Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Những giai tầng phát triển

22/12/201111:01(Xem: 3940)
Những giai tầng phát triển
NHỮNG GIAI TẦNG PHÁT TRIỂN
Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma
Anh dịch: Jeffrey Hopkins
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển - 24/09/2011


Chư Phật không rửa đi những hành vi xấu ác bằng nước,
Cũng không loại trừ khổ đau bằng đôi tay của các Ngài.
Cũng không trao truyền sự chứng ngộ của các Ngài cho người khác.
Chúng sinh được giải thoát qua giáo huấn về chân lý,
bản chất của mọi sự vật.

- ĐỨC PHẬT

Ở Tây Tạng nhiều đại hành giả sưu tập những sự thực hành tâm linh đưa đến giác ngộ trong một bộ sách gọi là Những Giai Tầng của Con Đường Giác Ngộ. Những giáo huấn hùng hồn về Đức Phật từ bi kể rõ chi tiết một loạt những sự thực hành mà một người may mắn có thể sử dụng cho việc rèn luyện nhằm để đạt đến giác ngộ. Các ngài chắt lọc những kinh luận Đạo Phật bao la và vô hạn mà không hy sinh bản chất tự nhiên hay sự sắp đặt cốt lõi của chúng. Được bảo tồn cho thế giới ở Tây Tạng, những giáo huấn quý giá này là những trân bảo hoàn thành nguyện ước cho những học nhân và môn đồ may mắn.

Những Giai Tầng của Con Đường Giác Ngộlà một khí cụ cho những người bắt đầu - những ai trước đây chưa từng đạt đến đỉnh cao tâm linh - nói với chúng ta bước nào nên tiếp nhận trước, và rồi bước thứ hai, thứ ba, v.v..., không lẫn lộn những gì phải đến trước và những gì nên đến sau đó. Những quyển sách này chi tiết những sự thực hành mà trong ấy tất cả chúng ta dựa vào nhằm để đạt đến giác ngộ, tập họp trong một nơi những con đường cần thiết trước tiên trong hình thức giản lược, và rồi trong hình thức mở rộng, phù hợp với khả năng của học nhân. Loại trình bày này được cấu thành cho việc thực hành để đưa đến sự thấu hiểu về lộ trình.

Những sự thực hành cho những người sơ cơ đến trước tiên. Khi chúng ta đã thực hành những sự quán chiếu này và tiếp nhận ảnh hưởng sâu sắc hay dấu ấn của chúng, tâm thức của chúng ta trở nên có khả năng cho những chủ đề sâu xa hơn, và chúng ta tiến lên trình độ kế tiếp. Chúng ta rèn luyện trong giai tầng ấy, trở nên thành thạo, và tiếp tục tiến lên. Giống như học đường, sẽ không có lợi để cho một đứa bé ghi tên vào một trường đại học.

ĐẠI CƯƠNG CỦA QUYỂN SÁCH

Trong quyển sách này, tôi sẽ trình bày bảy bước thực tiển để phát triển từ ái. Những kỷ thuật này căn cứ trên các khả năng vô hạn của con người để cải thiện, cảm ơn đến sự thanh tịnh căn bản của tâm. Vì thế, quyển sách bắt đầu với một thẩm nghiệm về vấn đề những cảm xúc chướng ngại ẩn tàng được ghi khắc vào cơ cấu của tâm thức hay chúng ở ngoại vi của tâm, và vì thế có thể cho phép con người giải quyết. Chúng ta kết luận rằng tâm thức là thanh tịnh một cách căn bản, rất giống bầu trời xanh hiện hữu phía sau những đám mây u ám. Bắt đầu với viễn kiến ấy, chúng ta sẽ khám phá những hướng dẫn đặc thù của một sự thực tập mà nó cung ứng một nền tảng cho bảy giai tầng chìa khóa của việc phát triển tiếp theo.

