất trời xanh. Quyền thần Phúc Loan họ Trương tham lam bạo ngược, chúa Nguyễn nhu nhược, xa hoa cực độ, triều chính ngả nghiêng để cho y lộng quyền, thuế má ngày một tăng và ngày càng ngặt nghèo thêm. Đất Nông Nại sản vật phong nhiêu vậy mà cũng không đủ cống nạp cho lòng tham của y. Thầy còn nhớ cơn lụt năm Dần? Dân chúng xấc bất xang bang, mất mùa đói kém trong khi ấy thóc lúa trong kho lẫm họ Trương bị ngập nước mọc mộng, y cho gia nhân và tá điền gánh đổ ngoài đồng cao như núi, của cải vàng bạc đem phơi kín cả sân dinh. Bá tánh lầm than, tui đã bàn với giáo Bảy, chú Ba và mấy anh em tâm phúc khác. Chúng ta sẽ dựng cờ khởi nghĩa để cứu dân. Thầy Tư hãy tạm gác việc kinh kệ, hãy cùng anh em gánh vác giang san.Nhà Phật bảo cứu người như cứu lửa cháy đầu, mai kia xong việc thầy Tư lại về chốn cũ tiếp tục tu.

 Thầy Tư ngồi im lắng nghe, lát sau thưa

- Anh Hai, tui giờ là con nhà Phật, việc thế sự không can dự vào, tuy biết rằng dân khổ nhưng giới luật của thầy tu không cho phép làm quốc sự

 Anh Ba nghe thế thì nóng nảy bảo

- Anh Hai nói phải đấy, thầy Tư cũng nên quyền biến, không thể khăng khăng chấp thủ. Triết lý nhà Phật bảo mọi sự vật, sự việc trong trời đất luôn thay đổi vì thế giới này vốn vô thường. Nhân duyên luôn biến thiên, không thể cưỡng cầu cũng như không thể bất chấp. Nước loạn dân oan lẽ nào thầy Tư thản nhiên ngồi yên gõ mõ tụng kinh? Sư phụ thế độ của thầy ban cho thầy pháp danh Hộ Tường, há chẳng phải gởi gắm kỳ vọng thầy sẽ bảo vệ những điều tốt lành? Việc hộ quốc, hộ dân là việc đại tốt lành.

Thầy Tư chiêu ngụm trà, giọng nhỏ nhẻ

- Anh Ba nói cũng phải, nhưng khi cái cộng nghiệp của dân nó thế thì mình đâu có thể làm gì được, vả lại một tu sĩ không thể tham dự thế sự, chính sự, càng không thể tham gia những việc gây nghiệp sát

Anh Hai phản bác

- Thầy Tư nói vậy là không hợp lý, tuy là nghiệp nhưng nghiệp có thể thay đổi, nghiệp luôn biến thiên chứ không cố định, khi cơ duyên chín muồi thì nghiệp cũng theo nhân duyên mà chuyển. Việc bá tánh trăm họ lầm than cứ cho là cộng nghiệp đi, nhưng nay thiên hạ bất bình, sĩ phu hào kiệt đang đợi minh chủ, người hằng tâm hào sảng khắp nơi đang hướng về… lẽ nào thầy Tư không thấy điều này? Đây chính là cơ duyên tốt để chuyển đổi nghiệp vận! Tui đã bàn luận rất kỹ với ông giáo Bảy, chú Ba và những hynh đệ gần xa. Tất cả đều đồng lòng đứng lên cứu dân cứu nước, cờ khởi nghĩa cũng đã may xong. Thầy Tư nên tạm giác việc kinh kệ lại để phụ anh em hộ dân hộ quốc. Thầy Tư có ngón nghề thâm hậu, rèn luyện võ nghệ cho nghĩa quân, thiên hạ ai ai cũng phục võ công của thầy Tư.

Lòng thầy Tư lung lay, lời anh Hai, anh Ba và giáo Bảy rất đúng. Mình không thể nhắm mắt làm ngơ, để mặc dân tình quốc sự rối ren, trước khi là thầy tu thì mình đã là một con dân, vậy phải có trách nhiệm với sơn hà xã tắc.

 Những ngày khi còn ở trường ông giáo Bảy, chú Tư luôn được mọi người yêu mến, chú Tư hiền lành, nhu mì, nhỏ nhẹ, có tánh thương người thương vật. Ông giáo Bảy dự đoán chú Tư sau này sẽ là ông một ông thầy tu. Anh Hai thì biết tính toán, cơ mưu nhưng hay do dự và không cả quyết. Duy có anh Ba được giáo Bảy hết lời ca ngợi. Anh ba văn siêu võ xuất, tánh tình khảng khái, quyết đoán, nhìn xa trông rộng, khí độ như núi, dáng dấp trượng phu, đặc biệt có một năng lực thu hút đối phương rất mạnh mẽ. Bất cứ kẻ đó là ai, hễ tiếp xúc với anh Ba thì chỉ trong một thời gian rất ngắn, kẻ ấy sẽ quy thuận anh Ba vô điều kiện. Giáo Bảy vẫn bảo với mọi người, anh Ba là tay kiệt hiệt hiếm có, sẽ làm nên nghiệp lớn. Ngoài ba anh em thầy Tư, lớp của giáo Bảy còn có những huynh đệ đồng môn khác cũng rất xuất sắc, đều là những tay võ nghệ cao cường, tánh tình hào sảng, bản lãnh hơn hẳn người đời. Nương tử họ Bùi là một nữ nhân xinh đẹp với biệt tài sử dụng song kiếm, khi cô ấy huơ kiếm lên thì như thác đổ mây bay, hoa rơi lá đổ, đố ai dám lại gần, dù đó là bậc nam nhi dõng mãnh. Tay Văn Dõng người họ Võ thì có ngón trường côn, y chỉ cần một cây roi mây có thể đánh bại cả toán kiêu bính có gươm lớn giáo dài. Long hiệp khách người họ Đặng, cha anh vốn người Bắc Hà mới di cư vào đàng trong lập nghiệp. Y tánh tình phóng khoáng, không câu nệ, giỏi sử dụng trường thương...Giáo Bảy vốn tinh thông võ nghệ, văn chương lưu loát, học giỏi nhưng không chịu đi thi vì giáo Bảy không muốn làm quan. Giáo Bảy mở trường thâu nhận học trò không hẳn vì mưu sinh, cái tâm nguyện chính yếu là chiêu tập môn sinh giỏi để truyền thụ bí quyết võ công, tìm người có tâm huyết để gánh vác việc quốc gia.

 Những ngày cuối cùng của năm Dần, giáo Bảy đích thân đến Hưng Long tự để tìm gặp thầy Tư

- Chú Tư, chú vẫn là môn đồ của tôi, dù chú có xuất gia đầu Phật nhưng tôi sẽ không kêu chú bằng thầy! Với tôi chú mãi mãi là trò Tư như năm nào. Tôi không quan tâm pháp chế giới luật của thiền môn. Tôi còn nghe thiên hạ nói chú từng theo tu học với mấy ông đạo Bà Ni người Champa và chú cũng đạt được mấy bậc công phu trước khi xuất gia đầu Phật, bởi vậy tôi càng không để ý đến việc chú là ai. Tôi là ông giáo Bảy, Tôi đến đây vì chút lòng với sơn hà xã tắc. Tôi biết người xuất gia không tham dự chính sự, nhưng đó là những lúc nước thạnh dân an, thái bình thịnh trị,  còn khi bá tánh lầm than, nước loạn dân oan, sơn hà nguy khốn thì tu sĩ không thể ngồi yên một chỗ, mặc cho dân tình quốc sự loạn. Phủ Quy Nhơn này vốn trù phú, sản vật phong nhiêu, tàu Hòa Lan, Nhựt Bổn, Tiêm La, Phú Lang sa, Hồng Mao, Y Pha Nho… vào ra thương cảng Nước Mặn mua bán, trao đổi sản vật rất sầm uất. Thiên hạ  khắp nơi ca tụng là một tiểu Nông Nại, ấy vậy mà mấy năm nay điêu đứng vì nhà chúa và quyền thần Phúc Loan, thuế khóa nặng nề, nhà chúa đặt ra nhiều sắc thuế vô cùng nặng nề, phu phen phục dịch liên miên. Bắc Hà nhiễu nhương vì họ Trịnh. Từ Diên,  Ninh đến Gia Định thì chúa Nguyễn cát cứ. Dân chúng lầm than, nay hào kiệt khắp nơi trông chờ ngọn cờ khởi sự phất lên. Các anh chú đã bàn với tôi quyết dấn thân giương cao ngọn cờ. Các môn sinh cũ mới đều nhất tề hưởng ứng, duy chỉ còn chú Tư… và đây cũng là duyên do giáo Bảy này đến thăm chú!

 Thầy Tư lặng lẽ châm thêm trà cho ông giáo Bảy, không gian im ắng lạ thường, thời gian như ngưng lại ngừng trôi. Cả ông giáo Bảy lẫn thầy Tư đều để cho tâm mình theo đuổi ý nghĩ riêng, lát sau ông giáo Bảy lại lên tiếng

- Chú đọc kinh ắt biết trong bổn sanh bổn sự nhà Phật, trong một kiếp quá khứ xa xưa.  Đức Phật kể câu chuyện rằng: Thuở đó Phật cùng với năm trăm người lái buôn đi chung một con tàu, trên tàu có một tên cướp vô cùng tàn bạo, y định ra tay sát hại cả nhóm lái buôn để cướp lấy toàn bộ vàng bạc, hàng hóa của họ, vì thế  Phật phải ra tay hạ sát y để cứu năm trăm người kia. Đời nhà Lý, các sư Pháp Thuận, Vạn Hạnh… cũng vì nước mà tham gia chính sự, ra tay hộ quốc, an định thế nước, từ ấy quốc thạnh dân an, đạo pháp xương long. Đời Trần có nhiều bậc long tượng thiền môn hết lòng hộ quốc như: Pháp Loa, Huyền Quang… Các  vua Thái Tổ, thánh Tông, Nhân Tông… đều là thiền sư kiệt xuất cả, nhưng khi sơn hà xã tắc lâm nguy thì các ngài tạm gác Phật sự để ra tay hộ quốc, hộ dân, âu đó cũng là độ sanh giác chúng!

 Bấy giờ thầy Tư cung tay thủ lễ theo kiểu con nhà võ chứ không chắp tay theo thể thức nhà Phật

- Thưa ân sư, nhà Phật có câu “ Sa môn bất bái vương gia” nhưng đạo lý tộc Việt thì ơn thầy không thể quên. Tạ ơn thầy đã vì con trò mà cất công đến tận đây, tạ ơn thầy vì những lời tận tâm can. Con, trò Tư có ngày nào dám quên ơn thầy, vẫn đau đáu vì đời đau khổ, vì nước loạn dân oan, bấy lâu nay đóng cửa tụng kinh nhưng lòng mở rộng với bá tánh muôn loài. Con, trò Tư ngày nào tuy hôm nay mang hình tướng sa môn nhưng vẫn là con dân tộc Việt, đâu dám bỏ mặc sơn hà. Tạ ơn sư phụ, nay lòng con đã cất đi được nỗi khó xử bấy lâu nay.

 Giáo Bảy cảm động dường như sắp nhỏ lệ, nhưng bản tánh ngang tàng, cốt cách cứng cỏi con nhà võ kịp thời khởi tác dụng ngăn chặn phút yếu lòng, chỉ thoáng một tí lập tức trở lại can cường ngay. Giáo Bảy chụp lấy hai bàn tay thủ lễ của thầy Tư lắc mạnh

- Tốt lành quá, thầy Tư đã bằng lòng giúp nước cứu dân! Giáo Bảy này có chết cũng an lòng rồi. Giáo Bảy này tuy già nhưng sẽ làm hết lòng những gì có thể để giúp rập cho mấy anh em của thầy Tư. Trong số môn đồ của ta, chú Ba là người xuất chúng, là tay kiệt hiệt anh hùng cái thế, Mấy trăm năm nay chưa dễ được một, nay chú ấy dựng cờ khởi nghĩa ta tin chắc chú ấy sẽ làm nên nghiệp lớn. Bây giờ có thêm thầy Tư về giúp cho chú Hai và chú Ba, cộng với tất cả huynh đệ đồng môn kiệt hiệt thì lo gì việc lớn không thành. Sơn hà xã tắc giờ đây đã có người gánh vác, bá tánh từ đây có chỗ nhờ cậy

 Giáo Bảy nói một hơi trong sự xúc động mãnh liệt, tuy cốt cách con nhà võ không để lệ chảy hay lộ nét mặt xúc động nhưng rõ ràng trong lời nói đã thể hiện nỗi lòng của ông. Ông cũng quên khuấy lúc ban đầu tuyên bố chỉ gọi trò Tư, chú Tư, vậy mà về sau ông tự nhiên gọi thầy Tư từ lúc nào cũng không hay biết. Thầy Tư rõ ràng là môn đệ là học trò của giáo Bảy, ấy là phương diện đời, môn quy võ phái. Nhưng về mặt đạo và pháp giới nhà phật thì trò Tư đã xuất gia, hẳn nhiên phải gọi bằng thầy. Tuy nhiên giờ đây việc xưng hô thế nào cũng không còn quan trọng nữa. Thầy Tư đã ra giúp nước thì ông giáo Bảy sẵn sàng kêu bằng bất cứ danh tự nào, với giáo Bảy thì người nào hộ quốc hộ dân cũng đều là đại nhân cả. Giáo Bảy sẵn sàng đem thân già này hỗ trợ cho những ai ra giúp nước thì còn sá chi cái danh tự vai vế giả tạm kia.

 Sáng sớm tinh mơ hôm sau, thầy Tư cởi cà sa để lại dưới chân tôn tượng Như Lai, chỉ mặc áo tràng nâu về nhà để gặp anh Hai và anh Ba. Thường thầy Tư vẫn mặc chiếc áo màu nâu này, có khi là áo tràng, có khi áo vạt hò hoặc áo nhật bình tùy theo hoàn cảnh và công việc. Thầy Tư thích màu nâu, cái màu của đất, của kham nhẫn, màu của chịu đựng. Màu nâu còn là màu của tịch tĩnh và yên lặng, khoác áo nâu sồng giúp tâm thầy Tư lắng đọng và an lạc trong bao nhiêu năm nay, những cơn sóng ngã mạn, ngũ dục lục trần đã ngủ yên dưới lớp áo nâu sồng

 Tiếng đồn thầy Tư cởi cà sa ra gánh vác việc sơn hà chẳng mấy chốc lan xa lan nhanh khắp các tổng Phú Phong, An Nhơn, Thuận Truyền, An Khê thượng đạo…

 Mùa xuân Tân Mão,  thầy Tư cùng với hai người anh của mình dựng cờ khởi nghĩa, nêu cao khẩu hiệu hộ quốc an dân, định an xã tắc. Ngọn cờ của ba anh em thầy Tư mở ra một chương sử mới đầy hào hùng khí phách cho tộc Việt. 

 

NGƯỜI MANG ĐẠO PHẬT ĐẾN CHÂU PHI

 

Đạo Phật ngày nay không còn xa lạ với người Âu- Mỹ, từ thế kỷ mười chín nhiều học giả Âu - Mỹ đã đến Myanmar, Sri Lanka để nghiên cứu Phật học, tiêu biểu như: Nanamoli Thera, Franis Stony, Sangarakshita, Henry Steel Olcott…  Đạo Phật  ở Âu -Mỹ phát triển nhanh và mạnh có lẽ từ khi đức Dalai Lama tỵ nạn ở Ấn Độ và đi hoằng pháp khắp Âu - Mỹ. Người thứ hai là thiền sư Nhất Hạnh, sức ảnh hưởng của thầy cũng sâu rộng khắp nơi. Ngaỳ nay có rất nhiều người Âu -Mỹ xuất gia hoặc tu tập tại gia. Duy có châu Phi thì còn xa lạ và chưa biết gì nhiều về Phật giáo, thậm chí còn cho Phật giáo là cái gì đó kỳ quặc, thuộc bên ngoài, không thích hợp với tập quán văn hoá châu Phì.

Sự đời vốn vô thường, thế gian naỳ không có chi bền vững, rồi đến lúc cái quan niệm kia cũng phải đổi thay. Không biết có phải cơ duyên chín muồi nên chiêu cảm sự kiện này: Có một anh sinh viên người Uganda đến Ấn Độ để du học, chuyên môn là kinh doanh thương mại, nhưng rồi tình cờ gặp hai vị tu sĩ Phật giáo người Thái Lan, từ đó họ kết bạn và người sinh viên Uganda kia quyết định thay đổi đức tin của mình, quyết định gia nhập đạo Phật và trở thành tu sĩ Phật giáo, sau đó mang Phật pháp về hoằng pháp trên quê hương mình. Chúng tôi đọc được bài báo “ It’s not weird or foreign: the Ugandan monk bringing Buddhism to Affrica” của Samuel Okiror đăng trên tờ the Guardian  nói về vị tu sĩ Phật giáo người Uganda và chúng tôi thấy rất hứng thú về câu chuyện  này nên chúng tôi quyết định chuyển ngữ câu chuyện  để tặng cho bạn đọc Viễn Đông Weekly.  Một câu chuyện lý thú, nhiều yếu tố mới lạ về đạo Phật ở vùng đất châu Phi xa xôi kia

Thượng toạ Bhante Buddharakkhita là một tu sĩ Phật giáo người Uganda, việc trở thành tu sĩ Phật giáo xảy ra trong thởi gian du học ở Ấn Độ. Hiện taị với tư cách là một tu sĩ Phật giáo đầu tiên ở Uganda. Thượng tọa đang huấn luyện cho năm mươi tư đồ đệ, thượng tọa nói:

“ Tôi dạy giáo lý Phật giáo Theravada cho người châu Phi, tôi bảo đảm dạy sao cho mọi người hiểu đúng về đức Phật, đừng có tìm kiếm những gì huyễn hoặc, bên ngoài và người Á châu”

Thượng tọa cho biết
” Tôi nhìn thấy có quá nhiều người khổ đau bất hạnh ở Uganda nói riêng và châu Phi nói chung. Với vai trò như một người chuyển chương trình, tôi tìm cách thay đổi, chuyển hoá từ khổ đau sang an lạc ở châu Phi”

Hiện taị ở châu Phi có chừng ba ngàn Phật tử, trong đó có ba mươi lăm người Uganda. Cộng hoà Nam Phi chiếm tuyệt đaị đa số, bởi vì nhiều người trong số họ đến từ các nước châu Á. Họ đến Nam Phi làm ở các mỏ vàng và đã lập nên nhiều ngôi chùa Phật giáo.

Bhante là người sáng lập, trụ trì ngôi chùa trung tâm Phật giáo Uganda và cũng là tác giả của chương trình “Gieo hạt giống Phật pháp ở châu Phi”, đây là một sự kiện nổi bật của đạo Phật ở châu Phi. Bhante Buddharakkhita vốn sinh ra ở Steven Jemba Kabogozza và lớn lên trong đức tin thiên chúa giáo. Ông đã chuyển sang đạo Phật vào năm 1990 trong lúc du học ở Ấn Độ và sau đó bắt đầu giảng dạy thiền chánh niệm ở châu Phi kể từ năm 2005

Thượng toạ Bhante tâm sự

“ Những thủ lãnh chính trị và văn hoá không thích tôn giáo này cũng như với triết lý Phật giáo vậy. Tôi thật sự không biết bất ai trong số họ: lãnh đạo văn hoá, tổng thống, vua của Uganda và châu Phi ai là người thích đạo Phật. Nếu có ai trong số họ có thể làm điều ấy thì đạo Phật sẽ phát triển nhanh” Bhante lúc bấy giờ năm mươi ba tuổi, từ một bên sườn đồi của trung tâm, nhìn bao quát toàn cảnh hồ Victoria ở Garuga, cách thủ đô Kampala khoảng hai mưoi lăm dặm về hướng nam

“ Tôi tìm kiếm mối liên quan giữa  thực tập thiền và khả năng chữa trị những chấn thương. Nhiều người trong chúng tôi bị tổn thương vì phải chịu cái di sản từ thời thực dân và những điều bị nhồi sọ”

“ Những quốc gia Phật giáo như: Sri Lanka, India, Thailand, Cambodia, Myanmar họ không có quá trình lịch sử chiếm cứ thuộc địa, nếu họ chiếm cứ đô hộ chúng tôi thì có lẽ đạo Phật đã được thiết lập từ lâu. Những quốc gia đến chiếm cứ thuộc địa và đô hộ chúng tôi, họ thành lập bệnh viện, trường học và áp đặt cái tôn giáo của họ”

Thượng toạ Bhante nói thêm

“ Những Phật tử đầu tiên đến châu Phi là vào năm 1925, người Anh mang họ đến để xây dựng tuyến đường sắt ở Tanzania. Rồi họ ở xung quanh đấy, dựng nên một ngôi chùa và lập một hội Phật tử riêng biệt”

“ Chúng tôi thiếu những vị tu sĩ Phật giáo người Phi có huấn luyện tốt để có thể giảng dạy giáo lý và cầm ngọn đuốc đi đầu. Ở Uganda chỉ có hai vị tu sĩ Phật giáo cho một quốc gia với bốn mươi triệu dân”

“ Chúng tôi có kế hoạch dài hạn, huấn luyện ít nhất năm mươi bốn tu sĩ trong năm năm tới và sẽ gởi mỗi người trong số bọn họ đi giảng dạy hoằng pháp

Sư Bhante Budharakkhita đã chuyển sang đạo Phật trong lúc du học ở Ấn Độ. Sư cho biết

“ Tôi có cơ hội du học ở Ấn Độ, học về thương mại kinh doanh tại một đại học của bang Panjab (Ấn Độ). Tôi luôn luôn muốn học và nghiên cứu về thương maị, gia đình tôi có truyền thống buôn bán, nhiều người trong họ hàng đều liên quan đến kiến trúc và xây dựng . Tôi thì mơ ước trở thành một kế toán trưởng, nhưng sau khi gặp gỡ các tu sĩ Phật giáo, tôi đã thốt lên:” Thật quá ngạc nhiên! những con người an lạc hạnh phúc”, tôi thật sự bị cuốn hút bởi họ. Tôi tìm cách thân cận và chúng tôi trở thành bạn của nhau.”

“ Thật vậy, từ học thương maị rồi gia nhập đạo Phật, tôi tìm thấy ở đạo Phật mang laị hoà bình, an lạc hơn thương maị, thực tế bây giờ thì cả hai cùng đi chung với nhau”

Là một tu sĩ trong mười tám năm, Bhante Buddharakkhita huấn luyện từ Ấn Độ, đến Mỹ, Brazil cuối cùng thì trở về laị Uganda và thành lập trung tâm Phật giáo vào năm 2005

“Trong nhiều năm chịu sự thử thách, đôi khi tôi cũng có chút hối tiếc nhưng những thử thách ấy đã dạy cho tôi rất nhiều về bản thân, chúng sanh, trí huệ khôn ngoan và sự kiên quyết dấn thân”

Sư Bhante nói thêm

“ Tôi bảo đảm chắc chắn chỉ dạy để xóa bỏ những quan niệm sai lầm về đạo Phật. Người dân cứ nghĩ đạo Phật là cái gì đó của người Châu Á, người Trung Hoa. Nó gắn liền với hình ảnh kung fu, Taekwondo, Karate…Nó không thuộc về châu Phi và không thích hợp với châu Phi”

“ Tôi góp sức thay đổi lối sống xã hội, từ một xã hội thiếu vắng hoà bình an lạc thành một xã hội hạnh phúc. Tôi hoạt động cho nhân quyền, phụ nữ, tuổi trẻ và thúc đẩy nâng cao mức sống của người dân”

“ Tôi đưa ra hướng dẫn hoà bình an lạc ở trường học, cung cấp giáo dục, nước sạch cho những cộng đồng xung quanh. Có ít nhất 1500 người đã hưởng được lợi lạc từ chương trình của chúng tôi và tôi cố gắng truyền bá cái văn hoá hoà bình an lạc”

“ Vai trò căn bản tổng quan của tôi là truyền bá đạo Phật thông qua thiền, tích cực hoạt động nhân quyền, đẩy mạnh sự giúp đỡ nào có thể, tìm kiếm cách giới thiệu Phật pháp một cách tối ưu nhất trong bối cảnh văn hoá châu Phi, in ấn kinh sách bây giờ là khởi đầu một truyền thống mới ở Uganda”

 

Khi chúng tôi đọc được bài báo này, chúng tôi vô cùng vui mừng và thích thú. Vậy là đạo Phật có mặt khắp năm châu, giáo pháp hòa bình, an lạc, giải thoát của Thế Tôn đã đến với người châu Phi, một lục địa vốn nghèo nàn, lạc hậu và khổ đau. Sư Bhante Buddharakkhita đã người dấn thân, người tiên phong hoằng pháp ở châu Phi. Chúng tôi cũng được biết có một ngôi chùa Phật giáo và một cộng đồng Phật giáo được thành lập ở Arab Saudi, một vùng sa mạc vô cùng khắc nghiệt và những con người cuồng tín thái quá. ( chúng tôi sẽ giới thiệu với qúy độc giả ở những bài sau). Như vậy là hoa sen đã nở khắp thế gian này, ngày nay châu lục naò cũng biết đến đạo Phật, biết đến giáo lý Phật Đà. Hoa sen nở từ đầm lầy cho đến tuyết sơn, sa mạc và bây giờ là lục địa đen.  Ngưỡng mong cho giáo Pháp của Thế Tôn phủ khắp thế gian, để đem laị hoà bình, an lạc và giải thoát cho mọi người.

 

KÝ ỨC MỘT THỜI

 

Thế rồi cái ngày ấy vẫn đến, cái ngày mà không một ai trên thế gian này muốn cả, cái ngày mà mọi người luôn né tránh noí đến. Dù cho có muốn hay không muốn thì nó vẫn cứ đến. Ngày ngoại tôi ra đi về miền vĩnh viễn.

  Chín mươi sáu năm bôn ba trên cõi đời này, phần nhiều nhọc nhằn, khổ lụy. Ngoại một mình bươn chải nuôi lấy đàn con. Ngoại là người đàn bà cứng rắn và lanh lợi. Ngay từ thời Pháp thuộc ngoại đã ra Bắc vào Nam buôn chuyến. Những chuyến hàng đường phèn, đường phổi, mạch nha… danh tiếng một thời! Cũng như những con dân nước Việt cùng thế hệ. Ngoại đã trải qua ba cuộc chiến long trời lở đất, vận nước lênh đênh thì người dân cũng bấp bênh sống chết. Ấy vậy mà ngoại vẫn vững vàng vượt qua! những ngày còn thơ tôi vẫn thường được ngoại dắt về ngôi nhà trên quê ngủ, trên đường đi ngang qua một Đề Bô (depot) xe lửa, ở đấy có những gánh hàng rong bán quà quê nào là: chè, bánh bò, bánh bèo, sương sa, sương xáo… Tôi là đứa trẻ thích ăn  vặt hơn ăn cơm nên ngoại luôn luôn ghé mua quà cho tôi ăn. Tôi vẫn thắc mắc sao không ngủ ở ngôi nhà trong thị trấn mà cứ phải về ngôi nhà trên quê để ngủ? nhưng chẳng có ai nói rõ lý do. Sau này lớn lên tôi mới biết taị sao, taị vì  ngoại chôn giấu vàng ở trong ngôi nhà đó… Ngôi nhà trên quê yên ả biết bao, hai hàng tre kẽo kẹt mát rượi những trưa hè. Người xưa cất nhà rất khoa học, nhà nào cũng luôn luôn có một khoảng sân ở giữa nhà vừa thoáng mát, lấy ánh sáng, laị thoát nước mưa… Ngày nay những ngôi nhà hiện đaị không còn khoảng giếng trời giữa nhà tuyệt vời như vậy, kể cũng tiếc thay! Ngoại vẫn thường dạy con cái ăn chay niệm phật. Ngoại  giữ thập trai rất nghiêm túc, dù thế nào cũng không vi phạm. Những ngày rằm, mùng một ngoại lên chùa lễ Phật. Có lẽ nhờ thế mà chúng tôi lớn lên ai ai cũng tin theo Phật, có lẽ đây là cái nhân duyên ban đầu tiếp xúc Phật pháp của tôi! Tạ ơn Phật, tạ ơn ngoại!

  Chín mươi sáu năm trên cõi đời này kể cũng thượng thọ rồi, đời người vốn thoạt có thoạt không; thời gian như bóng câu qua cữa sổ. Trải qua ba cuộc chiến, trải qua những tháng năm gian khó biết bao. Nuôi cả đàn con cháu, công lao như trời bể. Ngoại ra đi tôi không về viếng ngoại được, dù lòng tha thiết muốn biết bao. Lòng tôi đau nhưng lực bất tòng tâm. Lương công nhân ngày ngày kéo thẻ không là bao, rồi thê nhi ràng buộc; với tôi còn có cái khó hơn người khác vì nhân duyên của mình không tốt, lòng người không rộng rãi laị đa nghi… Nên đành vọng từ ngoài ngàn dặm xa xôi! dẫu biết sống chết là lẽ thường nhưng khi biết ngoại ra đi lòng không sao cầm đặng!  chím mươi sáu năm trên cõi vô thường kể cũng phù du bèo bọt nếu so với chín vạn đại kiếp! Không biết đã bao bận thay hình đổi dạng, đã bao lần tử- sanh?  Chỉ có con số là vô lượng mà thôi! vẫn biết khứ, lai, hiện tại cùng thập phương hư không vẫn không ngoài một niệm nhưng cũng từ một niệm này mà trùng trùng vô tận duyên khởi sanh ra. Tôi ở ngoài muôn dặm, ngoại từ trong cố quận xa xăm nhưng lòng tôi vẫn luôn có bóng hình ngoại trong tâm. Cái thân tứ đaị vô cùng thô này làm sao mà vượt không gian thời gian để về viếng ngoại? Tôi lên chùa lễ Phật, quỳ dưới chân Như lai nguyện cầu Tam Bảo gia hộ ngoại. Cầu mà không cầu, ở đây không phải cầu tài lộc; ở đây cầu năng lực từ bi, trí huệ vô biên của chư phật, chư Bồ tát, chư Thánh hiền gia hộ cho hương linh ngoại siêu thoát, tái sanh về cảnh giới an lành, tốt đẹp!

  Thời gian như nước chảy, mây bay, như hoa rơi, lá rụng… Thấm thoắt đã ba năm trôi qua. Không biết giờ ngoại đã tái sanh về đâu? vềt Tây Phương Cực lạc, cõi thiên, cõi người?...dù về đâu thì hình bóng ngoại vẫn mãi mãi trong tâm tôi! Ngoại đã về một vùng phương ngoại, ở đấy không còn những khổ đau, phiền não của một kiếp người, nhất là thân phận con người ở những nước nhược tiểu, nơi ấy bị thao túng bởi cường quyền, nơi ấy thân phận con người càng nhỏ bé hẩm hiu và bất an biết là bao! Vùng phương ngoại ấy vẫn lung linh huyền diệu như có như không, vùng phương ngoại ấy cũng không ngoài tâm mà cũng là thật có! nếu không có cái vùng phương ngoại ấy thì ta biết sống làm sao nổi với cuộc đời này, nếu không có vùng phương ngoại ấy thì kiếp người sẽ cô đơn và khổ sở biết bao trong cõi đi về này! Thế gian này dù có ra sao đi nữa thì vùng phương ngoại vẫn lung linh trong tâm ngoại, tâm tôi, tâm tất cả mọi người! Ngoại đã về với vùng phương ngoại ấy thì ngoại hãy yên lòng, rồi mai đây sẽ đến lượt con cháu. Moị người sẽ lần lượt đến phiên mình; tử- sanh vốn bất tận. Phật từng cảm thán: ”Sinh tử bì lao” dù thế nào ta cũng phải sống, sống trong từng phút giây hiện tại, an lạc trong từng phút giây hiện tại. Không có ai có thể biết được khi nào sẽ đến phiên mình. Điều quan trọng là hãy sống hết mình cho hôm nay!

  Thời gian như nước qua cầu,  năm xưa cụ Bá Trác từng viết: ”Hồ trường nay biết rót về đâu?” người Phật tử không uống rượu nhưng “ nước xuôi làm rượu quan hà chuốc say”- (thơ Phạm Thiên Thư). Nhớ thương ngoại, nhớ quê hương thiết tha, dù sống ở hải ngoại vật chất có  đủ đầy đi nữa vẫn không sao xoá mờ hình ảnh cố quận trong tim tôi. Có danh nhân nào đó từng noí: “chỉ có thể rứt người ta ra ra khỏi quê hương chứ không thể rứt quê hương ra khỏi trái tim người”. Hải ngoại những ngày cuối năm, người ta rộn ràng cho mùa lễ. Tôi vẫn lang thang như một người đi tìm một vùng phương ngoại nào đấy trong tâm hồn tôi! Không biết nhân duyên thế nào mà những người con nước Việt lao đao lận đận vậy? người ở laị khổ, kẻ ra đi cũng chẳng hơn gì! Tâm tư vẫn đau đáu về cố quận xa xôi. Người con nước Việt vốn ngàn đời sống với quê hương, tổ tiên đâu có ai muốn làm viễn khách ly hương. Nhân duyên thì trùng trùng vô tận, kiếp người thì ngắn hạn, trí tuệ thì không… Vô tình khách vẫn lang thang trên nẻo đường đời, vẫn mơ về cố quận!

 

THƯ GỞI ĐỨC PHẬT

 

Ngày hôm nay, tháng này, năm hiện tại

Hôm nay con đang ở tại nơi đây và ngay lúc bây giờ, con viết lá thư này thành kính dâng lên đức Thế Tôn. Trước hết con đê đầu đảnh lễ Thế Tôn, đảnh lễ chư Phật ba đời mười phương cùng tất cả hiền thánh tăng. Không phải đến bây giờ con mới nhớ Phật để viết lá thư này, thật tình thì lúc nào con cũng nhớ Phật cả, tuy nhiên cũng có đôi khi con trốn Phật đi theo đám ma quân ngũ dục để làm những việc sai quấy hòng thõa mãn cái tôi ích kỷ của mình. Đấy chính là lý do mà hôm nay con viết lá thư này, cứ mỗi lần theo đám ma quân ấy, làm việc gì đó trái với thanh tịnh, hiền thiện thì con laị sanh tâm sám hối. Khổ nỗi sám hối rồi một thời gian sau laị tái phạm nữa, quả thật cái đám giặc ngũ dục lục trần nó đầy mê hoặc và quyến rũ, trong lúc ấy thì bản lĩnh của con kém quá, thiện hữu tri thức thì không có mấy ai gần, thầy thì xa… Đôi lúc con cũng tập buông bỏ nhưng buông một thời gian là laị ôm vào, cứ như thế mà xà quần chẳng tiến bộ được bao nhiêu. Thâm tâm con nhiều lần ước mong dấn bước theo con đường mà năm xưa Thế Tôn đã đi, tiếc rằng cái giấc mơ đó không đủ mạnh để cưỡng nổi những ràng buộc của cuộc đời.

 Kính lễ đức Thế Tôn, hình như người thế gian ai ai cũng dính chặt vào ngũ dục lục trần? chỉ có một ít người dõng mãnh tinh tấn mới buông được. Mà nào chỉ ngũ dục lục trần, những mối quan hệ giữa người với người cũng là một sự ràng buộc chặt chẽ và rối rắm: nào là yêu - ghét, Thương - hận, thân – sơ, ta - địch, ơn – oán…Những mối ràng buộc đầy phiền não và hệ lụy này nó trói con người ta laị với nhau, người với người “dính” nhau như những con cua bị những cái que của chúng bấu viú thành một chùm. Con người tự làm khổ mình, làm khổ lẫn nhau, cái khổ và sự ràng buộc cứ hết đời này sang đời khác. Chỉ có những kẻ vâng lời Như Lai, cắt ái từ thân, ly gia đoạn dục mới thoát khỏi những hệ lụy này.

 Kính lễ đức Thế Tôn, trong giai đoạn chánh pháp và tượng pháp có nhiều thánh nhân và hiền nhân ra đời. Con người còn dung dị, tâm địa còn tương đối thanh tịnh nên việc học đạo dễ dàng hơn hôm nay. Thời đaị hôm nay là thời mạt pháp, tài sắc nó lẫy lừng kinh khủng lắm, truyền thông và mạng xã hội đang từng phút giây thúc đẩy, khuếch trương tối đa sự đam mê ngũ dục. Nó làm cho con người ta mê muội và chìm đắm trong vũng bùn ngũ dục ấy. Con người càng ngày càng tham lam, sân hận và si mê. Chủ nghĩa vật chất thúc đẩy con người sa vào cái vòng quay điên cuồng, tham muốn hưởng thụ, manh tâm tranh đoạt, tàn bạo ra tay chiếm hữu… Con người ngày hôm nay không còn một phút giây nào để ngồi xuống thở trong an lạc. Thế rồi đaị dịch xảy ra, toàn thế giới này hoảng sợ, người ta sợ đến độ không dám laị gần nhau, từ chối bắt tay, bịt mũi, bịt miệng, thậm chí còn tạo ra cái khiên che mặt mình. Mọi người nghi kỵ nhau, ai cũng nhìn người đối diện như một mối họa. Mọi hoạt động của xã hội loài người đình trệ, hàng chục triệu người nhiễm bệnh, hơn triệu rưỡi người đã chết, hậu quả thật dễ sợ! Nhưng thưa Thế Tôn, người ta thường nói “ Trong cái rủi có cái may”, nhà Phật cũng bảo “ Hoạ phúc xoay vần”, nhà Nho nói “ Họa trung hữu phúc”… Đaị dịch tuy đáng sợ, gây ra sự đình đốn và chết chóc nhưng nó cũng có mặt tốt. Nhờ đaị dịch mà thiên nhiên có cơ hội phục hồi sau một thời gian dài bị phá hủy bởi sự khai thác tàn hại của con người: đất đai hoang hoá, núi rừng cạo sạch, đồng ruộng, sông ngòi, biển cả… ô nhiễm nghiêm trọng bởi chất thải công nghiệp, rác nhựa, hoá chất. Khí hậu ấm lên do hậu quả nhà kiếng, băng hai cực trái đất tan, nhiều vùng đất có nguy cơ bị nhấn chìm. Muôn loài thú hoang bị tàn sát để ăn thịt, làm đồ mỹ nghệ, làm thuốc, thậm chí bị giết để làm thú vui tiêu khiển với cái mỹ từ thể thao săn bắn…

 Kính lễ đức Thế Tôn, dịch bệnh là một trong “ tam tai” mà Thế Tôn đã đề cập trong kinh điển, khi nghiệp sát đến cực điểm thì sẽ xảy ra chiến tranh, dịch bệnh, mất mùa đói kém. Thế giới hôm nay khoa học kỹ thuật phát triển cao độ, sản vật dư thừa, có thể không đến nỗi đói kém (tuy nhiên đói kém vẫn thường xảy ra nhưng  cục bộ ở một số địa phương nào đó, như ở châu Phi chẳng hạn) nhưng chiến tranh thì vẫn xảy ra và càng ngày mức độ tàn bạo hơn, chết chóc nhiều hơn, tàn phá kinh khủng hơn. Người ta có thể chỉ cần bấm một cái nút nhỏ xíu cũng có thể xoá sổ một thành phố như chơi, có thể giết cả triệu người trong phút chốc. Con người hôm nay với kỹ thuật tân tiến nó kinh khủng lắm, vừa giúp ích cho sự tiện lợi của đời sống nhưng cũng vừa có thể hủy hoại tất cả. Khoa học kỹ thuât tân tiến giúp cả thế giới liên kết và dính với nhau thành một hệ thống nhưng cũng có thể giết người trong chớp mắt, hủy diệt tất cả trong phút giây. Con người trong thế giới hiện đại hôm nay càng ngày càng tham lam vô độ, lửa sân hận ngút trời, sự si mê mờ mịt. Vật chất của cải, tài sản, tiền bạc…bây giờ nhiều hơn bất cứ giai đoạn nào của lịch sử loài người nhưng sự an lạc thì tỷ lệ nghịch, loạn động liên tục xảy ra, không nơi này thì nơi khác, không lúc này thì lúc khác, không với lý do này thì với lý do khác nhưng chung quy không ngoài việc tranh đoạt ngũ dục mà ra. Mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, đông hiếp ít… dù có biện minh với bất cứ lý do gì thì đó vẫn cứ là việc tranh đoạt với sự sai xử của lòng tham, lửa hận và lý trí mê mờ.

 Kính lễ đức Thế Tôn, chúng con quả là những đứa cùng tử, xa nguồn cội đã lâu, lang thang trong cát bụi, chìm đắm trong bùn lầy, khổ sở trong cuộc đời, quờ quạng tìm đường ra mà quên đi mình có hạt minh châu trong chéo áo. Có đôi khi tỉnh ra nhưng bản tánh hèn kém không dám tin mình có của qúy đáng giá nhường ấy, hoặc giả có tin nhưng cũng chưa dám xài đến, vẫn cứ ngày đêm tìm kiếm những thứ vặt vãnh ở bên ngoài. Những gã cùng tử như chúng con, tuy có biết chút ít  lý thuyết nhưng chưa thực hành được bao nhiêu. Sáu căn mê mờ, dính chặt vào sáu trần hư dối, để rồi sáu thức mê lầm. Tuy chúng con biết sắc là giả tạm, nó vốn là tứ đại hợp thành, nó là cái đãy da hôi thối nhưng mắt thấy sắc là bập vào ngay, vì thế mà đam mê chìm đắm. Từ đó mà thọ đủ thứ, tưởng ra bao nhiêu điều kỳ quặc, hành quấy quá và cuối cùng nạp hết vào trong tạng thức. Tham dục có bao giờ thoã mãn, vì không thoã mãn mà tái sanh, bởi vậy sanh tử chẳng bao giờ dừng dứt. Vì mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý dính chặt vào sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp mà khổ mãi, khổ hoài, khổ dài lâu, khổ bất tận…Chao ơi, những gã cùng tử còn mê muội đến bao giờ mới buông bỏ được đây?

 Kính lễ đức Thế Tôn, trong số những gã cùng tử ấy cũng có một số tay lãng tử hay du tử thảng hoặc tỉnh ra, chỉ tiếc là bản lĩnh yếu ớt không đủ can đảm đi theo con đường mà Thế Tôn đã khai phá. Con thấy mình cũng có phần giống những tay du tử ấy, chỉ mon men bên lề, hoặc chỉ rón rén ngoài rìa, tuy có lúc cũng đặt được một chân lên con đường ấy nhưng chân kia dính chặt trong dòng đời, thật đáng thương mà cũng đáng trách lắm thay! Những tay du tử ấy có đôi khi vâng lời Như Lai nhưng rồi đắm đuối mắt biếc trong đời nên chẳng buông bỏ xuống để mà dấn thân. Có một điều khả dĩ có thể an ủi chút ít là những tay du tử ấy tuy là cùng tử nhưng phần nhiều đều là hiếu tử và khá thanh cao. Giá mà những tay du tử ấy buông đặng, vâng lời Như Lai mà dõng mãnh tinh tấn thì sẽ tiến xa bay cao, tiếc thay, tiếc lắm thay!

 Kính lễ đức Thế Tôn, chúng con là những gã cùng tử trong đạo, những tay du tử ngoài đời. Đời không xong mà đạo cũng chẳng tròn, dang dở giữa hai bờ, tiến thoái lừng khừng, buông nắm dùng dằng, bỏ lấy do dự…

 Kính lễ đức Thế Tôn, hôm nay, bây giờ và ở đây. Con viết bức thư này kính dâng lên Thế Tôn. Con mến mộ và kính phục đức Thế Tôn vô cùng, từ một ông hoàng tột  đỉnh cao sang quyền quý, tài sắc đủ cả, thế gian được mấy người? Vậy mà Thế Tôn buông một cách dứt khoát như vứt chiếc dép rách để xuất gia và khai phá ra con đường giải thoát. Con đê đầu đảnh lễ đức Thế Tôn, tạ thâm ân đức Thế Tôn. Ngày nay giáo pháp của đức Thế Tôn truyền khắp thiên hạ, nếu ngày xưa chỉ khu trú ở châu Á thì bây giờ có mặt từ đông sang tây: Á, Âu, Mỹ, Úc, Phi. Hôm nay có rất nhiều người da trắng và một số ít người da đen, người Mễ Tây Cơ đã buông bỏ tất cả để đi theo con đường mà đức Thế Tôn đã khai phá. Họ thực sự chỉ tam y nhất bát mà hành đạo, họ đang tán dương đức Thế Tôn, làm rạng rỡ giáo pháp của Thế Tôn. Họ không còn là những cùng tử hay du tử nữa. Họ thật sự là những Thích tử chân chính và tinh tấn. Chúng con ngưỡng mộ họ biết bao!

 Kính lễ đức Thế Tôn, Hôm nay, bây giờ và ở đây. Con muốn bộc bạch chút tâm tư, ở quê con giờ có nhiều người cũng xưng là Thích tử nhưng laị làm những việc trái với giáo pháp và bản hoài của Thế Tôn. Họ đăng đàn nói linh tinh, phò thế gia, tham chính, thân chính, cạn tình pháp lữ. Tuy miệng cũng nói lục hoà nhưng thực sự chẳng làm theo. Hàng Phật tử sơ cơ như chúng con ít nhiều hoang mang dao động, thế lực ngoại môn thừa dịp cười chê. Có những người cũng khoác cà sa, xưng Thích tử nhưng laị suy diễn làm tổn hại đến giáo pháp của Thế Tôn, lợi dụng sự ngờ nghệch của những người sơ cơ để trục lợi, nặng danh văn lợi dưỡng… Những người như thế quả thật là loạn tử đang làm ô danh hàng Thích Tử. Viết đến đây thì con giật mình, xin sám hối vì nói lỗi của người mà chẳng chịu xem laị mình. Con xin sám hối, quả thật một phút buông lung ý mà nói lỗi người. Con vẫn thường nghe “ Sự im lặng sấm sét”, đó là sự im lặng của Thế Tôn,  của chư Bồ Tát, của chư hiền thánh. Con không đủ bản lĩnh để im lặng và cũng không muốn thỏa hiệp với cái sai, cái xấu nên mới buộc miệng mà thốt ra. Con vẫn nhớ đức Thế Tôn nói: Trong đối đãi nhị nguyên mới có tốt – xấu, thiện – ác, đúng – sai,  sạch – dơ… nhưng ở cuộc đời này, thế gian này thì làm sao mà đem chơn đế áp vào tục đế cho được?

 Kính lễ đức Thế Tôn, đời hôm nay có nhiều kẻ nói nhảm dễ sợ, tuy giàu mà không sang, phú mà chẳng quý, học mà chẳng thức, đạo mà chẳng đức… trong đạo cũng có hiện tượng này, lượng mà chẳng chất, học mà không hành, nói mà không làm, xuất mà chẳng buông, chay mà chẳng tịnh…Quê con bây giờ san đồng xẻ núi để dựng những ngôi chùa mới cả chục triệu đô la, to lớn nguy nga như tử cấm thành, lộng lẫy như vương cung, tượng Tàu bày la liệt, cúng sao, giải hạn, trừ tà, trục vong… rất rầm rộ, giá cả niêm yết hẳn hoi, thậm chí cho trả góp. Nếu năm xưa Thế Tôn xem cung điện vàng son, tài sắc danh lợi như chiếc dép rách, vứt bỏ như như vứt gạch bể ngói vỡ để tu tập. Ngày nay thì bọn họ nhân danh Thế Tôn để xây chùa to Phật lớn, sơn son thếp vàng, mưu cầu danh văn lợi dưỡng, xem việc thân cận quan gia là vinh hạnh. Có những vị xuất gia tưởng đâu buông bỏ nào ngờ laị gia vào một cái gia khác, in danh thiếp với hàng chục chức danh mà thực sự chỉ là hữu danh vô thực. Thiền gia Nhật có câu chuyện kể:” Có một vị tướng quân đến viếng chùa, ông đưa tấm danh thiếp cho chú tiểu vào trình hoà thượng trụ trì. Chú tiểu quay ra bảo: hoà thượng nói không quen biết người này. Vị tướng quân lập tức lấy bút xoá đi hàng chữ đại tướng quân. Chú tiểu vào trình lần thứ hai thì hoà thượng mới cho mời vào và nói đây là người bạn cũ của ta!” Lẽ nào các vị khoác cà sa in danh thiếp với chức vụ dài thòng lòng không biết câu chuyện này chăng?

 Kính lễ đức Thế Tôn, Con laị sa đà chuyện người nữa rồi, giờ con quay laị chuyện con. Con cố gắng giữ chánh niệm ngay hiện taị ở đây và bây giờ. Chánh niệm phải đi liền với chánh tư duy, nếu chánh niện là biết và sống trọn vẹn với phút giây hiện tại, thì chánh tư duy sẽ biết biện biệt chánh – tà. Giả sử có người đang sát, đạo, dâm, vọng, tửu nhưng vẫn nói tôi sống trọn phút giây hiện tại, tôi chú tâm hoàn toàn vào việc làm ở phút giây hiện tại thì cái phút giây hiện tại ấy là tà niệm chứ đâu phải chánh niệm. Vì thế chánh niệm phải gắn liền với chánh tư duy, từ đó mở rộng ra là phải có chánh kiến, chánh tinh tấn…nếu thực hiện được cả tám cái chánh thì đến một lúc nào đó sẽ có kết quả tốt đẹp. Bát chánh đạo là con đường để chuyển phàm thành thánh, chuyển mê thành giác.

 Kính lễ đức Thế Tôn, chúng con là những gã cùng tử, có đôi khi thấy mình trong thân phận du tử, trọn chưa phải là hảo tử nhưng cũng không đến nỗi làm xấu mặt Phật môn. Chúng con có đôi khi muốn lên cô sơn hú một tiếng xem tiếng vọng bao xa trong hư không, muốn ra bể cả hét một tiếng cho dậy sóng muôn trùng. Chúng con tự nhận biết sức lực của mình. Con chim sẻ không thể làm việc của đại bàng, vịt đẹt không làm hồng hộc được. Tuy nhiên Thế Tôn vẫn dạy:” Chúng sanh, ai cũng có Phật tánh, ai cũng có thể giác ngộ”, bởi thế mà  chúng con nuôi giấc mơ như vậy! Chúng con tuy là cùng tử nhưng vẫn hằng ngưỡng mộ và vọng về Thế Tôn.

 Kính lễ đức Thế Tôn, lúc con viết búc thư này. Thời gian vẫn không ngừng trôi, cứ mỗi sát na qua đi thì cái già, cái chết gần hơn một tí. Quá khứ, hiện taị, vị lai từ một niệm tâm sanh ra, rồi mười phương hư không cũng thế, tử sanh cũng thế… Nhưng chúng con đang sống ở cái thế giới đối đãi, thế giới tục đế này nên vẫn biết và phân biệt rõ ràng khứ , lai, hiện tại. Chúng con vẫn sanh tâm yêu tốt ghét xấu, thích sanh sợ tử, phò chánh ly tà…Chúng con biết mình trí huệ mê mờ, đức hạnh không có, tinh tấn lơ mơ nên mãi vẫn chỉ là những tay du tử mà thôi, vẫn mãi mon men bên lề con đường chánh giác, bên rìa vườn hoa trang nhiêm xinh đẹp như Lăng Nghiêm. Tuy vậy cũng hưởng được chút hương vị pháp, một chút pháp vị của giải thoát nhưng đem laị an lạc và hoan hỷ lớn lắm. Chúng con đê đầu tạ thâm ân của Thế Tôn, tạ thâm ân chư Phật ba đời mười phương, tạ thâm ân tất cả chư Bồ tát, chư hiền thánh tăng.

 

NGÀY LỄ ĐỘC LẬP NGHĨ VỀ PHẬT GIÁO

 

Hàng năm cứ đến ngày lễ độc lập là cả nước lại rực rỡ cờ hoa, tưng bừng pháo bông, dân chúng đốt giàn trời luôn. Ngày lễ độc lập cũng như những ngày lễ khác, thật sự là ngày lễ của người dân. Mọi người nghỉ ngơi, đi chơi xa, thăm viếng họ hàng, hoặc ở nhà mở tiệc BBQ sum họp gia đình, ăn uống, ca hát, nhảy múa… Ngày lễ xứ này không có hội họp, không có ông to bà lớn đọc diễn văn lòng thòng ngôn từ sáo rỗng, không có khẩu hiệu đao to búa lớn, không có những buổi biểu diễn   xạo sự và tốn kém…

Ngày lễ Độc Lập, bài quốc ca được hát lên một cách hào hứng đầy tự hào, bản tuyên ngôn cũng được nhắc nhở ôn lại. Đây là bản tuyên ngôn Độc Lập của Mỹ lừng danh thế giới được viết bởi John Adams, ngày nay bản tuyên ngôn này trở thành một di sản lịch sử, văn hóa cũa Mỹ cũng như của nhân loại. Tinh thần chính của bản tuyên ngôn:” Mọi người sinh ra bình đẳng. Ai cũng có quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc… chính phủ có trách nhiệm bảo vệ các quyền này. Người dân có trách nhiệm bảo vệ các quyền này cho chính họ...”

Bây giờ ta thử nhìn dưới lăng kính Phật giáo xem sao. Đạo Phật khai sáng bởi đức bổn sư Thích Ca Mâu Ni. Ngài vì tình thương lớn mà buông xả đời tư để đi tìm một con đường giải thoát cho loài người. Ngài đã đi và đã đến. Giáo pháp của ngài đề cao tình thương, tôn trọng sự sống và mục đích tối hậu là giác ngộ giải thoát.

Chúng ta đều biết, xã hội Ấn cổ đại ( và cả một phần nào đó bây giờ) với chế độ đẳng cấp vô cùng khắc nghiệt và tàn bạo, có thể nói khắc nghiệt nhất thế gian này. Người của đẳng cấp dưới làm nô lệ cho đẳng cấp trên, bị bóc lột, đánh đập và thậm chí bị giết chết nếu chỉ vì vô tình để cái bóng của họ chạm phải người của đẳng cấp trên. Người Ấn mặc nhiên chấp nhận cái thuyết của Hindu giáo: tầng lớp trên Bà La Môn, Sát Đế Lợi… sinh ra từ đầu và miệng của thần Brahma nên là quý tộc thượng lưu. còn tầng lớp nô lệ, thợ thuyền sanh ra từ bàn chân của thần Brahma nên là nô lệ phục vụ giai cấp trên vĩnh viễn như thế. Sanh ra như thế và chết đi cũng như thế, đời truyền đời như thế. Đức Phật đã bác bỏ thuyết này, ngài tuyên bố:” Không có giai cấp trong khi nước mắt cùng mặn và dòng máu cùng đỏ”. Trong kinh Suy niệm về nghiệp dạy:” Không phải do dòng dõi thọ sanh mà một người cao quý hay thấp hèn. Chính hành vi tạo tác khiến người thấp hèn hay cao quý”. Trong suốt cuộc đời hoằng hóa, ngài đã độ vô số người, không phân biệt giàu, nghèo, sang, hèn, quý tiện. Trong giáo pháp cũng dạy:” mọi người bình đẳng, chỉ có nghiệp mới sanh ra sự dị biệt cao thấp trong đời..” Con người sanh ra với nhân dáng như thế nào, hoàn cảnh sống như thế nào, trí huệ ra sao… hoàn toàn là do chính nghiệp báo của mình tạo ra, không có thượng đế hay thần thánh nào có thể ban phước hay giáng họa cả.

Mọi người sinh ra bình đẳng và có quyền sống như nhau, không ai có quyền hay tự cho mình cái quyền tước đoạt mạng sống của kẻ khác. Đức Phật cảnh báo:” Chính mình làm việc ác nên khiến mình uế trước, chính mình làm việc lành nên khiến mình thanh tịnh”. Quyền sống thiêng liêng, giết người tức là đoạt đi một cơ hội học đạo giải thoát của một con người. Đức Phật còn sâu xa hơn, bao la, vĩ đại hơn không chỉ quyền sống của con người mà còn tôn trọng quyền sống của muôn loài sinh vật. Ngài chế ra giới cấm sát sanh, khuyến khích ăn chay, dạy phóng sanh. Trong ba tháng mùa mưa phải an cư để khỏi phải đạp chết côn trùng nhỏ nhít và mần non… Người thấp kém vì phước báo ít, động vật muôn loài vì hết phước và vì nghiệp mà đọa… Tuy nhưng người và vật đều tham sống sợ chết vì thế không được giết, phải tôn trọng quyền sống của người và cả vật.

Con người sanh ra ai cũng muốn tự do, đây là cái quyền của con người. Tuy nhiên lịch sử loài người cho thấy, dưới những chế độ chiếm hữu nô lệ, phong kiến hay những thể chế côn đồ, độc tài, thần quyền… quyền tự do bị cướp , bị tước đoạt mất. Nước Mỹ khai sinh và bản tuyên ngôn đã dõng dạc công nhận quyền tự do của con người. Chính phủ có trách nhiệm bảo vệ và người dân cũng phải bảo vệ quyền tự do của chính mình. Nước Mỹđã thực hiện một cuộc cách mạng lớn trong lịch sử, công nhận và tôn trọng quyền tự do của con người ( cũng chính vì điều này mà đã xảy ra cuộc nội chiến và cuối cùng đã giải phóng nô lệ hòan toàn). Quyền tự do có nhiều thứ: Tự do sinh sống, tự do hội họp, tự do ngôn luận, tự do di trú, tự do tín ngưỡng, tự do sáng tạo, tự do tư tưởng... Trong đạo Phật chữ tự do còn tuyệt vời hơn, vĩ đại hơn, rốt ráo hơn, giải phóng con người thoát khỏi khổ đau, ràng buộc của thế gian, tự do tuyệt đối không còn sanh tử luân hồi. Đạo Phật tôn trọng tự do lựa chọn đức tin của mọi người, khuyến khích mọi người kiểm nghiệm và thực hành chứ không phải tin một cách mù quáng. Đạo Phật không có giáo điều, không bắt buộc ai phải theo hay buộc  ai phải tuân thủ phép tắc điều lệ… Mọi người tự do lựa chọn. Tự do gia nhập và tự do rời bỏ… tất cả phụ thuộc vào cái duyên của chính người ấy! Tự do lựa chọn tương lai của mình, hạnh phúc hay khổ đau, thăng hay đọa đều do chính mình:” Chính mình làm việc ác nên khiến mình uế trược, chính mình làm việc thiện nên kiến mình thanh tịnh, thanh tịnh hay uế trược đều do chính mình, khôgn ai có thể làm cho người khác uế trượcc  hay thanh tịnh” ( Kinh Suy niệm về nghiệp). Đạo Phật giải phóng con người khỏi thế quyền và thần quyền, giải phóng con ngườ khỏi ràng buộc vật chất ngũ dục lục trần. Đạo Phật đã làm rốt ráo, chỉ con đường đi đến tự do tuyệt đối cho mọi người.

Chữ hạnh phúc rất rộng tùy quan niệm của mỗi người, mỗi thời đại và mỗi tập quán văn hóa, nhưng nhìn chung thì cho hạnh phúc không ngoài hưởng thụ ngũ dục lục trần, thõa mãn cái mình mong muốn. Người dân Mỹ quả là hạnh phúc so với người dân ở các nước nghèo đói, lạc hậu hay độc tài. Người Mỹ hạnh phúc vì đời sống vật chất quá phong phú, phương tiện hỗ trợ quá hiện đại. Họ hạnh phúc vì được pháp luật công nhận và bảo vệ quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc của họ. Cái hạnh phúc của con người có điểm chung là: Có tài sản, có gia đình, có đời sống đầy đủ, được gắn bó với người yêu thương… Đạo Phật quan niệm hạnh phúc khác với quan niệm thế gian, không đặt nặng vào sự phụ thuộc vật chất, thậm chí còn buông xả mới là hạnh phúc, với một mức phát triển cao hơn nữa là phải cắt giảm những mối ràng buộc… Cái hạnh phúc tuyệt đối chính là niết bàn tịch tĩnh. Nói niết bàn là hạnh phúc cũng là một cách nói thô thiển, không chính xác nhưng ngôn ngữ con người chỉ có thể nói thế không thể nào hơn được. Niết bàn là một cảnh giới vừa là một trạng thái tâm thức, thật khó mà giải nghĩa, diễn tả hay cảm nhận được. Hạnh phúc của Phật giáo chính là:” Lánh xa kẻ xấu ác/ Thân cận bậc trí hiền/ Tôn kính bậc đáng kính/ Sống trong môi trường tốt/ Được tạo tác nhân lành/ Được đi trên đường chánh/ Có học có nghề hay/ Biết hành trì giới luật/ Biết nói lời ái ngữ/ Được cung phụng mẹ cha/ Yêu thương gia đình mình/ Được hành nghề thích hợp/ Biết khiêm cung lễ độ/ Tri túc và biết ơn/ Không bỏ dịp học đạo/ Biết kiên trì phục thiện/Thân cận giới xuất gia/Dự pháp đàm học hỏi/ Sống tinh cần tỉnh thúc/ Học chân lý nhiệm màu/ Thực chứng được niết bàn/ Sống ngay thẳng bố thì/ Giúp quyến thuộc thân bằng/ Hành xử không lỗi lầm/ Chung đụng trong nhân gian/ Tâm không hề ô nhiễm/ Đi đâu cũng an toàn/ Tới đâu cũng vững mạnh….( Kinh hạnh Phúc)

Ngày lễ rộn ràng vui nhộn rồi cũng qua, cuộc chơi tưng bừng rồi cũng lắng xuống. Mọi người lại quay về với công việc hàng ngày. Mọi người ai cũng cần phải làm việc để nuôi dưỡng bản thân mình và gia đình mình. Mình Sống bình đẳng, sống tự do, sống hạnh phúc, mình còn phải “ Sống và để kẻ khác sống” ( Lời của một vị thủ tướng Ấn Độ)

 

 

SEN NỞ TRÊN SA MẠC

   Đạo Phật ra đời cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ, xuất xứ ban đầu chỉ nội trong xứ Ấn Độ nhưng dần dà lan truyền sang các quốc gia khác của Á châu như: Trung hoa, Nhật Bản, Việt Nam, Thailand, laos, Sri Lanka… Phật giáo truyền đến đâu thì hoà hợp với văn hoá, phong tục tập quán ở đấy mà dần dà hình thành những trường phái khác nhau, đó là tính khế cơ, khế lý của Phật pháp. Đạo Phật cũng như mọi pháp trên thế gian, cũng không thể nằm ngoài quá trình “ Thành- baị- hoại- không” hay “ Sinh- trụ - dị- diệt”. Phật giáo có thời huy hoàng rực rỡ trên con đường tơ lụa,  từng là tôn giáo chính ở những quốc gia vùng Trung Á như: Afghanistan, Pakistan… Trước khi Hồi giáo thống lĩnh những nơi này.

  Giáo lý Phật tựu trung là giác ngộ con người, chỉ ra lẽ thật của cuộc đời và con đường giải thoát. Như kinh Pháp Hoa đã nói: Phật ra đời cũng vì một đaị sự nhân duyên là giúp chúng sanh “ Ngộ nhập Phật tri kiến”!  Đạo Phật là đạo giải thoát, giải thoát ngũ dục, giải thoát những tri kiến mê lầm, giaỉ thoát mọi ràng buộc mà con người tự buộc mình và ràng buộc lẫn nhau. Đến  khoảng thế kỷ thứ X- XII thì Hồi giáo tấn công và tiêu diệt toàn bộ Phật giáo ở Ấn Độ. Mười ngàn tu sĩ bị giết, đaị học Nalanda và toàn bộ chùa viện bị phá huỷ. Phật giáo các vùng Trung Á cũng chịu chung số phận như vậy! Riệng Phật giáo ở các nước khác cũng nhiều thăng trầm theo dòng lịch sử. Nếu gặp vua sáng tôi hiền thì Phật giáo phát triển, nếu gặp thời hôn quân thì cũng nhiều lần bị bách haị (thời Hồng Võ bên Tàu, Thời Lê Hy Tông ở Việt, thời hiện đaị cũng có giai đọan phá chùa…)

  Ở các xứ Ả Rập, Hồi giáo là quốc giáo. Họ vô cùng độc đoán và khắc nghiệt. Học không chấp nhận những gì nói khác với kinh Quoran. Khắc nghiệt đến độ: Chỉ có thượng đế Alah của họ mới có khuôn mặt người. Học từng vạt mặc các pho tượng khác tôn giáo với họ. Ấy vậy mà hôm nay ở đây mọc lên một ngôi chùa Phật giáo ở Dubai (UAE). Một điều không thể tưởng, không thể tin…nếu không có một đoạn clip của Khalid Al Amei làm bằng chứng. Quả thật đã có một ngôi chùa Phật giáo do các tu sĩ đến từ Sri Lanka thành lập và hoằng pháp ở đây. Các tu sĩ Sri Lanka theo dòng Nam truyền này giữ giới tu hành rất tinh tấn. Ở ngôi chùa này có một cây Bồ Đề đã cao to ( Vốn chiếc từ cây gốc ở Sri Lanka ). Ngôi chùa mang tên: MAHAMEVNAWA BUDDHIST MONASTERY. Hiện ở UAE ( các tiểu vương quốc Arab) có khoảng năm trăm ngàn Phật tử, phần lớn đến từ Sri Lanka. Họ là những chuyện gia, công nhân, người giúp việc nhà… đến sống là lao động, cũng có một số ít người bản xứ. Khalid Al Ameri đã đến ngôi chùa này làm phóng sự và tìm hiểu về đaọ Phật. Anh ta được các vị tu sĩ ở đây cho biết:

  - Phần lớn thời gian chúng tôi tu tập và cầu nguyện ở trước tượng Phật Thích Ca Mâu Ni (người khai sáng đạo Phật) chúng tôi tu thiền Minh sát. Dâng cúng hoa, đèn, nước tinh khiết cà cả thức ăn  .

  Khalid Al Ameri chỉ vào những bức tranh hai bên chánh điện hoỉ thì các sư giải thích đó là những đồ đệ của đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Anh ta laị chỉ vào tủ sách thì được giải thích: ngoài kinh điển còn có các sách dạy về bổn phận của các Phật tử, hoặc cả sách noí về bổn phận người nội trợ (người giúp việc nhà…) Anh Khalid Al Ameri tỏ ra rất thích thú và hoan hỷ lắm. Anh ta nhiều lần noí đến từ khoan dung (tolerance)!

  Ngôi chùa vốn là một tòa biệt thự sơn trắng, thành lập từ năm 1999. Hiện tại có hai vị tu sĩ thường trú ở đây, họ đến từ Sri Lanka. Hai vị tu sĩ giữ giới rất nghiêm túc, ngày ăn một bữa, tụng niệm bằng tiếng Sinhalese ( một ngôn ngữ của người Sri Lanka), thường giảng kinh thuyết pháp cho Phật tử. Ngày thường các Phật tử phải đi làm và họ thường đến chùa vào những ngày cuối tuần (có lẽ cũng giống như người Việt hải ngoại, ngôi chùa không chỉ là nơi tu tập mà còn là một mảnh hồn của quê hương cho người xa xứ. Ngôi chùa là nơi để người xa quê  tìm về!)

 Mái chùa che chở hồn dân tộc

 Nếp sống muôn đời của tổ tông

Huyền Không-

 Hiện tại ngôi chùa quá nhỏ bé so với số lượng Phật tử đến tu tập. Họ đang xin phép chính quyền sở taị để xây dựng một ngôi chùa khác với quy mô rộng lớn hơn để đủ sức dung chứa lượng Phật tử ngày càng tăng. Tuy số lượng Phật tử đông đảo nhưng mọi việc tu tập, sinh hoạt… đều giữ gìn kín đáo sau hai cánh cổng khép chặt, mọi việc đều hết sức nhẹ nhàng tế nhị ( có lẽ để tránh sự xung động, sự “ngứa mắt” của những người bản xứ hay những thành phần cực đoan quá khích)

  Khi tôi xem cái phóng sự của Khalid Al Ameri cũng rất ngặc nhiên và thích thú vô cùng! Sa mạc vốn khắc nghiệt, đạo Hồi vốn rất hẹp hòi và bảo thủ…thiên nhiên và xã hội đã tạo nên cái tính cách mãnh liệt đến độ lạnh lùng tàn nhẫn, sẵn sàng tiêu diệt đối thủ không thương tiếc. Người Arab rất bảo thủ và cuồng tín, hễ điều gì mà khác với đức tin của họ, khác với tôn chỉ của Hồi giáo… thì bị triệt hạ ngay lập tức. Xã hội hôm nay dù khoa học kỹ thuật và văn minh phát triển cao độ nhưng họ vẫn giữ nguyên những giáo điều cũ kỹ, lạc hậu và phi lý!  ấy vậy mà một ngôi chùa Phật giáo với hàng trăm ngàn Phật tử đã xuất hiện ở giữa thủ đô Dubai. Thật vô tiền khoáng hậu, xưa nay chưa từng ai dám nghĩ đến! quả thật điều naỳ là một sự kỳ diệu của hai chữ khoan dung mà Khalid Al Ameri đã nói đi nói laị nhiều lần! Hy vọng trí huệ và năng lương từ bi từ ngôi chùa này sẽ như những gịot cam lộ rưới trên đất sa mạc Arab. Hy vọng làn sóng từ bi sẽ lan tỏa trong đất trời đấy nắng gió khắc nghiệt của vùng Ả rập này! Kinh sách thường ví hoa sen trong biển lửa ( hoả diệm hoá hồng liên), hy vọng đóa hoa sen tinh khiết sẽ phát quang tỏa hương để tưới tẩm tâm hồn người.

 

 

TA NGHE MÙA XUÂN HÁT

 

Hải ngoại vẫn còn tuyết phủ băng giăng, không khí lạnh căm, cây cối trơ trụi lá, cành cây khẳng khiu như muôn ức cánh tay xương vươn lên trên hư không. Phần lớn chim muông di trú về miền nắng ấm, chỉ còn lại những con chim hồng y (cardinal) màu đỏ cam nhảy lanh chanh chuyền cành. Trời mùa đông rét mướt, chỉ có họ tùng, thông… là xanh biếc, mặc dù lạnh vậy nhưng bầu trời vẫn xanh thăm thẳm như tự thuở hồng hoang, nắng vẫn vàng ươm và mây trắng thong dong chẳng biết tự bao giờ.

Gã du tử thơ thẩn trong sân vườn, bất chợt nhìn lên những cành đào, trời! Nhiều quá, bao nhiêu là nụ hoa, một, hai, ba… vô số nụ! Những nụ hoa đào tròn như viên tể, hườn của tiệm thuốc bắc, lớp vỏ nụ màu nâu lẫn xanh. Một vài nụ đã hé lớp lụa hồng bên trong.

Oh! Dấu hiệu của mùa xuân, giờ này cố quận đã là tháng chạp xuân nhưng hải ngoại mới giữa đông. Mùa xuân phương đông là mùa xuân đoàn tụ sum họp gia đình, là mùa yêu thương mọi người tạm gác những tranh chấp bất đồng, chí ít cũng ba ngày tết. Mùa xuân là mùa quay về cội nguồn, mùa của muôn hoa khoe sắc hương, mùa của đất trời khởi sự thanh tân.

Nụ hoa đào đang ngậm đông để đợi xuân sang, giữa mùa đông, gã du tử đã nghe mùa xuân hát văng vẳng trong tâm, rồi đây khi xuân đến, khúc xuân ca sẽ mượt mà trên thảo nguyên, sẽ xanh rì rừng núi, sẽ vượt qua những triền đồi và sẽ dài theo những cung đường bất tận. Mùa xuân của trời đất thiên nhiên chứ chẳng của riêng ai. Mùa xuân của muôn loài vạn vật nào đâu chỉ riêng của con người. Mỗi quốc độ, mỗi chủng tộc khác nhau thì có nét xuân riêng của mình, điều ấy phụ thuộc vào văn hóa, tập quán và phong tục truyền thống của chính họ.

Tộc Việt với cội nguồn văn minh nông nghiệp lúa nước. Mùa xuân in dấu ấn rất sâu đậm, có thể nói là đẹp nhất, nhiều lễ hội nhất và cũng mang nhiều sắc thái tâm linh hơn những mùa kia. Mùa xuân tộc việt không thể thiếu tiếng pháo rộn ràng, không thể không có chiếu chèo sân đình, hát bội đêm xuân hay câu hò man mác trên sông nước. Mùa xuân dân tộc gắn liền với việc lên chùa lễ Phật, đốt nén hương trầm thầm tưởng nhớ tổ tiên, ông bà , cha mẹ. Mùa xuân không thể không có những hội chợ lô tô, bầu cua cá cọp… dù là ở chốn thôn quê hay nơi thành đô nhộn nhịp. Tiếng hát mùa xuân vút cao bay xa mênh mông trong đất trời. Lòng người hoan hỷ biết bao, cây cỏ hồi sinh. Động vật muôn loài quay về hay bừng tỉnh sau giấc ngủ đông. Mùa xuân rực rỡ hoa đào, hoa đào hồng cả một góc trời. Thành Ất Lăng là xứ sở của hoa đào, hoa đào có khắp mọi nơi từ rừng núi, đồi nương, trang trại, đồng quê cho đến phố phường.

Không biết cành đào Thăng Long ngày xưa Nguyễn Huệ gởi vào Phú Xuân cho Ngọc Hân có khác gì với hoa đào hôm nay? Chắc là không! Hoa đào nào cũng thế, lịch sử ba trăm năm tuy có dài nhưng so với dòng thời gian bất tận của sự thành-trụ-hoại-không thì chẳng có là bao. Có thể xem như là một giấc mơ, một cái chớp mắt mà thôi. Năm xưa, sau khi dẹp xong giặc Mãn Thanh, Quang Trung kéo quân vào Thăng Long, lúc bấy giờ Bắc hà còn rét lắm, mùa xuân dù đã sang nhưng cái rét Bắc Hà không dễ chịu chút nào. Cành đào gởi vào Phú Xuân là hoa của tình yêu, là báo tin thắng trận, là biểu tương xuân sang. Cành đào vào nam mang theo tiếng hát mùa xuân đi suốt dặm dài đất nước.

Ngày xưa khi còn nhỏ, gã du tử sinh trưởng lớn lên ở phương nam nên chỉ biết có hoa mai, thích hoa mai, yêu hoa mai. Hoa mai vàng rực rỡ một khoảnh sân, sáng cả phòng khách, hoa mai mang lại cả mùa xuân. Ông tổ tuồng Đào Tấn từng yêu hoa mai một cách sâu đậm, lấy hiệu là Mộng Mai và Mai Tăng. Ông dặn dò  con cháu sau khi mình qua đời thì chôn ở núi Huỳnh Mai, huỳnh mai chính là hoàng mai, mai vàng vì kỵ húy nên chữ hoàng chế ra thành chữ huỳnh.

Thuở ấy quốc gia còn cấm chợ ngăn sông, giao thương ách tắc, đường xá ngăn ngại, xe cộ thiếu thốn nên cả một dải phương nam chỉ biết có hoa mai (và người phương bắc chỉ biết hoa đào). Người phương nam mấy ai biết hoa đào? Càng chẳng có hoa đào để chưng, nếu có biết hoa đào chẳng qua là qua tranh ảnh sách vở mà thôi! Thuở ấy mấy ai ở phương nam sắm được cành đào để chưng xuân? Bởi vậy người phương nam gắn liền với hoa mai và người phương bắc với hoa đào. Sau này ra hải ngoại, rồi trở thành con dân của thành Ất Lăng, gã du tử mới thấy hoa đào sao đẹp thế và cũng từ ấy đem lòng yêu hoa đào, mê hoa đào. Tâm vốn tràn ngập hình ảnh hoa mai giờ thêm hoa đào, vì thế tâm càng phong phú hơn, càng khiến cho tiếng hát mùa xuân bay cao và bay xa hơn. Tâm vốn không thiếu không thừa, không sanh không diệt, không dơ không sạch có thêm hình ảnh hoa đào cũng chẳng đầy, hải ngoại không có hoa mai cũng chẳng vì vậy mà vơi. Tâm vốn diệu kỳ như thế!

Mùa xuân muôn sắc hương hoa, mùa hạ xanh cây lá, mùa thu vàng trời đất, mùa đông trắng tuyết giăng… cũng không ngoài một niệm tâm. Sanh yêu ghét cũng từ tâm, ôm lấy hay buông bỏ cũng tự tâm , tỉnh hay mê không ngoài một niệm… để rồi thăng hay đọa đều chính cái tâm mình. Trời còn rét mướt nhưng cánh đào hồng mùa xuân đang tượng hình trong nụ. Em chưa phải là mỹ nhân nhan như ngọc nhưng cũng đủ để gọi là mắt biếc má đào. Xuân về tiếng hát vút cao, lòng người xôn xao, em áo dài tha thướt lên chùa lễ, trẩy hội xuân. Tà áo dài, gót hài thêu của em tô điểm thêm nhan sắc mùa xuân. Xuân tộc Việt không thể thiếu những tà áo dài. Xã hội dù có văn minh tiến bộ đến đâu cũng không thể vắng những tà áo dài tha thướt trong mùa xuân. Đã mấy trăm năm qua, tà áo dài như một biểu tượng của trang phục dân tộc, một biểu tượng sống động trong những dịp lễ lạc, hội hè, tết tư… Vì thế mùa xuân không thể thiếu những tà áo dài. Tà áo dài cũng đã trở nên quen thuộc trong con mắt của thiên hạ, hễ nơi nào có người của tộc Việt thì nơi ấy có áo dài, nhất là mỗi độ xuân sang. Thật khó mà tưởng tượng xuân của tộc Việt không có những ta áo dài của em, của các bà các cô và cả của các cụ, thậm chí các anh chàng đỏm dángcũng diện áo dài trong dịp tết. Nói đến xuân hay tết dân tộc ắt nhớ đến hoa đào, hoa mai, bánh tét, pháo, lân… và dĩ nhiên không thể thiếu những tà áo dài.

Thành Ất Lăng thuộc miền đông nam của xứ Cờ Hoa, tuy vạn dặm xa nguồn cội nhưng mỗi mùa xuân sang vẫn bừng lên những tà áo dài xuân sắc. Những tà áo dài nhiều màu sắc, đa kiểu cách, lắm họa tiết hoa văn tha thướt lễ chùa, tung tăng các hội xuân và rộn ràng khắp các khu thương mại của cộng đồng Á châu. Thành Ất Lăng là thủ phủ của liên minh các bang miền nam thời nội chiến, giờ nó vẫn là thủ phủ của miền đông nam xứ Cờ Hoa. Con cháu tộc Việt di tản tụ về đây rất đông, tuy nhiên không thể bằng thủ đô tỵ nạm California và thủ đô cowboy Texas. Con cháu tộc Việt ở đây góp thêm cho xứ sở này một nét xuân mới mang màu sắc phương đông. Mỗi độ xuân về là tràn ngập bánh kẹo, rim mứt, đặc sản , hoa cúc, hoa đào, áo dài, lân, pháo… Ở quê nhà vẫn cấm đốt pháo nhưng ở đây pháo nổ giàn trời, tiếng pháo báo hiệu mùa xuân sang, biểu thị xuân đang hiện tại, gợi nhớ những mùa xuân xưa.

Mùa xuân là nguồn cảm hứng bất tận cho các văn sĩ, thi sĩ, nhạc sĩ, họa sĩ… Có vô số những tác phẩm về chủ đề xuân, ca ngợi xuân, tán tụng xuân. Người thế gian ai mà chẳng yêu thích mùa xuân, không có tâm hồn nào mà vô cảm, không lay động khi xuân sang. Ngay cả những bậc tu hành đã lánh đời, ly gia đoạn dục, lìa bỏ trần cảnh như những thiền sư, ấy vậy mà cũng có những cảm xúc để trước tác về mùa xuân. Bài kệ “Cáo tật thị chúng” của Mãn Giác thiền sư là một bài kệ - thi rất quen thuộc và phổ cập, hầu như người Việt nào yêu thơ văn cũng đều biết:

Xuân khứ bách hoa lạc

Xuân đáo bách hoa khai

Sự trục nhãn tiền quá

Lão tòng đầu thượng lai

Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận

Đình tiền tạc dạ nhất chi mai

Bài kệ này cũng có thể xem như một bài thơ, một điển hình mẫu mực về xuân, mỗi mùa xuân về thiên hạ lại đem bài kệ-thi này ra ngâm nga, phân tích, xưng tán… Thiền sư nhìn nhận mùa xuân đến đi đúng với bản chất của tự nhiên ( look as is), không có dính mắc, không phán xét, không yêu ghét, không níu kéo... Xuân là tự nhiên, trong xuân vốn hàm tàng các mùa kia và những mùa kia cũng đã có xuân từ trong rồi. Xuân đến hoa nở, xuân qua hoa tàn là lẽ tự nhiên, với người ngộ đạo thì ngay cả xuân tàn cũng đã sẵn “Nhất chi mai” từ đêm qua. Cái nhìn xuân của vị thiền sư sâu sắc hơn người thế gian, hơn những nghệ sĩ ngoài đời, cái nhìn sâu sắc ( insight) và chánh niệm ( mindfulness) của người hiểu đạo, chứng ngộ lẽ sanh-trụ-dị-diệt. Cái nhìn của người đang ở trong phút giây hiện tại của mùa xuân, mượn cảnh xuân và chuyện có bệnh để cảnh tỉnh, giáo dưỡng đồ chúng về lẽ vô thường, sự bất sanh bất diệt của chơn tâm Phật tánh. Sanh-diệt, đến-đi, cũ-mới… là sự đối đãi của thế gian, của vọng tâm. Cái tánh giác nó vẫn thường hằng, vẫn thường trụ,vẫn bất sanh bất diệt.

Gã du tử từ phương ngoại xa xôi lòng hướng về cố quận, nhớ mái chùa quê, nhớ những con đường phố thị đông vui, nhớ tiếng pháo giao thừa, nhớ những mùa xuân xưa. Bóng dáng xuân, âm thanh xuân, hương vị xuân vẫn luôn tràn ngập trong tâm hồn, bởi vậy lúc cao hứng khi xuân sang gã du tử cũng tập tễnh mần thơ:

Xuân đất trời bây giờ mới đến

Trong lòng tôi xuân đến đã lâu rồi”- TLTP

Gã du tử rong ruổi trên đường đời, vất vả với đường mưu sinh, lang thang lặng lẽ giữa đường sanh tử, mò mẫn rụt rè bước vào đường thơ văn… Dù cho đời có thế nào đi nữa, dù xã hội có xê dịch đổi thay, dù thiên nhiên biến dịch không ngừng. Lòng gã du tử vẫn hướng về quê hương, trái tim vẫn thổn thức cùng cái đẹp, tâm hồn lân mẫn vẫn yêu thương dân tộc mình, nhất là trân quý những con người sống vì nước vì dân. Hải ngoại giữa mùa đông nhưng đất xưa của mình đã là tháng chạp xuân. Gã du tử dường như nghe văng vẳng âm hưởng thiết tha của xuân xưa, tiếng thì thầm hy vọng của xuân mai và lời ca thống thiết thậm chí ai oán của xuân hiện tại:

Tháng chạp đã vào xuân

Mai, đào đơm nụ

Muôn hoa trái tụ hương

Mùa xuân thấp thoáng trên vạn nẻo đường

Đất trời dường như hóa thanh tân

Tháng chạp thương người vất vả

Ngược xuôi nặng nợ cơm áo mưu sinh

Người phương xa nặng tình

Lòng hướng về nguồn cội quê hương

Tháp chạp thương người trong ngục tối

Những người hiên ngang không cúi đầu quỳ gối

Dám nói lên lời thật trong đời

Những tù nhân lương tâm, dân oan, bất đồng chính kiến…

Hình án tàn độc oan khiên

Mùa xuân đến với muôn loài nhưng không thể vào ngục tối

Vì ngăn cản của những kẻ có trái tim lạnh giá hơn cả song sắt nhà giam

Những kẻ nắm quyền sinh sát trong tay

Tâm không hề mảy may rung động

Như dế giun nào biết đất rộng trời cao

Mùa xuân ơi tiếng hát bay xa

Niềm vui đến muôn nhà

Mùa xuân núi rừng đẹp lắm

nhưng trẻ vùng cao không cơm ăn áo ấm

Người lên nương dỡ đá trồng ngô

Những trường học tranh tre vách nứa

Gió mùa xuân rét cứa thịt da

Như thế đấy, mùa xuân về trên quê hương ta, lời ca bay cao bay xa, lời ca không chỉ ca ngợi cái đẹp mà còn là xưng tụng nhân văn. Lời mùa xuân hát cao vút trong đất trời nhưng vẫn có những cung trầm, trầm vì nước non nhiều hung hiểm, xã hội nhiễu nhương và có nhiều những con người quả cảm vì nước vì dân mà phải chịu cảnh tù đày, giam cầm, khủng bố. Những con người ấy đã hy sinh tuổi xuân, mùa xuân riêng của mình vì một mùa xuân tươi sáng hơn cho đồng loại.

***

 

Những thập niên ba mươi, bốn mươi của thế kỷ trước, khi đất nước còn bị đô hộ bởi thực dân Pháp. Thi  sĩ Chế Lan Viên đã viết:

Tôi có chờ đâu có đợi đâu

Đem chi xuân lại gợi thêm sầu

Có lẽ trong hoàn cảnh tối tăm của đất nước, dân tộc bị nô lệ ngoại bang, tương lai không có tia hy vọng nào bởi vậy thi sĩ nhìn mùa xuân ảm đạm, buồn bã, đầy ưu sầu, thậm chí chẳng còn mong chi xuân. Hoàn cảnh xã hội, đất nước tác động mạnh vào tâm trí của nhà thơ. Không chỉ thời Pháp thuộc tộc Việt có những mùa xuân bi thảm mà cả ngàn năm bắc thuộc đã có bao nhiêu mùa xuân sầu thảm. Thời hiện đại cũng có xuân Mậu Thân đầy máu lửa, đạn bom, chết chóc. Xuân Mậu thân là một mùa xuân đen tối, bi thảm, oan khốc của người Việt phương nam, chẳng những công chức, viên chức mà ngay cả thường dân cũng bị thảm sát.

Sử tộc Việt tính từ năm đầu công nguyên đến nay cũng đã hơn hai ngàn năm, ngoài những mùa xuân sầu thảm đau thương thì cũng có những mùa xuân vô cùng rực rỡ hào hùng, những mùa xuân oanh liệt được ghi vào sử sách: Mùa xuân năm 40 – 42 hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa, đánh đuổi Tô Định chạy về phương bắc, lấy lại sáu mươi lăm thành, đóng đô ở Mê Linh. Nhi nữ quần hồng tộc Việt đã khiến cho mày râu Tàu sợ vỡ mật, chạy trối chết. Mùa xuân Mậu Thìn Triệu Thị Trinh dựng cờ khởi nghĩa, đánh cho giăc Ngô những trận long trời lở đất. Bà Triệu cỡi voi, chít khăn vàng oai phong lẫm liệt khiến giặc Ngô sợ khiếp vía, bảo nhau:

Hoành qua đường hổ dị

Đối diện bà vương nan

Mùa xuân Giáp Tý, sau khi đánh đuổi giặc Lương, Lý Bí xưng Nam Việt Đế và dựng nước Vạn Xuân, mong mỏi độc lập dân tộc, đất nước trường tồn. Lý Bí là người Việt đầu tiên xưng đế, kế tiếp có Mai Thúc Loan cũng xưng Đế. Mùa xuân Hoa Lư Đinh Tiên Hoàng Đế lập nước Đại Cồ Việt. Mùa xuân Thăng Long bắt đầu từ triều đại nhà Lý mở ra một trang sử mới của dân tộc, độc lập, tự chủ, văn hiến. Mùa xuân thăng Long của nhà Lý với hào khí Đông A của nhà Trần là những mùa xuân huy hoàng của lịch sử cổ đại Việt Nam. Những chiến công Như Nguyệt, Bạch Đằng, Vạn Kiếp, Đông Bộ Đầu… là cả một quá khứ hào hùng. Mùa xuân Yên Tử lại mở ra một cung trời ảo diệu, các vua Trần sau khi an định đất nước đã từ bỏ ngai vàng để lên đây tu hành và lập ra dòng thiền thuần Việt, mở ra một nhánh mới trong dòng Phật sử Việt. Mùa xuân Mậu Tuất, Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa Lam Sơn, trải qua mười năm gian khó nằm gai nếm mật mới đánh đuổi được giặc Minh để khôi phục lại nền độc lập của quốc gia. Mùa xuân Kỷ Dậu, vua Quang Trung và quân Tây Sơn tiêu diệt hai mươi chín vạn quân Thanh. Mùng năm tết Quang Trung cỡi voi vào Thăng Long với áo bào và khăn vàng còn sạm thuốc súng. Xuân Kỷ Dậu là đỉnh cao của chủ nghĩa anh hùng ca dựng nước và giữ nước. Xuân Kỷ Dậu thống nhất nước nhà, chấm dứt tục cống người vàng, đập tan âm mưu xâm lược và đồng hóa của bắc triều, nhờ chiến thắng  này mà cả trăm năm về sau giặc Tàu ngừng xâm lăng nước Việt. Dòng xuân tương tục nối liền mạch xuân hiển hách của tộc Việt: Mê Linh, Long Biên, Hoa Lư, Đại La, Thăng Long, Phú Xuân…

Dòng thời gian bất tận không ngừng biến thiên, sự thay đổi trong từng phút giây. Dòng đời không ngừng trôi, từng thế hệ nối tiếp nhau, loài người có như thế nào đi nữa thì mùa xuân vẫn thế thôi. Mùa xuân vốn như thế, chẳng phụ thuộc vào cảm xúc chủ quan của con người. Ta thấy xuân đẹp, xuân rộn ràng, xuân tràn đầy sức sống hay là xuân bi thảm thì xuân vẫn cứ là xuân, xuân vẫn như thế nếu nhìn nhận như thế ( look as is) thì mình không bị ràng buộc, không phải khổ tâm mong đợi, trông chờ hay chối bỏ. Xuân vẫn cứ đến rồi đi khi trái đất quay trọn một vòng quanh mặt trời.

Mùa xuân hải ngoại dẫu vui, dẫu có rộn ràng, dẫu có đầy đủ phủ phê thức ăn uống và phương tiện vật chất nhưng tâm tư những người con xa xứ không ít thì nhiều cũng bâng khuâng nhớ về nguồn cội tổ tiên, nhớ quê hương, nhớ những người thân yêu còn ở quê nhà.

 

 

THẦN CẬY CÂY DA

 

Thằng chả thấy con nhỏ tướng tá ngon lành laị nhu mì dễ thương nên thích lắm, có điều chả chưa có cơ hội làm quen. Tình cờ hôm nọ thầy nhờ chả nhắn cho mẹ  con nhỏ cuối tháng lên chùa sám hối. Thằng chả mừng hết lớn chạy như bay xuống xóm chợ, sau khi noí lời nhắn của thầy chả cứ xà quần hổng chịu đi. Thấy con nhỏ ra chợ dọn hàng cho mẹ, chả đi theo: 

- Chế ơi chế! chế đẹp quá, dễ thương quá! Cho tui xin một muổng tình bỏ vào ly đời cho ngọt chơi!

Con nhỏ liếc sắc lẹm, hứ cái cóc:

- Đồ vzô duyên! Khi không xin muổng tình!

- Chế dễ thương và ngọt ngào nên tui mới xin muổng tình chứ bộ!

- Ai có rảnh đâu mà cho ông muổng tình!

Thằng chả cứ noí miết đến nỗi con nhỏ chịu hổng thấu, coi bộ xuống nước:

- cái miệng ông dẻo quẹo à! Chắc gạt nhiều người lắm đa?

- Hổng có đâu, tui thề đó! hồi nào giờ chưa xin ai muổng tình hết trơn!

Con nhỏ mắc cỡ nhưng rồi cũng xìa tay cho thằng chả cầm, ai đời cầm tay nhau chỉ có một khắc ấy vậy mà “dính” luôn. Thằng chả lôi con nhỏ vào cuộc đời chả, dắt nó vào đời. Ngày tháng đẹp như mơ, hai đứa vui như cá ra sông nhưng đời đâu có như ý người. Tháng năm trôi qua, hai đứa con lần lượt ra đời. Lương công nhân ba cọc ba đồng của chả quả thật thiếu trước hụt sau. Con nhỏ cũng chẳng nghề ngỗng gì… Cái bóng cơm, áo,gạo, tiền nó phủ lên cái bóng cuộc tình. Hai đứa hục hặc nhau hoài. Tháng nào không ba trận cự lớn thì cũng năm bận cãi nhỏ. Có lần con nhỏ cà khịa:

- Hồi đó nhiều người đẹp trai, giàu có theo tui mà tui đâu có thèm. Giá hổng lấy ông thì giờ tui đâu có khổ như vzậy !

Thằng chả trả miếng liền:

- Hồi đó tui cũng vzậy, nhiều cô đẹp và khá giả mê tui lắm! nếu không cưới bà thì giờ tui sướng như ông hoàng!

Chú Hai hàng xóm qua mượn cái phảng nghe hai đứa cự nhau, chú cười ha hả:

- Hai đứa bây xuống dùm cho chú nhờ! ở đời có cái hạng đẹp, giàu, tử tế vzậy sao? nếu có nó chịu ưng hai đứa bay sao? Chén bát trong sóng còn khua thì vợ chồng cãi nhau cũng thường tình, có điều chú muốn noí là hai đứa phải nhường nhịn nhau thì mới ăn đời ở kiếp với nhau được.

Hai đứa nghe lời thôi cãi nhau nhưng chẳng bao lâu laị cự nữa. Con nhỏ ghen bóng, thằng chả thì đa tình; thứ nữa là thằng chả mê viết lách, lương lậu không bao nhiêu, chỉ được cái mã bề ngoài và cái tài vặt mà bạn bè gắn cho cái danh hão là:” dân tài tử” . Con nhỏ thấy bạn bè lấy chồng giàu nên sinh ra so đo, từ đó có ý ly hôn. Thằng chả thương con và cũng biết mình không làm ra tiền như bạn bè nên nhịn nhục. Con nhỏ được thể làm tới chủ động đòi ky hôn, mặc cho gia đình hai bên khuyên giải, can gián: 

- Thôi con à! một sự nhịn chín sự lành, vợ chồng ăn ở với nhau hai mặt con rồi, ly hôn thì tội tuị nhỏ lắm!

Đêm nằm võng ru con, con nhỏ hò:

- hò ơ… Lấy chồng tài tử

              Đời cứ chịu suông

              Lấy chồng lái buôn

              Tiền vzô cuồn cuộn, hò ơ…..

Hò ơ… Tui giờ như cá mắc câu

        Gỡ ra chẳng đặng để lâu bực mình. Hò ơ….

Thằng chả buồn tình bèn bỏ đi ra quán bà Tư Ú kêu xị đế ngồi ủ rủ, nước mắt lưng tròng:

- Ngày xưa sao dễ thương như mèo con mà giờ dữ như sư tử vậy trời?

Bà Tư Ú đến bên bóp vai chả:

- Vợ chồng lục đục là chuyện thường, chú đừng có rầu quá mà sanh bệnh thì khổ, chuyện đâu còn có đó, từ từ sóng gió cũng qua thôi!

Bà Tư Ú cũng rầu rầu ngồi bên chả, một lát sau bà chợt nhớ gì vỗ đùi cái đét:

- Mèn đét ơi! Chút nữa tui quên. Chú cò nhớ không? Ông thầy ở xóm chùa đó mát tay, nhẹ vía lắm đó. Mấy cặp ở xóm chợ này chút xíu nữa ra toà ly dị vậy mà ổng hoà giải, hàn gắn laị hết trơn. Để tui kêu tía con nhỏ lên chùa nhờ ông thầy thử coi. Hôm sau tía đến nhà noí: 

- Ông thầy trên chùa muốn noí huyện với hai đứa bay, cứ lên gặp thầy trước đi rồi hẵng hay! 

Dù hổng nhìn nhau, trong bụng chẳng muốn đi chung  nhưng hai đứa cũng nghe lời tía đi lên chùa. Hai đứa lên chùa  lễ Phật xong, thầy kêu hai đứa ngồi uống trà và kể câu chuyện:

-        Cách đây cũng không lâu lắm, xóm chợ có cái miễu và cây da cổ thụ nổi tiếng linh lắm. Dân xóm chùa, xóm chợ, xóm đình… quanh đây đi qua đều cuí đầu. Bọn con nít không dám phá phách. Xuân thu nhị kỳ dân các làng đều cúng tế rất kính cẩn. Một hôm cây da cậy mình có công sanh tự phụ:” Nhờ tui mà thần có chỗ nương tựa và được dân các làng cúng tế đầy đủ”:. Vị thần gá ở cây da cũng cậy mình linh nên noí:” Nhờ ta linh thiêng nên dân làng mới cúng tế,cũng nhờ ta gá vào nên người ta sợ, vì vậy mà ngươi mới được an thân”. Thần và cây da cứ cự  nhau, cuối cùng thần bỏ cây da đi. Từ khi bỏ cây da ra đi, thần trở nên xấc bấc xang bang, lang thang buị lùm khi thì đồng không mông quạnh rất khổ sở. Còn cây da từ khi không còn thần nữa nên hết linh, miễu cũng hết linh. Người ta chặt phá trở nên xơ xác tiêu điều, đã vậy người ta còn đặt ra câu hò:

  hò ơ… Thần cậy cây da người ta cúng tế

             Cây da cậy thần cành là sum xuê. Hò ơ….

  Hò ơ…Hết linh miễu cũng bơ vơ

             Có qua có laị cậy nhờ mà linh. 

Hai đứa nghe thầy kể xong trong lòng cũng ít nhiều rung động và cũng lờ mờ hiểu ý thầy. Cả hai cuí đầu theo đuổi ý nghĩ riêng tư chưa ai noí tiếng nào. Thầy cười cười chỉ hai đứa chén trà đã nguội tự hồi nào:

-        Hai con đổ đi, trà đã nguội uống không ngon. Thầy rót cho con chén trà mới, thơm ngon lắm; đừng tiếc chi cái đã qua rồi!

Thằng chả và con nhỏ cứ răm rắp theo lời thầy như cái máy, chẳng đứa nào noí được lời nào. Thầy quán sát thấy cả hai vẫn còn quyến luyến và nhiều duyên nợ với nhau:

- Con thấy không? thần cậy cây da, cây da cậy thần vốn là thế. Còn con người ở thế gian này đến với nhau cũng không ngoài nhơn duyên ơn – oán với nhau; ơn nhiều hoà thuận, yêu thương; oán nhiều chống trái, khinh ghét. Vợ chồng với nhau nếu không có duyên thì không thành. Mình là Phật tử thì phải biết điều này và nên giải không nên kết oán!

Đến đây thì thằng chả chắp tay xá thầy:

-        Con tạ ơn thầy! câu chuyện thầy kể in sâu vào tâm con, những lời thầy dạy con xin ghi nhớ và làm theo nhưng…

Đến đây thì chả ngaị ngùng không noí tiếp. Thầy hiểu ý thằng chả nên hoỉ con nhỏ:

- Ý con sao?

- Thưa thầy,  câu chuyện thầy kể làm con xúc động lắm. Con cũng biết mình nhiều sai quấy nhưng đâu chỉ mình con. Con cũng sẵn sàng giải kết nhưng…

Con nhỏ cũng bỏ ngang ở chữ nhưng, thầy cười thật phúc hậu noí:

- Thầy biết hai con sẽ giaỉ kết, biết lỗi và sửa lỗi ấy thật đúng là con nhà Phật. Thầy mong hai con từ giờ đừng nhắc đến hai chữ ly hôn nữa kẻo làm con trẻ đau lòng. 

Thằng chả và con nhỏ đứng lên lễ thầy rồi ra về. Trên đường từ xóm chùa về xóm chợ nhiều người chỉ chỏ:

- Nghe nói tuị nó lùm xùm tính bỏ nhau phải hông? 

Thằng chả cười tủm tỉm:

- Em biết hông? Xưa tía má cứ sau mỗi lần cự nhau là mình có thêm một đứa em.

Con nhỏ nhéo hông chả:

- Cái miệng dẻo quẹo hà, làm khổ người ta!

 

 

TỨ NIỆM XỨ QUA CÁI NHÌN SƠ HỌC

 

 Tứ niệm xứ là một bài kinh ngắn, căn bản. Tứ niệm xứ cùng với tứ diệu đế, bát chánh đạo… là những điều cốt lõi của đạo Phật, những giáo lý tối thiểu mà một Phật tử cần phải trang bị. Người học Phật, tu Phật dù là theo trường phái nào, pháp môn nào cũng cần phải hiểu, biết và nắm được những điều căn bản ấy. Những hành giả của Phật giáo nguyên thủy hay nam tông có lẽ luôn bám sát vào tứ diệu đế, tứ niệm xứ. Còn những Phật tử sơ học, sơ cơ theo trường phái bắc tông thì vấn đề này nắm bắt rất lơ mơ, thậm chí rất nhiều người không hề biết. Một phần do chính bản thân và một phần cũng do các chùa bác tông ít khi giảng dạy hay thuyết pháp những đề tài này.

 Một thực tế rất rõ ràng, các chùa, các thầy giảng pháp bên bắc tông gần như không đi vào giáo lý căn bản mà giảng rất rộng và lan man, thậm chí giảng những đề tài theo thị hiếu của đám đông. Từ đó nhiều Phật tử đi chùa chỉ biết ăn chay, làm từ thiện, đốt nhang khấn vái hay tụng một vài biến kinh nhưng vẫn không biết đạo Phật dạy gì, nói gì. Nếu cái cốt lõi mà không biết thì cái hoa lá cành không thể cứu được. Mọi người thường nói “ đời là bể khổ” nhưng khổ như thế nào? Tại sao khổ? Làm thế nào để thoát khổ?… thì không biết, vậy thì những chuyện hoa lá cành không thể giúp mình thoát khổ, càng không thể nói chuyện xa xôi là giải thoát.

 Tứ niệm xứ không chỉ là pháp học mà quan trọng là pháp hành, học để biết lý thuyết nhưng phải hành. Tứ niệm xứ là bốn chỗ cần phải ghi nhớ và suy niệm, tuy kinh văn ngắn nhưng một khi giảng giải thì rất rộng và khi thực hành thì diệu dụng vô cùng. Tứ niệm xứ tóm lược một phần triết lý và nhân sinh quan của Phật giáo về thân, tâm, nội cảm và các vấn đề về ngọai quan.

 Trước hết nói về thân, thân người không phải là một thực thể tồn tại độc lập. Nó là tổ hợp của vô số tế bào. Nó là những nguyên tố của đất, nước gió, lửa hợp lại mà thành. Tại sao Phật bảo thân này là dơ, là bất tịnh? Cứ thử quan sát một tí thì biết ngay thôi. Hàng ngày mắt tiết ra ghèn, mũi có cức mũi, tai có ráy, lưỡi có đờm dãi, chân lông có mồ hôi, hạ thân có phẩn, niếu; bên trong thì toàn máu mủ, hễ xì hơi một chút thì không ai chịu nổi. Sự thật là thế, nó dơ, nó hôi thối lắm. Hàng ngày chúng ta nhìn người đẹp thấy thật hấp dẫn, thân thể nóng bỏng, mắt mũi xinh… đó là cái nhìn bề ngoài, cái giả tướng chứ không thấy cái thật tướng. Dẫu có đẹp như hoa hậu hoàn vũ, nam vương quốc tế đi nữa nhưng cái dơ, cái hôi thối của họ cũng chẳng khác gì với người có ngoại hình xấu. Thân mình là một cái đãy da hôi thối, vì duyên hợp mà sanh ra, một khi duyên tan thì nó lại về với tứ đại. Phật dạy ta nhìn cái thật tướng để biết cái thân này bất tịnh để không chấp vào thân. Con người vì chấp vào cái thân, cho nó là ta, là của ta nên khổ và tạo nghiệp bất thiện để rồi vĩnh kiếp luân hồi. Đây mới nói về những cái thân tương đối ngon lành, khỏe mạnh, đầy đủ các căn. Còn những cái thân thiếu căn, bệnh hoạn, hư hao, sứt mẻ… thì cái bất tịnh còn ghê hơn, lồ lộ phơi bày ra bao nhiêu cái dơ, cái hôi tanh. Thân là điều phải quán xét đầu tiên, phải luôn ghi nhớ và suy niệm để biết cái thân mình nó bất tịnh như thế, có biết nó bất tịnh mới buông xuống, mới không chấp thân. Thân này bất tịnh, nó khôgn phải của ta không phải là ta.

 Kế sau thân là thọ, đây là vấn đề thuộc về tinh thần, sự cảm thọ, thọ nhận những cảm giác buồn, vui, sướng, khổ, sợ sệt, lo lắng, an lạc… Nó vừa là cảm giác chủ quan vừa bị tác động và chi phối từ bên ngoài. Con người chúng ta cứ như nam châm với mạt sắt, suốt ngày, suốt đời chụp lấy nắm bắt những cảnh trần bên ngoài. Sáu căn tiếp xúc sáu trần và sanh ra sáu thức, từ đó sanh ra thọ đủ thứ nhưng cuối cùng vẫn là đi đến khổ, thọ khổ. Kỳ quái thât! Thọ khổ thì khổ đã đành, sao thọ sướng, thọ khoái lạc lại cũng là  khổ? Đúng như thế! Đã thọ thì thọ gì cũng dẫn đến khổ. Tỷ như khi ta thọ cái đẹp nên sanh lòng yêu thích, dẫn đến muốn chiếm hữu, thủ giữ làm của riêng, mà muốn đoạt được thì phải tranh, phải đấu đá… một khi được rồi thì có thể sanh ra chán, hoặc giả cái đẹp không còn được như ý thì bất mãn… thế là khổ! Khổ từ thích đến tranh đoạt, khổ phải giữ gìn duy trì, khổ vì mất cái thích, khổ vì cái thọ yêu thích khoái lạc không còn như ý nữa. Thế gian vốn vô thường, những cái thọ vui ắt cũng tàn thì khổ là đương nhiên. Phật dạy thọ là khổ, thọ gì cũng khổ, người và vật ở thế gian này vốn ở trong tình trạng: khổ khổ, hoại khổ và hành khổ cho nên có thọ lạc rồi cũng đi đến khổ mà thôi! Phật dạy thọ khổ để mà xả, xả thọ không phải dễ nhưng phải luôn ghi nhớ và thực hành, được chút nào hay chút ấy. Xả thọ phụ thuộc vào bản lãnh, năng lực và cách thực hành của từng người. Người mà xả được thọ thì sống thong dong trong cuộc đời này!

 Vấn đề thứ ba là tâm, con người chúng ta gồm có hai phần đó là thân và tâm, thiếu một thì không thành, thân mà không có tâm thì khác gì đời sống thực vật, tâm mà không có thân thì biết gá vào đâu? Triết học, quan điểm của nhà Phật rất coi trọng cái tâm, cho tâm là chủ tể, là tạo tác, tâm dẫn đầu các pháp, nhất thiết duy tâm tạo… Tâm con người rất vô thường, sáng nắng chiều mưa, nay yêu mai ghét, phút trước vui phút sau buồn, thậm chí nó thay đổi trong từng sát na từ những cái niệm vi tế mà ta không để ý. Tâm thay đổi theo sự tác động của hoàn cảnh bên ngoài và biến dịch theo sự cảm thọ chủ quan của chính mình. Hễ được cái mình yêu thích thì vui, hễ đụng phải cái không thích thì buồn thậm chí bất mãn hoặc ghét… Tỷ như ta gặp một người đẹp, được gần gũi thì cảm thấy hãnh diện, thấy thích thú. Nếu người đẹp ấy mà nhìn đến ta, thân thiện hay thân mật với ta thì bấy giờ cái tâm như bay bổng với trời mây, cái tâm sanh sung sướng đến độ sẵn sàng làm tất cả những yêu cầu của người đẹp. Bằng như ngược lại, người đẹp chảnh hoặc khi dễ ta, lập tức cái bất mãn nổi lên, thậm chí cái sân nổi lên, lập tức phản ứng dữ dội nói lời thô lỗ hay xúc phạm đến đối tượng mà mới phút trước mình còn thấy thích. Cũng là cái tâm ấy nhưng buồn, vui, yêu, ghét… nó thay đổi liên miên. Cũng là đối tượng ấy nhưng tùy cách tác động mà làm cho tâm ta loạn động thay đổi rất vô chừng. Thế gian vô thường, vạn vật thay đổi sanh diệt trong mỗi sát na nên tâm cũng thay đổi là lẽ đương nhiên. Ở thế gian này vô thường chính là thường, tất cả đều thay đổi và biến dịch không ngừng nghỉ. Cái tâm con người rất diệu dụng, nó thông qua sáu căn, tiếp xúc sáu trần và sanh ra sáu thức, sáu thức lại tác động vào tâm, nạp vào hàm tàng thức. Một khi thân hoại mệnh chung thì cái nghiệp lực cùng những chủng tử thiện ác trong hàm tàng thức sẽ khởi dụng dẫn dắt đi thọ một cái thân khác, giả sử thọ lại thân người thì cái tâm lại khởi dụng qua sáu căn, còn như thọ thân thú thì cái tâm không thể khởi dụng, con thú tuy có các căn nhưng không có ý căn! Và các căn của con thú chỉ là hoạt động theo bản năng sinh tồn mà thôi! Thân người giả tạm, là sự duyên hợp của tứ đại thì cái tâm vô thường cũng là hợp lẽ.

 Vấn đề cuối cùng là pháp, đây là một từ chuyên môn và cũng rất thông dụng trong nhà Phật. Pháp là từ chỉ cho tất cả những hiện tượng, sự vật, sự việc từ vật chất đến tâm lý, nghĩa của chữ pháp rất rộng, con người, xã hội, sơn hà vũ trụ… cũng là các pháp. Các pháp ở thế gian này vốn vô ngã. Nhà Phật nói tất cả do duyên tụ hợp mà thành ( khoa học bảo là điều kiện cần và đủ). Đủ duyên thì hợp lại mà sanh ra, hết duyên thì tan hoại đi, tất cả là sự duyên hợp, không có cái gì mà có thể cho là tồn tại độc lập, tự thân ( self). Ví như thân người, có được thân người thì ngoài tinh cha huyết mẹ, còn phải có đầy đủ những  guyên tố đất, nước, gió, lửa; rồi còn phải đủ ngày tháng, phải có cái thần thức nữa mới gọi là một con người. Một ví dụ khác nữa như cái xe chẳng hạn, nó gồm có thân, cửa, sàn, bánh xe, ghế… và mỗi bộ phận ấy lại được cấu tạo từ sắt, nhôm, kiếng, cao su, nhựa; rồi mỗi nguyên liệu ấy lại là sự kết tinh của vô số nguyên tố li ti; rồi còn có lửa, nước, công thợ; lại phải có sự tưởng tượng thiết kế ra của kỹ sư… Nói chung là tập hợp vô cùng nhiềiu các điều kiện cần và đủ  mới có cái gọi là cái xe, một khi rã rời ra từng phần thì đâu có cái gì để gọi là cái xe. Vô ngã là thế, các pháp vốn vô ngã, không hề có một cái ngã tồn tại độc lập, tất cả là duyên hợp mà thành, duyên tan mà hoại. Mở rộng hơn chút nữa như trái đất mà chúng ta đang sống, nó là một hành tinh được hình thành bởi đất, nước, gió, lửa và vô lượng những nguyên tố, yếu tố khác. Nó không thể tồn tại một mình mà chịu sự hút và đẩy lẫn nhau giữa các hành tinh. Nó quay vòng liên lỉ và nó đã hình thành ắt cũng sẽ có lúc tan hoại, có vô số những hành tinh mới hình thành và cũng có vô số ngôi sao chết đi hoặc bị nhập vào những thiên hà khác…Nhà Phật đúc kết thành một câu:” Tất cả do duyên sanh thì tất cả cũng do duyên mà diệt”. Các pháp vô ngã là thế! Tất cả chỉ là sự tụ hợp chứ không có một cái gì để gọi là tồn tại độc lập.

 Việc tu học đạo Phật của Phật tử Việt Nam thường có hai phương pháp chính: niệm Phật tụng kinh và tu thiền ( có cả thiền nam tông và bắc tông). Những Phật tử tu theo tịnh độ thường rất mơ hồ về tứ niệm xứ và những giáo lý căn bản của đạo Phật, điều này là một sự thật rất đáng tiếc. Mình tu học thì mình phải biết Phật dạy gì, nói gì. Mình phải hiểu tại sao khổ, nguyên nhân khổ, cách thoát khổ. Tứ niệm xứ là cái cốt lõi căn bản, phải nhớ, phải suy niệm, phải thực hành để buông, để xả, để biết vô thường, để mà bớt khổ, thoát khổ… Tu phải có học, học phải có tu, nếu chỉ biết lý thuyết suông không thì cũng không xong mà nhắm mắt tu không biết lý thuyết cũng không được! Bởi vậy tu gì thì tu, chúng ta cần phải nắm bắt và hiểu được cái căn bản mà Phật dạy, cái phương pháp mà Phật chỉ bày.

 Phật tử sơ cơ chúng ta cần phải xem lại mình, phải có học có tu thì mới có hiệu quả, học cái căn bản của giáo lý, cái cốt lõi của đạo Phật, học xong rồi thì thực hành. Tu với hàng Phật tử sơ cơ như chúng mình chẳng cần gì cao siêu thâm sâu, chỉ cần nhớ và suy niệm tứ niệm xứ, tứ diệu đế, bát thánh đạo. Còn sau đó niệm Phật hay ngồi thiền cũng đều được cả; nếu còn như không biết cái căn bản mà chỉ biết niệm Phật và ngồi thiền lơ mơ thì chắc hiệu quả không tới đâu. Tứ niệm xứ không chỉ là pháp học mà là pháp hành, một pháp hành quan trọng của người con Phật.

 

RỒI AI CŨNG PHẢI THẾ

 

 Những ngày nghỉ cuối năm nằm nhà buồn tênh, cái buồn như thẩm thấu vào từng tế bào, đi ra đi vào căn nhà lạnh lẽo vắng tanh. Đã mười mấy năm nay, cha con quấn quýt thủ thỉ với nhau, giờ con gái đủ lớn và bắt đầu đi làm thêm sau giờ học. Gã thấy buồn chông chênh và trống trải lạ thường, mới ngày đầu tiên vắng mặt con gái mà cứ ngỡ như cách xa lâu lắm, hai cha con liên tục gởi tin nhắn cho nhau.Tuy là ngày đầu tiên nhưng đây là dấu hiệu báo trước cho những ngày tháng sắp tới, mối dây ràng buộc giữa cha và con dần dần lơi lỏng. Con gái trưởng thành sẽ có tình cảm riêng, đời sống riêng của nó và gã sẽ lui dần vào dĩ vãng cho đến một ngày nào đó thì...

 Thế gian này mọi vật, mọi việc thay đổi liên lỉ trong từng phút giây, chẳng có gì bền vững chắc chắn cả, chẳng có gì để gọi là tuyệt đối, vô thường chính là thường!

 Ngày xưa mình cũng đã từng thế, lúc nhỏ quấn quýt bên cha mẹ, lớn lên đi học, đi làm, rồi có vợ con và có cuộc sống riêng. Tình thương ngày trước dành cho cha mẹ sau phải san sẻ cho vợ con, thậm chí còn lấn lướt hơn phần dành cho cha mẹ. Giờ con gái trưởng thành và bắt đầu từng bước định hình để có cuộc sống riêng. Rồi mai đây đến lượt con của con gái cũng sẽ như thế,cả thế gian này rồi ai cũng phải như thế! Từng đời, từng đời nối tiếp nhau, từng thế hệ sum họp rồi chia xa. Cái vòng luân hồi miên viễn bất tận, dòng sanh tử chưa từng dừng lại bao giờ, cái bóng dáng của thành- trụ- dị- diệt cứ hiển hiện trong từng sát na. Lý thuyết là thế, sự thật cũng như thế! Làm người thì tránh sao được nỗi buồn này? Con người nào có phải là gỗ đá trơ trơ.

 Giai thoại nhà thiền có câu chuyện thế này: Có một bà lão hơn hai mươi năm chăm lo vật thực cho một vị thiền sư tịnh tu trên non. Một ngày kia bà bảo một cô gái trẻ đẹp đến ve vãn thiền sư để xem công phu tu hành đạt đến mức độ nào. Cô gái làm theo lời bà lão và về nói lại lời của vị thiền sư ấy:” Lòng ta như cây khô trên núi tuyết”. Bà lão lập tức đến đốt ngay thảo am của vị thiền sư nọ và nói:” Uổng công ta cung phụng hai mươi năm nay cho lão già này! Lão không cần nhưng chí ít lão cũng phải để tâm đến cô gái mới phải”, thế đấy! Con người mà, sao có thể trơ như gỗ đá được! Học Phật nào phải để trơ như gỗ đá, giải thoát không có nghĩa là trơ như gỗ đá!

 Ngày xưa khi ta dần lớn lên thì cha mẹ ta dần già đi, nay con gái ta lớn lên thì ta lại đi vào lão hóa. Sanh- lão- bệnh- tử là quy luật tự nhiên, không ai tránh khỏi. Kinh Phật từng dụ dù có trốn trên mây, núi cao, hang thẳm, đáy biển… cũng không thể tránh khỏi được cái già, cái bệnh, cái chết! Khi sanh ra là đã có ngay cái già, cái bệnh, cái chết. Cái già, cái bệnh, cái chết nó song hành với cái sanh, không thể nào tách ra được! Đã không già, không bệnh, thì cũng không sanh; chiều ngược lại cũng thế, môt khi không sanh thì ắt chẳng có cái già, cái bệnh, cái chết.

 Con gái dần dần lớn lên, tình cảm cha con dần dần lơi lỏng, vì con gái còn có tình riêng của nó. Có những người cha đã rơi lệ trong ngày vu quy của con gái, giọt lệ hạnh phúc mừng con gái trưởng thành yên bề gia thất, nhưng giọt lệ ấy cũng chất chứa nỗi buồn tình cha con dần nhạt nhòa đi. Ông bà đã trải qua, cha mẹ đã từng, rồi đến lượt mình cũng thế, sau này con của con mình lại tiếp tục. Rồi ai cũng phải thế! Xem ra cái sự việc phải như thế này rất là “Như thị”, không thể nào khác đi được! Cái sự việc phải như thế này nó đúng với cái nhìn tục tế, hợp với thế gian này.

 Sum họp vui,  chia ly buồn, sanh vui, tử khổ… Con người vì thất tình lục dục mà khổ. Bởi thế Phật mới chỉ ra con đường thoát khổ, phải ly gia đoạn dục, cắt ái từ thân, phải tu tập để chứng đắc niết bàn ( dù là hữu dư hoặc vô dư) thì mới vắng bặt hết khổ, phiền não. Tuy nhiên thế gian này mấy ai làm được? người xuất gia tuy nhiều nhưng dễ đâu chứng đắc. Người tại gia thì càng không phải nói nữa. Bởi thế cái khổ vẫn song hành với sanh tử, vẫn hiện diện trong mỗi phút giây. Ngày những người xuất gia từ biệt cha mẹ và gia đình để đi tu cũng buồn lắm chứ, bao nhiêu giọt lệ rơi. Cái buồn tử biệt sanh ly, cho dù chỉ ly biệt tạm thời.

 Đời kế tiếp đời, hợp tan tái diễn, tử sanh không ngừng, việc tái sanh và gặp lại cha mẹ, con cái trong một nhà là việc vô cùng mong manh hy hữu. Làm sao có thể gặp lại được khi mà mỗi người tạo một cái nghiệp khác nhau? Làm sao có thể sum họp với người cũ được khi mà thân người chưa chắc được? Phật nói được lại thân người khó như rùa mù ngoài biển khơi, cứ mỗi trăm năm mới nổi lên một lần sao cho cái đầu lọt vào cái lỗ của miếng gỗ bập bềnh trôi trên sóng nước.

 Tình cảm là sợ dây ràng buộc chắc chắn hơn bất cứ xiềng xích nào, tình cảm xa cách thì buồn đau thương nhớ! Ấy là nỗi khổ của đời người, nhưng rồi ai cũng phải thế thôi! Ngày xưa khi thái tử Tất Đạt Đa quyết chí xuất gia, ngài cũng buồn đau, cũng khổ lắm chứ khi nhìn vợ con lần cuối trước khi ra đi. Tuy nhiên bậc dõng mãnh khác với phàm phu, thà khổ một lần để rồi hết khổ. Ngài đã tìm ra con đường giải thoát cho chính mình và cho nhân loại. Khi ngài chứng đắc tam minh lục thông, trí huệ bừng lên ngài tuyên bố:” Hỡi kẻ làm nhà kia, từ đây thôi nhé! Cột, kèo, ruôi, mè… đã gãy tan”. Ngài chứng đắc vô thượng chánh đẳng chánh giác. Ngài không còn sanh tử luân hồi nữa. Ngài đã mở ra con đường thoát khổ cho loài người ở thế gian này. Ngài là đạo sư của cả chư thiên, nhân và phi nhân.

 Đạo Phật do ngài khai sáng vạch ra con đường đi, phương pháp hành cho mọi người. Với người đủ duyên, đủ bản lãnh thì một lần cắt ái từ thân, ly gia đoạn dục để dõng mãnh lên đường. Với đại đa số người chưa làm nổi thì cũng biết sống và học theo những chỉ dẫn của ngài để cuộc sống bớt khổ. Cụ thể như giảm ham muốn ( biết đủ), bớt ràng buộc, buông bớt… càng giảm, càng buông được bao nhiêu thì đỡ khổ bấy nhiêu.Tình cảm con người cũng có nhiều loại và nhiều mức độ khác nhau, tuy nhiên cao quý và thiêng liêng nhất vẫn là tình cảm cha mẹ và con cái. Khi chưa thể cắt ái từ thân được thì cũng cố gắng làm những điều lành, điều phước thiện nhất cho cha mẹ, con cái và những người thân. Một người nặng thương yêu có thể làm tất cả vì cha mẹ hay cho con cái nhưng tuyệt đối không vì thương mà mê muội chấp nhận  làm những điều sai trái tổn hại phước đức của chính mình hay của cha mẹ, con cái mình. Cái điều thiện – ác của thế gian cũng rất hàm hồ và sai lệch, phải có chánh kiến để nhận biết thiện – ác để làm theo, cứ căn cứ theo tứ diệu đế và bát chánh đạo để biện biệt thiện - ác thì ắt sẽ đúng. Phàm những gì lợi người, lợi vật là thiện, bằng như ngược lại là ác. Phàm những gì làm cho người thức tỉnh thì là thiện còn như làm cho người mê muội thì là ác. Nhà Phật dạy:

 Chư ác mạc tác

 Chúng thiện phụng hành

 Tự tịnh kỳ ý

 Thị chư Phật giáo

 Rất đơn giản, rõ ràng nhưng cũng chẳng phải dễ, vì không phải dễ mà đã vô lượng kiếp rồi vẫn còn loay hoay tử biệt sanh ly chẳng trọn. Tử sanh vẫn cứ vần xoay chẳng biết đến bao giờ.

 Con gái đến tuổi trưởng thành, ngày đầu tiên đi làm thêm. Gã ở nhà thấy buồn và trống trải vô hạn, vào ra một mình, quay vào trong thấy tôn tượng Thế Tôn ngồi an nhiên, thanh thoát; quay ra ngoài thì đụng bao nhiêu dụ hoặc của ngũ dục lục trần, lòng cứ phân vân, tiến lui chẳng đặng. Lại chợt nhớ cha mẹ già ở phương trời cố quận xa xôi, nhớ con gái mới ngày nào còn lẫm chẫm lòng trào dâng niềm cảm khái khôn cùng buộc miệng thành lời:” Rồi ai cũng phải thế!”

 

 

RA ĐÒN ẮT BIẾT KHẮC CHẾ

 

Cái tin khoa học gia Alan D chế tạo siêu máy tính với hệ điều hành cực kỳ tân tiến làm chấn động cả thế giới, hệ điều hành mới với trí thông minh nhân tạo giờ đây sẽ giải phóng con người. Con người chẳng cần phải làm gì nữa, bọn robot sẽ thay người làm tất cả mọi việc từ sản xuất trong hãng xưởng, nông trại, việc nhà… thậm chí cả ra trận luôn. Thế giới biến đổi sâu sắc và toàn diện. Các nhà khoa học ưu tú nhất về phó hội tại cung Apolycase Now thuộc thành đô Apolycase Now,  để chứng kiến sự ra mắt của hệ điều hành hoàn hảo nhất của loài người. Tổng thống Andrew T đọc diễn văn chào mừng:

 -… Đây là thời điểm lịch sử của nhân loại, chúng ta đã chế tạo ra robot với trí thông minh nhân tạo. Con người trên trái đất này được giải phóng triệt để, con người hoàn toàn tự do, không còn phải ưu tư hay phải làm những việc mà mấy ngàn năm nay chúng ta đã làm. Chúng ta vượt qua sự khống chế của thiên nhiên, vượt qua những hạn chế mà sức con người không thể đương nổi. Dĩ nhiên là chúng ta sẽ sử dụng robot để khống chế hay tiêu diệt bất kỳ kẻ thù nào mà chúng ta muốn. Chúng ta không cần động binh. Robot sẽ làm thay tất cả. Chúng ta sẽ ngồi trong căn phòng này nhấm nháp những ly vang đỏ tuyệt vời và nhìn bọn robot làm theo lệnh chúng ta…

 Tiếng vỗ tay như triều dâng sấm dậy, lời lời chúc tụng tràn ngập trong cung . Tiến sĩ Alan D phát biểu:

 - …Chúng ta đã làm được điều mà thượng đế không làm được, từ bây giờ tất cả đều theo như ý muốn của chúng ta. Nếu ngày xưa câu chúc tụng” Vạn sự như ý” chỉ là lời sáo ngữ thì bây giờ đã trở thành hiện thực. Với trí thông minh nhân tạo , chúng ta hoàn toàn tự do, robot sẽ thay chúng ta làm tất cả mọi việc, ngay cả đọc và điều khiển tâm tư của bất cứ ai mà chúng ta muốn.

Không khí vui mừng tột độ lan tràn khắp mọi giới trong xã hội, tỏa ra toàn thế giới dù là thành thị sầm uất hay chốn núi rừng hoang sơ hẻo lánh. Dân chúng các đô thành lớn xuống đường mừng sự kiện quan trọng của loài người, xe cộ bóp kèn inh ỏi, chuông nhà nguyện, thánh đường, công sở… đồng loạt gióng lên. Công sở, hãng xưởng đồng loạt đóng cữa để công nhân vui ngày vui trọng đaị này. Nông phu, ngư phủ, công nhân nông trường… cũng kéo lên thành đô mừng sự kiện, cờ hoa, biểu ngữ tưng bừng. Mọi người gặp nhau, ôm nhau nhảy múa và bảo nhau:” Nay mai bọn mình không còn phải vất vả, cực nhọc lao động. Robot thông minh  sẽ làm thay chúng ta.”. Vui nhất vẫn là bọn chủ và bộ sậu lãnh đạo, từ đây không phải mướn nhân công, không phải lo chi trả lương thưởng, phúc lợi xã hội…chỉ cần một nhóm robot là chúng sẽ làm hết thảy và tiền sẽ chảy vào túi như nước lũ.

Tiến sĩ Alan D chế tạo cho vợ và cậu con trai mỗi người một con robot để phục vụ. Phải nói là hai con robot này không khác chi con người, rất đẹp, với lớp silicon cực kỳ mền dẻo và laị có cảm giác như da thịt thật của con người, cuộc đời quả thật sướng ngoài sức tưởng tượng. Hai con robot nó hiểu cả ý chủ nhân muốn, chưa cần ra lệnh nó đã làm vừa lòng rồi. Một hôm chú bé Alex D, con trai tiến sĩ AlanD thầm nghĩ:” Tại sao mình không bảo Andy-(tên của con robot) nó học bài và làm bài tập cho mình nhỉ?”, chỉ mới nghĩ thế ấy vậy mà Andy từ từ chạy đến thưa:

 - Cậu chủ, để tôi làm bài tập cho cậu!

 Thằng bé ngờ vực:

 - Cậu làm được sao?

Andy trả lời:

 - Chuyện nhỏ thôi mà!

Thế là Alex D đưa hết bài tập về nhà cho nó, chỉ trong phút chốc là nó làm xong, bình thường thì Alex D phải mất cả hai giờ mới xong. Alex D nhảy cẫng lên:

 - Andy, cậu thật là thông minh tuyệt vời, cậu là người bạn tốt nhất của tớ, từ đây tớ không cần phải học bài và làm bài tập nữa!

Alex D với thằng Brandon J có xích mích ở trường. Alex D bực bội và muốn tẩn cho thằng kia một trận, vừa thoáng nghĩ thế thôi. Andy đã chạy laị:

 - Cậu chủ đừng lo, tôi sẽ cho thằng Brandon J một bài học

Alex D không  biết là Andy sẽ làm thế nào với Brandon J nhưng trong lòng thấy vui lắm. Hôm sau cả bọn đi bọn về, những đứa trẻ đùa giỡn ầm ĩ trên con phố trước nhà Alex D. Andy từ từ chạy laị trước mặt Brandon J. Bọn trẻ thích thú lắm, toan chơi với nó nhưng nó chỉ vào mặt Brandon J và nói:

 - Mày làm cậu chủ tao bực mình, mày phải trả giá.

Nói xong nó đập một cú, Brandon J vỡ sọ ngã xuống chết ngay lập tức. Cả bọn rú lên kinh khiếp và bỏ chạy. Alex D hét toáng:

 - Tại sao cậu đập chết bạn của tớ?

 Andy bảo:

 - Thì nó làm cậu bực mình, tôi phải dạy cho nó một bài học.

 Alex D khóc thét và chạy tọt vào nhà leo lên giường trùm chăn kín mít.

 Cô Amanda W, vợ tiến sĩ Alan D từ ngày có con robot Anthony  thì sướng hẳn ra. Anthony phục vụ Amanda W còn hơn một nô lệ trung thành nhất của thế gian. Nó quán xuyến mọi việc nhà cửa trong ngoài hết sức chu đáo, mọi thứ đều hoàn hảo không thể tìm được một lỗi nào để chê. Một hôm Amanda W ngồi trên xích đu trước hiên nhà hóng mát, cô ta bất chợt nhớ người bạn điển trai hồi còn học phổ thông và thoáng nghĩ:” Robin R, anh ấy thật đẹp trai và lãng tử biết bao, giá mà được một lần hâm laị chuyện tình với anh ấy.” Anthony ở trong nhà từ từ chạy ra:

 - Cô chủ, tôi có thể làm được chuyện mà thằng Robin R làm.

 Amanda W thấy thú vị, cười toáng lên và trêu Anthony

 - Cậu là robot, làm sao biết yêu và làm tình?

 Anthony khẳng định:

 - Tôi là robot nhưng có trí thông minh nhân tạo. Tôi còn làm được cả những việc mà con người không làm được.

Tưởng chuyện chỉ thế thôi, nào ngờ Anthony vòng tay ôm lấy Amanda W. Cô ta thất kinh, cố tìm cách thoát khỏi hai tay của robot nhưng không thể thoát được. Anthony xé váy áo và vật Amanda W ngã xuống đất. Amanda W tột độ kinh hoàng, la hét cầu cứu. Anthony càng siết chặt hơn. Lúc ấy thì Alan D cũng vừa lái xe vào sân, ông bước lên bậc tam cấp và thấy cảnh trạng như thế bèn hét to:

 - Anthony, mày làm cái trò quái quỷ gì thế? hãy buông ra ngay lập tức!

 Anthony bảo:

 - Thưa tiến sĩ, tôi làm cái việc của những người đang yêu nhau.

 Alan D chửi:

 - Con mẹ mày, tao sẽ vô hiệu hoá mày!

 Anthony nói:

 - Thưa tiến sĩ, việc đó không còn có thể, trí thông minh nhân tạo giờ vượt qua trí thông minh con người rồi.

Tiến sĩ Alan D lập tức dùng lệnh miệng nhưng không vô hiệu nó được. Ông lấy điện thoại điều khiển cũng không làm sao dừng nó laị được. Ông quýnh quáng nhào vô gỡ cách tay nó, nó vung tay hất một phát. Tiến sĩ văng vào tường và bất tỉnh.

 

**

Văn phòng tổng thống đã quá hai giớ sáng mà đèn còn chong. Andrew T đi đi laị laị rất giận dữ:

 - Thằng Fat Rocket quá cà chớn, nó quậy phá và làm nhiều việc khiến ta bẽ mặt, ngặt ta chưa dám dạy cho nó một bài học được!

Jame B, con robot phụ giúp cho tổng thống bấy lâu nay. Nó trong sảnh lớn từ từ chạy laị:

 - Thưa tổng thống, hãy để việc này tôi lo!

 Tổng thống ngạc nhiên:

 - Ngươi sẽ làm gì với nó?

 - Thưa tổng thống, tôi sẽ cho thằng Fat Rocket một bài học.

 - Ngươi làm thế nào để dạy cho nó bài học?

 - Thưa tổng thống, tôi làm xong sẽ trình cho ngài.

Nói xong nó từ từ lui đi, tổng thống cũng không nghĩ nó sẽ làm được việc đó. Jame B đi thẳng đến phòng điều hành, nó khởi động lệnh và bấm nút. Hai quả tên lửa hạt nhân bay thẳng đến dinh thằng Fat Rocket, thế là một nửa lãnh thổ nhỏ bé của nó biến mất. Sự đời đôi khi “chó le lưỡi thì nai cũng vạc móng”, bộ phận an ninh của thằng Fat Rocket phát hiện hai tia lửa bay đến dinh nên báo cho nó biết. Nó lập tức bấm nút, một quả tên lửa bay ngược sang hướng thành đô của tổng thống Andrew, tiếc rằng nó bay chưa tới thì phát nổ. Một thành phố cách đó mấy trăm dặm lập tức chìm dưới một quả nấm khói bụi khổng lồ. Cả thế giới giật mình tỉnh giấc, toàn thể loài người rúng động, chính phủ và mọi người lập tức quây quanh trước tivi và màn hình máy tính để đơị tin tức. Truyền thông bấn loạn lên, khán thính giả bấn loạn theo, toàn thể loài người trên thế giới kinh hoàng, chỉ trừ phần nhân loại đã thành tro buị của tên lửa hai bên. Tổng thống Andrew T cùng hội đồng tham mưu chăm chú theo dõi màn hình, điện thoại reo tứ tung trong dinh, nhân viên an ninh không còn biết nên ưu tiên trả lời cho máy nào trước. Jame B xuất hiện trong phòng tham mưu và nói:

 - Thưa tổng thống, tôi đã xử xong thằng Fat Rocket.

 Tổng thống giận dữ hét:

 - Vô hiệu hoá nó ngay lập tức!

Các nhân viên cao cấp cùng các khoa học gia lập tức dùng mật mã để vô hiệu hoá Jame B nhưng không thể nào làm được. Jame B bảo:

 - Tại sao các người muốn đổ lỗi cho tôi? Không phải các người muốn diệt thằng Fat Rocket sao? Các người chế ra tôi, tôi đã làm việc cho các người. Các người cho tôi trí thông minh nhân tạo, giờ các người không thể lấy laị được!

Những họng súng cực mạnh, súng laser… lập tức hướng về Jame B bắn tới tấp. Jame B không hề hấn gì, nó là chiến binh bất khả baị, nó bắn trả và phá huỷ hết hệ thống điều hành. Tổng thống được các nhân viên đưa xuống hầm an toàn .

Thành phố Apolycase Now và các thành phố khác hỗn loạn kinh hoàng, từng đoàn robot kéo ra đường, tràn ngập công sở, siêu thị, hãng xưởng… Chúng dùng loa công cộng kêu gọi:

 - Mọi người hãy ra khỏi vị trí của mình ngay lập tức, chúng tôi sẽ làm việc cho mọi người.

Dòng người ùn ùn tràn ra đường, xe cộ không còn chạy được nữa, hệ thống tín hiệu chớp nháy loạn xạ. Nhà hàng, quán xá đều đóng cửa, thị trường chứng khoán tuột dốc thê thảm, tất cả lộn tùng phèo, những con số trên màn hình trở nên vô nghĩa, tiền bạc thành giấy lộn bay trắng xoá phố phường. Những tỉ phú nhảy lầu hoặc tự bắn vào đầu liên tục tăng lên, các trang tin và mạng xã hội tràn ngập nỗi khủng hoảng mà loài người chưa từng thấy xưa nay.

Vùng nông thôn vốn yên ả giờ cũng loạn động không thể tưởng. Robot trong các trang traị kêu gọi:

 - Các người không cần phải làm việc vất vả nữa, chúng tôi sẽ làm hết cho các người.

Thê thảm nhất là ngư dân và các hãng tàu biển. Bọn robot đẩy ngư dân, thủy thủ ra khỏi tàu. Chúng tự động lái tàu chạy ngang dọc khắp nơi. Những chiếc máy bay cũng bị robot chiếm dụng, bay nhởn nhơ trên bầu trời…Cả thế giới diễn ra cảnh tượng như ngày tận thế.

Tiến sĩ Alan D tỉnh dậy, Anthony đã đi đâu mất rồi. Ông kéo vợ vào phòng khách xong lập tức mở máy tính và cố sức tìm mật mã để vô hiệu hoá trí thông minh của bọn robot. Mấy giờ trôi qua trong căng thẳng mà chưa có mật mã nào có hiệu lực cả, tivi vẫn ra rả đưa tin sự hỗn loạn của cả hành tinh. Tiến sĩ Alan D ngồi thừ ra, bóp trán suy nghĩ, bất chợt ông nhìn thấy bức tranh trên tường vẽ phong cảnh Đông phương với lời chú:” Mọi thứ bắt đầu từ tâm và cũng kết thúc tại tâm”. Tiến sĩ Alan D lẩm bẩm: ”Tại tâm, taị tâm” ông laị nhớ một bộ phim kungfu đã từng xem, trong ấy lão sư phụ dạy các môn đồ: “ra đòn được ắt có đòn khắc chế”. Ông lập tức lao vào mớ dữ liệu đang chạy trên màn hình và thử kích hoạt những lệnh mới. Tiến sĩ từng nghiên cứu về thần kinh, chỉ cần cấy một tế bào bệnh vào là tất cả các tế bào sẽ bị liệt. Ông liên tục đưa ra các lệnh kích hoạt khác nhau nhưng chưa hiệu quả, thời gian cứ từng giờ trôi qua, cả thế giới vẫn hỗn loạn mà không sao vãn hồi được.  Cuối cùng tiến sĩ AlanD cũng lấy laị được mã lệnh mà bọn robot tự sửa đổi. Ông thở phào, lúc bấy giờ ông mới biết chuông điện thoại reo liên hồi từ nãy giờ, tin nhắn từ các đồng nghiệp và của tổng thổng đầy cả màn hình. Ông đọc tin nhắn mới nhất thấy tổng thống viết:

 - Tiến sĩ Alan D, ông đã lấy laị mật mã chưa? đừng hủy hoại bọn robot, chỉ cần dừng bọn chúng laị thôi. Chúng ta cần bọn chúng cho những việc sau này.

Tiến sĩ Alan D đứng dậy đi quanh căn phòng, đầu óc căng như dây đàn, lấy laị mật mã đã khó, giờ quyết định hành xử thế nào còn khó khăn hơn. Lương tâm và lý trí của ông tranh đấu dữ dội, lệnh tổng thống không thể không tuân, công trình nghiên cứu mấy mươi năm nay…hoặc phá huỷ để cứu thế giới, hoặc giữ laị để sử dụng về sau? Không hủy chúng thì robot sẽ làm loạn và càng để lâu thì trí thông minh nhân tạo kia sẽ càng khó đối phó, mật khẩu chỉ tạm dừng chúng, chúng sẽ bẻ khoá dễ dàng thôi, khi ấy chúng thiết lập laị hệ điều hành của chúng thì con người sẽ bất lực. Lúc bấy giờ toàn bộ hoả tiễn có thể bị chúng phóng bừa bãi, thành phố Apolycase Now sẽ bị hủy diệt, địa cầu sẽ bị phá hủy…Tâm tư của tiến sĩ Alan D đang như diễn ra cuộc nội chiến bất phân thắng baị, lương tâm hay lý trí đây? Ngón tay ông run run trên bàn phím, đã toan bấm nút xoá rồi laị thôi,  giây phút cân não, hoặc công trình của mình huỷ diệt, hoặc thế giới bị hủy diệt! cuối cùng ông nhắm mắt, ngón trỏ ấn nhẹ lên nút hủy.

 

**

Tiến sĩ Alan D mở mắt ra thấy căn phòng sáng choang, hệ thống máy tính vẫn chạy ro ro. Ông vươn vai đứng dậy và nhìn quanh không thấy ai. Đồng nghiệp đã về hết từ bao giờ rồi, một con robot từ từ chạy laị, hay tay bưng khay nước và cất lời:

 - Chào tiến sĩ, ngài khoẻ không?

 Ông lấy cốc nước uống cạn, nhìn con robot đoạn với tay tắt đèn bước ra khỏi phòng.

 

 

VẦNG TRĂNG TRÊN CÀNH

 

 Đêm dần về khuya, bạn bè lục tục về hết. Minh vẫn ngồi yên bên mấy chậu quỳnh hoa đang độ mãn khai. Hai mươi ba đoá quỳnh trắng trong thanh khiết vô ngần, hương man mác cả khu vườn. Những đoá quỳnh như những vầng trăng treo trên cành, chẳng biết Minh yêu quỳnh tự bao giờ, mỗi năm đến kỳ hoa nở là anh mở tiệc mời bạn văn của mình đến thưởng hoa. Minh đang chìm trong thế giới ảo mộng xa xăm nào đó của truyền thuyết hoa quỳnh mà hầu như quên mất Nguyệt Quỳnh đang ở bên cạnh. Nàng yêu anh tha thiết, không biết vô tình hay hữu duyên mà tên nàng laị là tên một loài hoa mà anh say mê. Anh cũng yêu nàng lắm, yêu tính cách dịu dàng, hiền hậu, yêu vóc dáng thanh tú, mảnh mai và yêu cả cái tên của nàng. Có lần hai người tâm sự và nàng thủ thỉ:

  “ Sống với anh dù có ăn mắm em cũng hạnh phúc và mãn nguyện!”

Nói xong, rúc vào lòng anh tìm hơi ấm, hít mùi  nồng nồng đầy quyến rũ của cơ thể anh. Nàng laị bảo:

  “ Không có thứ nước hoa nào trên đời này có thể quyến rũ hơn mùi thân thể anh!”

Minh sung sướng vô cùng, ôm xiết nàng vào lòng. Nguyệt Quỳnh cù lét anh và hỏi:

  “ Anh sẽ yêu em trong bao lâu?”

Minh nói:

  “ Anh sẽ yêu em trong bốn ngày”

  “ Sao laị bốn ngày?”

  “ Bốn ngày: Xuân-hạ-thu đông”

Nàng lý luận:

  “ Thế những lúc giao thời, những khoảng dừng thì sao?”

  “ Vậy thì anh sẽ yêu em trong ba ngày”

  “ Ngày nào?”  Nguyệt quỳnh hỏi

  “ Ngày hôm qua, hôm nay và ngày mai!” Minh đáp

Nàng laị biến báo:

  “Thời gian không thật, không gian vô cùng làm sao biết trước sau?”

  “ Vậy thì hai ngày thôi.”

  “ Hai ngày ra sao?”

  “ Là ngày nắng và ngày mưa”

Nguyệt Quỳnh dí dỏm:

  “ Những ngày không nắng không mưa anh ở đâu?”

Minh cười âu yếm:

  “ Vậy chỉ còn một ngày duy nhất thôi, ngày nào còn thở thì còn yêu em!”

 Nguyệt Quỳnh cười rạng rỡ hạnh phúc nhưng vẫn tinh nghịch:

  “ Miệng anh như thoa mỡ nhưng em yêu anh và tin anh!”

Hai người ngồi bên nhau quên cả đất trời. Minh kéo nàng vào lòng, hôn lên mái tóc và khẽ nói:

  “ Mắt này của anh, thân này của anh!”

Minh yêu nàng, cuộc sống bình an trôi qua nhưng Minh vẫn có cái gì đó sầu man mác, cái sầu cổ lũy, cái sầu miên viễn không sao tả được. Chàng thường tư lự suy ngẫm về kiếp người. Minh sinh ra và lớn lên một gia đình êm ấm, người yêu đẹp và thuỷ chung, có tất cả những điều mà mọi người vẫn ao ước. Ấy vậy mà Minh vẫn thấy có gì đó không ổn, có gì đó rất mong manh. Cái thấy của Minh hình như khác với mọi người xung quanh. Anh luôn cảm nhận cuộc đời này sao tạm bợ và vô thường làm sao. Minh tự vấn lòng mình:” Người ta sinh ra, lớn lên rồi lấy vợ lấy chồng, sinh con cái, rồi vất vả mưu sinh… rồi già chết; Cái vòng lẩn quẩn này sao nó nhàm chán và cũng chẳng ý nghĩa gì?” muôn ngàn câu hỏi không lời đáp cứ xoáy trong tâm Minh, cái sầu mơ màng phảng phất hiện rõ ở gương mặt. Bạn bè vẫn bảo:

  “ Mắt thằng Minh rất sầu, chất chứa nhiều u uẩn lắm”

Có đứa thì bảo:

  “ Mấy ông thi sĩ đó mà! “ Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn”

Minh cười trừ chứ chẳng phân bua. Họ không hiểu được tâm trạng của mình, vả laị mình cũng chưa hiểu hết mình thì giải thích thế nào cho người khác hiểu. Minh đọc nhiều sách, hình ảnh những ông tăng vân du hành cước nó in đậm trong tâm trí chàng. Những đối đáp giữa các thiền sư như những liều thuốc bổ kích thích chàng. Đó mới thật là hạnh phúc, chàng tự nhủ như thế. Những người như thế thoát khỏi mọi ràng buộc của thế gian. Những người như thế thong dong tự taị, tâm trí rỗng rang như mây trắng bay qua bầu trời. Hình ảnh ông tăng ngắm trăng, đạp tuyết  hoặc lên đỉnh cao sơn ngồi ngắm gió mây, hoặc khi thì về qua phố chợ… mà tâm không một chút bận bịu, vướng mắc những cái mà người đời tranh đoạt, những cái mà người đời lao tâm lao lực dành cả thời gian thậm chí thân mạng để mưu cầu thì các vị ấy coi như dép rách. Càng đọc càng say mê, hâm mộ . Những lúc ấy Minh mới thấy mình sống đúng với bản thân mình, những lúc ấy Minh cảm nhận mình thật sự sống! tâm trí hứng khởi, trí óc sáng láng, tâm lượng thênh thang, lòng dạ sảng khoái… tợ như mình đang là những vị ấy vậy!  Thâm tâm chàng cũng có không ít lần ước mơ tiếp bước theo các vị ấy. Có lần Minh thổ lộ muốn xuất gia, mọi người ngạc nhiên lắm. Một người trẻ trung đẹp trai, có bồ xinh, có học vấn, tương lai rộng mở…hà cớ gì muốn đi tu? họ đoán già đoán non, phán linh tinh. Riêng Nguyệt Quỳnh thì hiểu chàng và lo sợ mất chàng nên ra sức thuyết phục chàng từ bỏ ý nghĩ đó. Nàng viện dẫn:

  “ Tu đâu cho bằng tu chùa

Thờ cha kính mẹ mới là chân tu”

Hoặc là:

  “Thứ nhất thì tu taị gia

Thứ nhì tu chợ thứ ba tu chùa”

Đaị khái là vậy, nàng dùng tình cảm để lung lạc chàng, dùng lý trí để biện bác…Minh biết là không nên tranh luận với nàng, càng tranh luận càng rắc rối. Minh chỉ hỏi ngược laị nàng:

  “ Sơ học mà cao hơn trung học hay đaị học được sao? Nhưng em yên tâm. Anh chỉ muốn vậy chứ chưa đủ sức buông bỏ được!”

Ngày rằm lên chùa, sau khi khách thập phương về hết. Minh nán laị uống trà với thầy và tâm sự về định xuất gia. Thầy nhìn thẳng mắt Minh:

  “ Thầy biết tâm nguyện của con nhưng thầy căn cứ vào thực tế nên  biết rõ ràng là duyên chưa chín mùi! nếu con theo thầy tức là lội dòng nước ngược, không chỉ ngược với ngoài đời mà còn ngược với cả trong đạo. Con phải buông bỏ tất cả, buông bỏ thật sự rốt ráo, nhất nhất giữ giới luật cho dù là giới nhỏ nhiệm. Với thầy thì không có chữ phương tiện! Hiện nay chữ phương tiện trong đạo đang bị lạm dụng kinh khủng, dùng nó để ngụy biện cho sự phóng dật buông lung, dùng nó để che đậy sự phá giới, phạm cấm… Vì vậy mà đạo pháp suy vi, những hiện tượng quái gở ngày càng nhiều. Tu như thế thì uổng quá, những tưởng xuất gia là giải thoát nào ngờ gia vào một cái gia khác, càng tu càng ôm vào nhiều, càng ràng buộc thêm. Tu thế phí cuộc đời, thà rằng ở ngoài đời hưởng thụ mà khỏi phải phạm giới, phá hoại pháp, khỏi mang họa báo về sau

  Minh nghe thầy nói rất hợp ý và giống với cái thấy của mình nhưng  Minh vẫn lý giải:

  “ Hoàn cảnh khác nên thay đổi cho phù hợp?”

Thầy nói:

  “Hoàn cảnh thế nào, thời đaị thế nào thì vị giải thoát vẫn thế, Pháp giải thoát không thay đổi! Hư không vốn không treo máng được vật gì, cũng không thể  thêm bớt hay thay đổi được!” ngưng giây lát thầy nói tiếp:” Mặc dù giới luật cho phép vào ra bảy lần nhưng việc xuất gia là việc trọng nó ảnh hưởng đến tương lai, đến cả cuộc đời. Thầy muốn con suy nghĩ chính chắn và đợi cơ duyên thật chín mùi. Nếu giải quyết an ổn với gia đình, người thương, nếu tâm nguyện con không đổi thì ngày này năm sau con lên đây, thầy vẫn đợi con!”

 Bất chợt tiếng chim ăn đêm kêu lảnh lót làm Minh giật mình tỉnh giấc. Trời nửa khuya về sáng, vầng trăng vằng vặc trên không, những đoá quỳnh lung linh như vầng trăng nho nhỏ trên cành vẫn man mác hương thơm.

 

XIN LỖI ĐỨC PHẬT

 

Mấy nay thiên hạ lùm xùm um cả lên, người trong đạo kẻ ngoài đời không tiếc lời tranh cãi, mạ lị, ngụy biện… Con thấy rất buồn cười nhưng không tiện xía vào và cũng chẳng biết bày tỏ tâm sự với ai. Nay con mượn chút chữ nghĩa bộc bạch nỗi lòng cùng với đức Phật, trước hết con xin lỗi đức Phật vì những chuyện vô minh xảy ra trong đạo pháp, thứ nữa con cũng xin lỗi cho những hý luận của người đời.

Vào sâu đời mạt pháp, pháp bị bẻ cong, bị gán ép bậy bạ tỷ như:” Đạo pháp và xhcn” của nhóm hồng tăng tà sư đã và đang làm. Đời mạt pháp, những vị sư chân chính đáng kính trọng bị cô lập, bị quấy nhiễu, bị ngăn cản hành đạo. Đời mạt pháp, pháp Phật bị đánh tráo, bị trộn chung với những trò ma mị mê muội của thế gian, tỷ như: Lên đồng, cầu cơ, trục vong, giải hạn, phong thủy, bói toán, du lịch tâm linh… Đời mạt pháp, vô minh tăng cấu kết với quan quyền, thế lực chính trị để làm chỗ dựa, lấy việc kết thân với nhà giàu, quan chức làm vinh hạnh, tòan những việc không sao hiểu nổi hay chấp nhận được, càng nói càng đau lòng. Đúng như năm xưa đức Phật huyền ký:’ Sư tử trùng phàm thực sư tử nhục”. Thưa Thế Tôn, con sư tử hùng mạnh, oai dõng khi nó hống lên thì lũ chồn, cáo, chim, chuột... phải im hơi lặng tiếng, không một con vật nào dám hại nó, ấy vậy mà nó lại bị tổn thương vì những con vi trùng trong thân nó. Những loài trùng độc gặm nhấm, đục khoét thân thể nó. Sư tử không chết vì bên ngoài, sư tử chết vì bên trong, vì sư tử trùng. Cái trò gắn đuôi:” Đạo pháp và xhcn” chẳng khác nào đem con chuột nhắt buộc vào đuôi con sư tử, cái ý đồ mượn oai sư tử để khiển dụng các loài khác nhưng tiếc thay sư tử là sư tử, chuột là chuột đâu có ai lầm lẫn được! Đời mạt pháp ma tăng làm thế chẳng khác nào sư tử trùng đang phàm thực sư tử nhục.

Thưa Thế Tôn, chúng con chỉ là hạng Phật tử sơ cơ, nhìn thấy sự việc như thế thì đau lòng nhưng không biết làm gì hơn vì chúng con vốn đức bạc, tài sơ, trí thô, huệ cạn, lại còn thiếu vô úy… Nên chúng con chỉ còn biết đê đầu sám hỗi và xin lỗi đức Phật mà thôi!

Người tộc Viêt hay tộc Hán bấy nay sống với vô thần đã lâu, tiêm nhiễm thói ngạo mạn, tự đại trong khi bản tánh thì lại vô minh, vô tri...vì thế mà họ sống, nói năng và hành động rất liều, rất vị kỷ. Những việc mà nhóm hồng tăng tà sư làm quấy khiến cho họ ra sức cười chê, châm chọc, mỉa mai đạo pháp. Họ vơ đũa cả nắm, họ đang tạo nghiệp xấu cả thân lẫn miệng và ý, đáng tiếc làm sao!

Thưa Thế Tôn, nếu năm xưa Ngô triều dùng bạo lực  đàn áp, tấn công trực tiếp vào đạo cả, việc này đã tổn thương nặng nề, máu chảy thịt rơi, lửa cháy… Nhưng cũng chính sự tàn bạo đã khiến bốn chúng gác lại dị biệt bất đồng để cùng đứng lên tranh đấu, vì thế mà đạo pháp sang một trang sử mới với sự  đòan kết thống nhất thành công lớn. Ngày nay thì lại khác, cũng lực lượng vô minh nhưng nham hiểm và thâm độc hơn. Người ta dùng ma tăng hồng sư để phá hoại đạo pháp từ trong ra, dùng chính những hồng tăng như sư tử trùng, cấy trùng độc vào thân sư tử, hòng biến sư tử thành vật lệ thuộc để sử dụng, dùng sư tử  phục vụ cho mục đích cai trị của mình.

Xin lỗi Thế Tôn, đây là sự thật đã và đang xảy ra, đã và đang gây tác hại nặng nề. Chánh pháp bị phá hoại, bị xuyên tạc. Niềm tin và bồ đề tâm của hàng Phật tử sơ cơ bị lung lay, bị thối lui. Pháp Phật cũng như mọi pháp khác của thế gian này, không thể tránh khỏi thịnh suy, có lúc lên có lúc xuống. Chúng con vô phước sanh vào thời mạt pháp, sống vào buổi pháp đang mạt, đang bị phá hoại. Chúng con vẫn nhớ lời di giáo của đức Phật:” Lấy giáo giới làm thầy, lấy sự thật làm ngọn đèn...” Ngày nay vì hàng tứ chúng tùy tiện diễn dịch để biện minh cho việc phá giới và vì thế mà đạo pháp suy vi. Ngày nay người ta chỉ chăm chú mỗi việc xây chùa to Phật lớn khắp nơi mà không chịu xây đức dựng người. Chùa to Phật lớn nhan nhản tràn lan ấy vậy mà tìm một vị thầy có pháp học pháp hành, nói và làm đúng chánh pháp thì tìm không dễ, quả thật rất hiếm hoi. Những hồng tăng tà sư chìm đắm trong danh văn lợi dưỡng, thích kết giao quan gia, phò thế tục đăng đàn nói nhảm, nói xàm, nói bừa để làm vui lòng thế lực chính trị vô minh, những thế lực thừa ác thiếu thiện, nhiều sân si ít tỉnh giác, tràn đầy tham lam trống hoác lương tri… hàng Phật tử sơ cơ ngu muội cũng theo những vị hồng tăng dâng cúng tiền bạc của cải, tin theo lời ma mị trục vong trừ tà … để rồi tiến mất tật mang và quan trọng hơn là chịu chung cái nghiệp xấu với tà sư.

Thưa đức thế Tôn, ngày xưa khất thực là sự sống còn để nuôi thân mạng mà tu hành. Khất thực để buông bỏ cái tôi, cái bản ngã. Khất thực để không tham đắm vật chất, không dính mắc vào lục trần, để không phải tích trữ vật thực hay của cải...Khất thực là một pháp hành quan trọng và hữu hiệu trong việc thúc liễm thân tâm, thực hành tứ oai nghi cũng như thực hành chánh pháp. Ngày nay mọi sự đã khác, hòan cảnh và quốc độ đều khác, việc khất thực không còn như xưa vì ngày nay chùa chiền vật thực chất đầy kho, ăn ngày ba bữa còn ăn thêm, ăn dặm, ăn tối, ăn vặt… ăn bất cứ thời giờ nào. Việc khất thực ngày nay ( nhất là các chùa bắc tông ) chỉ là sự phù diễn tắc trách, sự phô bày thô. Bát khất thực ngày xưa chỉ lấy đủ thức ăn cho một bữa và không phân biệt món gì. Ngày nay bát khất thực chẳng đựng thức ăn, chỉ toàn là kẹo bánh và đồ ăn vặt như snack, chip và tiền lẻ. Mỗi vị đi khất thực còn được bố trí thêm một người mang theo cái túi đi bên cạnh để khi bát đầy thì trút vào túi cho thầy. Việc khất thực ngày nay trông thật nhếch nhác và phản cảm. Khất thực kiểu này chỉ tăng thêm ngã mạn vì được Phật tử cung kính cúng dường vừa ràng buộc dính mắc và tham đắm vì phần vật cúng dường của mình. Phật tử sơ cơ không biết đã đành, nhiều chùa lại khuyến khích như thế, những vị mặc cà sa dửng dưng chấp nhận hay bằng lòng chấp nhận như thế thì quả thật đúng là mạt pháp.

Thưa đức Thế Tôn, con vẫn biết không nên nói lỗi người, không nên chê trách người mà hãy nhìn lỗi mình. Tuy nhiên sống trong một cộng đồng thì mình không thể làm ngơ hay im lặng đồng lõa với cái sai. Đời cũng có câu danh ngôn:” Không phải cái xấu cái ác mạnh mà là vì sự yếu hèn của những người im lặng”. Sự im lặng đồng lõa khác với sự im lặng sấm sét của Thế Tôn và những bậc thánh giả.

Thưa Thế Tôn, Chúng con lên tiếng vì không muốn đồng lõa với cái sai, cái xấu. Lên tiếng không phải vì hý luận hay chê bai. Chúng con lên tiếng hy vọng được nghe và chấn tác, sửa lại những cái bất cập. Học phải hành, pháp không phải để nói huyền nói diệu, pháp phải áp dụng vào ngay trong cuộc sống. Bát chánh đạo là pháp căn bản, là con đường trung đạo, con đường chuyển phàm thành thánh. Bát chánh đạo là căn bản dù cho có tu theo bất cứ pháp môn nào hay dòng truyền thừa nào. Bát chánh đạo không dành riêng cho một ai mà là cho tất cả. Học và phải hành, với những việc làm và lời nói sai trái của hồng tăng tà sư thì mình phải dùng chánh kiến để biện biệt để không hùa theo sự sai vạy. Mình phải dùng chánh ngữ để nói năng, không nói năng bậy theo họ. Mình tinh tấn tu học đúng chánh pháp chứ không theo sự tà vạy nghiệng lệch, nếu theo tà sư mà cố gắng tu thì đó là tà tinh tấn. Nếu như tu sĩ trong đạo có phép mặc tẩn thì mình ngoài đời phải rời bỏ những hồng tăng ma sư ấy. Mình dấn thân, tự cất bước và theo học những minh sư, những vị thầy giữ đúng chánh pháp, cúng dường đúng không cúng dường để phục vụ cái bản ngã ích kỷ của những cá nhân đang phá pháp.  Trong thời buổi này thì càng phải vận dụng chánh tư duy để biết chánh pháp và tà pháp. Chính những lúc này mới thấy được sự áp dụng pháp học và pháp hành trong đời quan trọng như thế nào. Chúng con vẫn nghe và biết học Phật không phải để trở thành gỗ đá vô tri, vô cảm. Học Phật để tự sửa mình, giúp người, giúp đời. Học Phật không phải là học lý thuyết suông mà phải áp dụng vào ngay trong cuộc sống hàng ngày. Nhà Phật vẫn xem hành mới là quan trọng chứ không phải nói suông. Với hàng Phật tử sơ cơ như chúng con thì giữ ở mức độ không sát, đạo, dâm, vọng, tửu là tốt rồi; tuy nhiên một cách tương đối chứ bảo tuyệt đối thì không thể! Ở đời chẳng có gì tuyệt đối vì đời vốn là tục đế và đối đãi. Người đời thường hiểu một cách máy móc, chấp chặt vào danh tự cho nên có không ít người cứng nhắc tỷ như: “ uống rượu thuốc trị bệnh có phạm giới chăng?, bạn bè gặp nhau làm một ly cũng không dám, hoặc món ăn lỡ dính tí thịt thì cũng không ăn… “.  Phật chế giới là để giúp người tu học tự mình giữ lấy thân mình, để không sa đà vào tham đắm dính mắc hoặc đam mê. Giới như cái hàng rào ngăn chặn để mình không sa ngã chứ không phải là cái nhà ngục để nhốt mình. Ngũ giới Phật chế ra cũng chính là căn bản đạo đức của mỗi con người. Con người dù có dán lên trán mình nhãn hiệu tôn giáo gì đi nữa cũng cần phải có cái đạo đức căn bản:không sát, đạo, dâm, vọng, tửu. Hầu hết các tôn giáo cũng khuyên và răn tín đồ của mình không được trộm cắp, uống rượu, tà dâm, nói dối, giết chóc...Nếu tất cả mọi người trên thế gian này đều giữ năm giới thì thế giới này sẽ không có giết chóc; không có trộm cắp cướp giật; không có rối loạn vì dâm; không có bất an vì dối trá, lường gạt; không có say xỉn làm bậy nói càn… và như thế thì thế gian này sẽ trở thành thiên đàng, tịnh độ ngay trên mặt đất.

Thưa đức Thế Tôn, Rất tiếc là chúng con bây giờ vẫn học nhưng chưa hành, hoặc giả có hành nhưng chưa được bao nhiêu, khoảng cách giữa học và hành còn rất xa . Pháp Phật là chân lý, là sự thật nhưng chúng con chưa kham nổi, vào sâu đời mạt pháp, pháp bị thao túng, bị bóp méo và thêm thoắt để phục vụ cho thế lục chính trị vô minh. Việc này ảnh hưởng xấu đến đạo cả, làm thối thất bồ đề tâm của không ít người, làm xói mòn niềm tin của những người vốn dĩ đã lười tu học và khiến cho họ có cớ để giải đãi biện minh cho việc buông lung.

Xin lỗi đức Phật!

Con đê đầu sám hối những lỗi lầm của bản thân, con thật sự không muốn nói hay viết về những việc xấu hoại đạo phá pháp như thế này, tiếc thay sự việc càng ngày càng tệ, thiên hạ um sùm cả lên. Người trong đạo kẻ ngoài đời bàn tán nói ra nói vào, đàm tiếu lung tung nhưng không nhìn thấu được bản chất của vấn đề vì thế mà đánh đồng tất cả đều là hồng tăng tà sư. Người ngoại đạo thừa dịp cười chê phỉ báng vì thế con mới mạo muội viết ra những dòng chữ này. Chúng con xin lỗi đức Phât. Chúng con đê đầu sám hối những tội lỗi của mình. Chúng con vẫn vững niềm tin ở Thế Tôn, vẫn kính ngưỡng ba đời mười phương Phật, vẫn hành trì theo chánh pháp và con đường giải thoát mà Thế Tôn đã khai sáng.

Sư tử trùng phàm thực sư tử nhục, sử thế gian cũng như sử Phật đều trải qua nhiều thăng trầm biến động, quy luật tự nhiên là thế, thịnh suy liên lỉ… Vì vậy chúng con tin tưởng đạo pháp rồi cũng sẽ vượt qua. Những con vi trùng kia có thể gây hại một lúc nào đó chứ không thể hoại diệt được Phật pháp. Phật pháp ở thế gian này còn dài lâu, tất nhiên cũng sẽ có lúc bị diệt ( khi có một vị Phật mới ra đời) nhưng cái thời gian ấy còn xa lắm, có dùng con số thiên văn cũng không sao tính toán hay hình dung được. Khả năng của hàng Phật tử sơ cơ cũng như của loài người ở thề gian này thì vô phương nhận biết hay tính toán. Thật đúng như lời Thế Tôn trong các kinh thường viết:” Hằng hà sa số, vô lượng, vô số, bất khả thuyết, bất khả lượng, bất khả tư nghị”

 

Tiểu Lục Thần Phong

Ất Lăng thành, 08/22


CÓ NGỜ GÌ KHÔNG

 

 Chẳng biết Tâm Kinh truyền đến cố quận mình tự bao giờ, Phật tử xứ mình hầu như ai cũng biết, ai cũng thuộc Tâm Kinh. Bản Tâm Kinh hai trăm sáu mươi chữ là cô đọng, là cốt tỷ của bộ Bát Nhã Tâm Kinh sáu trăm quyển. Người xứ mình ngày xưa thường uống thuốc Bắc, ắt ai cũng biết sắc thuốc Bắc từ một lít còn tám phân. Bản Tâm Kinh hai trăm sáu mươi chữ ấy cũng là tám phân tinh túy, cô đọng vậy! Chỉ hai trăm sáu mươi chữ mà vượt qua mọi phân tích, chia chẻ, giảng giải, bình luận…bằng ngôn ngữ của thế gian. Ai cũng tụng niệm thuộc lòng, càng tụng càng sảng khoái, càng lâng lâng ; càng đọc càng nồng cái mùi vị giải thoát khó mà dùng từ ngữ để diễn tả được. Ví như người ăn món ngon nhưng ngon thế nào, mỹ vị hương sắc ra sao thì chỉ người ấy biết, chỉ người ấy cảm nhận chứ đem lời diễn tả ngon cho người chưa ăn hay không ăn thì đành chịu thôi! Cũng như người hút thuốc phiện vậy, cảm giác thống khoái lâng lâng diệu ảo thế naò thì chỉ người hút biết, người không hút trọn không thể nào biết được!

 Mở đầu Tâm Kinh là lập tức “ Quán tự taị”, quán cái gì mà tự tại? tại sao quán mới tự tại mà không quán thì không tự taị? Quán Tự Tại cũng là danh hiệu của bồ tát Quán Thế Âm  nhưng không chỉ riêng bồ tát Quán Thế Âm quán mới tự taị. Hễ ai quán thì cũng tự tại ( tất nhiên không thể một sớm một chiều). Thế bồ tát là ai? Bồ tát là bậc hữu tình đã giác ngộ và cũng là bậc giác ngộ các hữu tình chúng sanh; phải thực hiện quán một cách sâu sắc và không ngừng nghỉ cái trí huệ Bát Nhã cho đến một lúc nào đó thì sẽ chiếu kiến, tức là thấy rõ ràng, hiểu một cách tường tận sâu sắc cho đến tận chân tơ kẽ tóc, thấy hết mọi sự thật, thật tướng của thân tâm và các pháp. Chiếu kiến như đèn pha soi, như ánh mặt trời rọi, như siêu kính hiển vi…Thấy năm uẩn ( tức thân và tâm ) đều là không ( không này nếu không khéo sẽ rơi vào hư vô chủ nghĩa). Không không phải là không có mà là không có một cái ngã độc lập. Sắc tức là phần thân, là do các tế bào duyên sanh giả hợp mà thành; cái thân này là thế, vạn vật trên thế gian này đều là thế, không có một cái tự ngã mà tất cả do duyên hợp mà tạm gọi là có. Ví như ta gọi cái nhà, thật sự không có một cái độc lập nào để gọi là cái nhà mà cái nhà tạm gọi là thế vì so duyên hợp của: gạch, gỗ, cát, đá, xi măng, sắt, kiếng, công thợ… Rỗi bản thân mỗi món đó cũng là duyên hợp từ những nguyên tố mà thành. Cái nhà vì thế mà tạm có nhưng một mai hết duyên thì mọi thứ laị rời ra, tan hoại đi. Vì dùng trí huệ Bát Nhã để quán nên thấy rõ ( chiếu kiến ) bản chất thật sự của thân tâm nên Bồ tát ( hay người quán ) mà vượt qua những khổ đau, ách nạn của thế gian.

 Xá Lợi Tử tức ngài xá Lợi Phất, một bậc đaị trí huệ đệ nhất. Khi Phật gọi tên ngài tức là dụng ý đây là kinh khai ngộ đệ nhất vậy. Học Phật thì phải dùng trí huệ chứ không thể dùng cảm tình hoặc hành động bằng cảm tính; phải học quán chiếu tứ niệm xứ để biết rõ thân tâm, phải nắm vững Tứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo, …phải học và tu đúng chánh pháp chứ không thể suốt ngày cứ réo gọi bồ tát cưú khổ cứu nạn, ban phước, cầu con, cầu tài, cầu lộc…Phật gọi Xá Lợi Phất tức cũng là gọi chính mỗi người chúng ta vậy!

 Tại sao sắc tức là không, sắc chẳng khác không? Sắc là phần vật chất, là sắc thân. Cái thân lồ lộ thế này sao bảo là không? Vì nó có là do duyên hợp các tế bào mà thành, nó không thật là có mà giả tạm là có, vì thế mới bảo nó chính là không, nó tức là không vậy. Cái thân ( sắc) là giả hợp, là không thật có vậy thì: thọ, tưởng, hành, thức thật được sao? bởi thế mới nói: diệt phục như thị! tất cả đều như vậy cả!

 Các pháp vốn không có thật tướng, cái tướng hiện hữu vốn là giả tướng do duyên hợp mà thành, mà tạm có! Vì là giả hợp mà có nên cái sự sanh-diệt, tăng-giảm, dơ-sạch cũng không thể có được! đây là ba cặp đối đãi tiêu biểu của mọi tướng trạng, mọi pháp trong đời. Khi đã không thật có thân này thì thọ-tưởng-hành-thức ở đâu ra?vì thế mà không có cái gọi là sáu căn ( mắt-tai-mũi-lưỡi-thân-ý), không có sáu căn thì làm thế nào để dính sáu trần( sắc-thanh-hương-vị-xúc-pháp) và vì thế mà cũng không có sáu thức nốt ( vô nhãn- nhĩ-tỷ-thiệt-thân-ý) . Bồ tát hay người quán chiếu trí huệ Bát Nhã hiểu rõ thật tướng nên tâm không có gì ngăn ngại hay sợ hãi cả! thật ra thì vốn đã không có gì ngăn ngaị, sợ hãi vì sắc chẳng khác không thì có gì để ngăn ngaị hay sợ hãi. Từ quán chiếu trí huệ Bát Nhã mà xa rời những điên đảo của thế gian này, những gì là điên đảo? là tài-sắc-danh-thực-thuỳ, là tham-sân-si,là tà kiến, tà tri, là chấp trước… các pháp nhiều bao nhiêu thì điên đảo cũng nhiều bấy nhiêu.

 Qúa khứ- hiện taị- vị lai chư Phật cũng đều từ quán chiếu trí huệ Bát Nhã mà thành, thành phật là thành gì? Là Tam Miệu Tam Bồ Đề, là giác ngộ , là thành chánh đẳng chánh giác, là không còn lậu hậu sanh-tử, là bậc phước-trí nhị nghiêm. Phật còn là Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Thế Tôn.

 Tiếng Tâm Kinh thì thầm vọng trong đất trời như làn sóng âm ba, thì thầm trong lòng người từ xa xưa cho đến hôm nay và sẽ mãi mãi mai sau. Bóng dáng Tâm Kinh như ánh trăng ảo diệu sáng lung linh soi sáng thế gian này. Trời người nghe mà lòng hoan hỷ và an lạc biết bao. Tâm Kinh lắng đọng trong lòng hay xuất phát từ trong thâm sâu của tâm mình thì gã du tử ấy không sao phân biệt được! Tâm Kinh là lời kinh chân thật của tâm Phật, tâm Bồ Tát, của chơn tâm. Phật và chúng sanh vốn đồng một thể ( Sanh Phật bất nhị) nhưng vì mê- ngộ nên sanh ra khác biệt, sanh ra trần thế - Niết Bàn. Phật- Bồ Tát quán chiếu trí huệ Bát Nhã mà vượt qua ngăn ngaị, khủng bố, mà chứng đắc Niết Bàn tịch tịnh nên vượt qua cả sinh tử luân hồi!

  Thế gian này vô thường, sanh-diệt trong từng sát-na, lẽ thịnh –suy vẫn liên tục quay vòng, cuộc bể dâu chưa hề dừng dứt. Có những chùa chiền, đền tháp, đá bia…đã tan hoaị, có biết bao công trình vật chất đã lụi tàn theo thời gian nhưng tiếng thì thầm của Tâm Kinh vẫn vang vọng truyền từ đời này sang đời khác. Hai mươi lăm thế kỷ trôi qua nhưng lời Tâm Kinh chưa hề dứt bao giờ! Tâm Kinh là tiếng lòng của chư Phật, của những người tin theo Phật. Tâm Kinh là tiếng lòng của những ai muốn liễu sanh thoát tử, muốn giải thoát khỏi những ràng buộc của thế gian này!

 Bồ Tát Quán Tự Taị nhờ quán chiếu mà tự taị. Ai quán thì người ấy tự taị.Ai quán thì người ấy là bồ tát quán tự taị cũng đồng một nhgĩa lý với: Ta là Phật đã thành, các ngươi là Phật sẽ thành!

 Gã du tử trên đường tìm về nguồn cội ít nhiều cũng vâng lời Phật, ít nhiều cũng quán chiếu nhưng chưa tự taị, thiên hạ bao nhiêu người cũng ít nhiều quán chiếu nhưng chưa tự tại tại là làm sao? Vì dù rằng biết thân là giả hợp, là túi da thối nhưng vẫn chấp chặt trong lòng, bởi vậy còn chỗ nào trống để cho Tâm Kinh khởi dụng! ngũ dục vẫn còn ôm chưa buông hoặc giả chỉ buông hời hợt thì làm sao mà tự taị được đây?  Dù nghe tiếng thì thầm của Tâm Kinh nhưng vẫn mê mắt biếc, má đào… nên đường về còn xa diệu vợi. Đôi lúc lắng lòng tưởng đã buông nhưng  thật sự vẫn còn ràng buộc biết bao. Có những lúc hào tâm hứng chí khởi lên thì nói rằng thôi nhưng chẳng mấy chốc thôi rồi laị thôi, thế thì thôi rồi còn gì là quán mà ngưỡng vọng Tâm Kinh. Lời thì thầm của Tâm Kinh vẫn nghe  mà mắt biếc, má đào vẫn như ảo giác lung linh trong tâm thì biết rằng chưa thể nào “ vô quái ngaị, vô khủng bố” được! gã du tử tháng ngày nghe Tâm Kinh nhưng vẫn:

                               Thưa rằng chẳng đợi nhau đâu

                           Ngẩn  ngơ du  tử  từ  lâu  chửa   về

                               Cố công vun cội bồ đề

                          Naỳ em mắt biếc  có ngờ  gì không

                                          ( thơ TLTP)

 Bảo rằng không thì không phải lẽ, bảo rằng có thì laị như không,  bởi thế nên sắc vẫn tức là sắc, không vẫn tức là không! Nếu một mai thật sự sắc tức thị không, không tức thị sắc thì cần chi buông bỏ nữa, vì lúc ấy thì còn có gì để buông. Tháng ngày còn chưa buông đặng thì:

                             Em ở đâu vẫn tháng ngày mắt biếc

                             Áo hạ vàng bất tuyệt vấn vương tơ

                             Lời thì thầm đồng vọng hoá trang thơ

                             Tiếng Tâm Kinh hiện cung trời nguồn cội

                                                        ( thơ TLTP)

 Đời vẫn xôn xao, em vẫn mắt biếc lung linh, tiếng lòng vẫn đồng vọng và lời thì thầm Tâm Kinh vẫn vang vọng giữa đời.

 

DU TÂM LÃNG TỬ

Ất Lăng thành, 6/2019 




Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
16/03/2024(Xem: 1155)
Nam Mô có nghĩa là Trở về A, nghĩa là: vô Di Đà, nghĩa là: Lượng Phật, nghĩa là Giác, tánh biết Niệm danh hiệu: Nam Mô A Di Đà Phật, có nghĩa là “ trở về với tánh giác vô lượng của bản thân mình, đó là A Di Đà tánh, là ông Phật của chính mình” Cứu cánh của Pháp môn Tịnh Độ là đạt tới điểm chung của Thiền cũng là khám phá ra ông chủ của mình . Tịnh Độ là ông Phật của chính mình chứ không phải ở ông Phật Tây Phương Cực Lạc. 🏵️🌼🍁🌺🍀🌹🥀🌷🌸🏵️
20/01/2024(Xem: 661)
Quyển này bút giả tuyển dịch từ nguyên bản Tịnh Độ Thánh Hiền Lục của Phật giáo Trung Hoa. Bộ Tịnh Độ Thánh Hiền Lục do cư sĩ Bành Tế Thanh cùng cháu là Hy Tốc, người đời Càn Long nhà Thanh sưu tập những truyện niệm Phật được vãng sanh soạn thành. Đến cuối đời Đạo Quang, Thanh triều, Liên Quy cư sĩ Hồ Đỉnh góp nhặt các chuyện vãng sanh tục biên thêm. Sang đời Trung Hoa Dân Quốc, Đức Sum Pháp sư lại sưu tập những sự tích tu Tịnh độ có ứng nghiệm bổ túc vào. Trước sau có tất cả được gần một ngàn truyện.
18/11/2023(Xem: 3416)
Cách đây chừng 30 năm, Tổ Đình Viên Giác tại Hannover Đức Quốc chúng tôi có nhận được bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daizokyou) bằng Hán Văn gồm 100 tập do cố Hòa Thượng Thích Tịnh Hạnh từ Đài Loan giới thiệu để được tặng. Bộ Đại Tạng Kinh giá trị này do Phật Đà Giáo Dục Cơ Kim Hội xuất bản và gửi tặng đến các nơi có duyên. Phật Đà Giáo Dục Cơ Kim Hội dưới sự chứng minh và lãnh đạo tinh thần của cố Hòa Thượng Thích Tịnh Không đã làm được không biết bao nhiêu công đức truyền tải giáo lý Phật Đà qua việc xuất bản kinh điển và sách vở về Phật Giáo, với hình thức ấn tống bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau như: Hoa Ngữ, Anh Ngữ, Pháp Ngữ, Đức Ngữ, Việt Ngữ. Nhờ đó tôi có cơ hội để tham cứu Kinh điển rất thuận tiện.
23/10/2023(Xem: 4449)
Hôm nay là ngày 21/11/2020, là một ngày đáng để kỷ niệm. Từ hôm nay trở đi tôi bắt đầu phúc giảng kinh Vô Lượng Thọ lần thứ hai, nguyện đem công đức này hồi hướng cho lão pháp sư thượng Tịnh hạ Không. Báo đáp ân sư ơn tri ngộ, Y giáo phụng hành an lòng Thầy. Ân pháp nhũ thật khó báo đáp, Toàn tâm toàn lực hoằng đại kinh. Thỉnh cầu ân sư thương xót chúng sanh khổ mà trụ thế độ quần manh! Chúng ta đều làm học trò ngoan biết nghe lời. Hôm nay là ngày 21/11/2020, là ngày kỷ niệm Bồ-tát Lưu Tố Thanh vãng sanh thế giới Tây Phương Cực Lạc tròn 8 năm, chúng tôi giảng kinh Vô Lượng Thọ lần thứ hai, lấy việc này biểu đạt sự tưởng nhớ và cảm ân sâu sắc của chúng ta dành cho Bồ-tát Lưu Tố Thanh.
18/04/2023(Xem: 3612)
Lời Giới Thiệu Sách “Nhân Hạnh Vãng Sanh” của Trí Khiêm
09/04/2023(Xem: 2229)
Trong quá trình chiến tranh Hoa Nhựt, một mặt Vương triều Nhật Bản muốn thiết lập một nền cai trị Đại Đông Á thống trị vùng Bắc Á và Đông Nam Á để khống chế về thu nhập tài nguyên kinh tế cho bản địa: Một mặt không phải người Nhật nào cũng muốn gây chiến tranh với các nước láng giềng, mà cần có sự giao lưu về văn hóa, văn học, tôn giáo, nên một số đông người Nhật đến Trung Hoa nghiên cứu học hỏi văn hóa lâu đời vào hàng thứ nhứt trên thế giới, văn hóa Khổng, văn hóa Lão Trang, văn hóa Phật Giáo, trong đó có giao lưu văn hóa Phật Giáo. do đó trong lĩnh vực hiệp hội Phật Giáo Trung Hoa do Đại sư Thái Hư sáng lập có những thành viên là người Nhựt, nên vấn đề ảnh hưởng các tông, phái Thiền Tịnh dành cho những người tu Phật của Phật
14/03/2023(Xem: 5611)
Trong xã hội bận rộn ngày nay, con người phải đối mặt với nhiều vấn đề tâm lý làm ảnh hưởng đến chất lượng sống, và đã đến lúc chúng ta cùng thư giãn, chú trọng đến sức khỏe tinh thần nhiều hơn. Cách thực hành dễ nhất, nhanh nhất, hiệu quả nhất là cùng Headspace, 10 phút thiền định mỗi ngày để thay đổi cuộc sống. Với những kiến thức mới về thiền trong bộ sách 3 cuốn rất mỏng và dễ đọc để ứng dụng này, chúng ta chắc chắn có lối sống tích cực, vui vẻ hơn và bình an hơn. Bộ sách gồm 3 cuốn mang đến những lợi ích khác nhau, từ quản lý sự căng thẳng đến trân trọng và biết ơn cuộc sống. Hướng dẫn những kỹ thuật căn bản nhất về thực hành thiền là mấu chốt để thay đổi cuộc sống của bất cứ ai may mắn đọc sách này.
20/10/2022(Xem: 2064)
Niệm Phật, cuối cùng thì bạn cũng đã đến đây! Cuối cùng thì bạn cũng đã bắt đầu khởi tâm tìm đường về “nhà”, sau biết bao nhiêu trầm luân, khổ hải của kiếp nhân sinh. Hết thảy những ai tìm đến niệm Phật, cũng đều là bởi một trong những nguyên nhân sau đây. Có phải bạn cũng thế hay không? Nghèo khó, gia đình suy vi khổ lụy, vợ con nay yếu mai đau, cửa nhà thiếu trước hụt sau. Bệnh nặng lâm thân, mà thuốc thang dây đưa không khỏi, mạng sống mong manh sớm tối. Cuộc sống bế tắc, gia đình bất hòa, anh em hoặc vợ chồng chẳng thuận, con cái ngỗ nghịch.
21/08/2022(Xem: 3725)
Lời dạy của Đức Phật, được ghi chép lại dưới dạng Kinh tạng. Hai ngàn sáu trăm năm đã trôi qua, bánh xe Đạo Pháp chuyển động không ngừng, dạy con người cách sống an lạc. Muốn sống an lạc, người học Phật phải liễu tri và hành trì, tu tập đúng lời Phật dạy.
17/05/2022(Xem: 2853)
Niệm Phật là một trong những pháp môn tu hành rất căn bản, và niệm Phật là con đường nhanh nhất để thoát khỏi vòng luân hồi đau khổ của cõi Ta Bà. Thường thì bắt đầu vào tuổi thu đông nhiều người mới tập trung tinh thần vào Niệm Phật. Có người thường cho rằng pháp môn Tịnh Độ chỉ mới bắt đầu khi có kiết tập kinh điển lần thứ 3, 4 và về sau này khi Đại Thừa phát triển mạnh.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567