Sự thực tập này trước khi bảy giai tầng đối diện với việc vượt thắng khuynh hướng tự nhiên của chúng ta để đặt những thứ khác vào trong các đặc trưng (như bạn hay thù). Nó khơi mở việc dính mắc hay luyến ái đến những đối tượng này được căn cứ trên sự đánh giá của chúng ta về những thuận lợi và bất lợi tạm thời mà những người nào đấy đưa đến như thế nào, một sự tiếp cận sai lầm cho rằng những cảm giác như vậy là từ ái và bi mẫn. Chúng ta sẽ thấy việc bổ sung của chúng ta đến sự hấp dẫn làm nổi bật tình cảm cho một số người nào đấy nhưng cắt xén nó đối với những người khác. Việc thực tập đầu tiên được thấy trong ý nghĩa của sự bình đẳng, khát vọng thông thường của chúng ta đến hạnh phúc. Những thực tập thiền quán về khả năng có thể thay đổi của những hoàn cảnh và các mối quan hệ được đưa ra để giúp thách thức những đặc trưng cứng nhắc, chúng ta áp dụng một cách mềm dẽo. Một kỷ thuật hổ trợ gợi đến việc quán tưởng hai người, một toàn khen ngợi và người kia đe dọa tấn công, nhằm để học nhận ra và thay đổi những phản ứng tự động thường lệ. Những bước trong sự thực tập nền tảng này - những thiền quán mở đầu, những kỷ năng hổ trợ, và những thiền quán giản lược - giống như việc làm sạch và chà giấy nhám một bức tường trước khi vẽ một bức tranh của từ ái yêu thương.

Một khi hành xả được trau dồi, bước thứ nhất đưa đến việc tạo nên một thái độ tích cực mạnh mẽ đối với những người khác trong những vòng xoay rộng lớn hơn bao giờ hết. Các bài thực hành bắt đầu với việc lựa chọn người bạn thân của chúng ta như một kiễu mẫu cho chúng ta đánh giá những người khác không như những người bạn thân, dần dần mở rộng để bao gồm những người trung tính, và cuối cùng là những kẻ thù - những người làm tổn hại cho chúng ta và những người bạn của chúng ta. Việc làm khó nhất ở đây là xua tan những tảng đá xúc cảm ngăn trở tiến tình.

Bước thứ hai liên hệ đến những quán chiếu thực tiển trên sự ân cần tử tế mà gia đình và bạn thân đã biểu lộ cho chúng ta, đặc biệt vào lúc ấu thời, khi chúng ta quá lệ thuộc trong sự quan tâm và chăm sóc của những người khác. Khi chúng ta bắt đầu đạt được một sự cảm kích sâu sắc về sự ân cần, lòng biết ơn này có thể dần dần mở rộng đến những người khác vượt khỏi vòng xoay bè bạn. Một số thực tập trong giai tầng này gọi là ghi nhớ lòng ân cần đã nhận qua vô số kiếp sống; những thứ khác được hướng tới lòng biết ơn những sự phục vụ được cung cấp bởi những người khác không phụ thuộc vào ý định của họ, như phẩm vật được cung ứng bởi nhân viên bán hàng bày trí hàng hóa trên một kệ hàng của một cửa hàng địa phương. Kỷ năng hổ trợ tập trung trên việc đánh gia các kẻ thù của chúng ta bởi vì họ cung ứng cho chúng ta những cơ hội để thực tập kiên nhẫn, bao dung, và chịu đựng.

Những bước thứ ba và thứ tư là tương ứng, bước này làm mạnh mẽ bước kia. Bước thứ ba gọi là sự đền đáp lòng tử tế ân cần của người khác bằng việc phát triển mục tiêu quả cảm để đẩy mạnh xa hơn sự giác ngộ của chính họ. Điều này hướng một cách tự nhiên đến bước thứ tư, học hỏi để yêu thương từ ái, mà bắt đầu với việc nhận biết người khác khổ đau như thế nào. Chúng ta sẽ khám phá ra vòng xoay những tình cảnh khổ đau hoạt động như thế nào, áp dụng sự thấu hiểu này đầu tiên cho chúng ta và rồi mở rộng nó đến người khác. Tại điểm này, đã tiến triển qua những bước trước đây và tăng cường một cảm giác gần gũi với những người khác, chúng ta có thể cố gắng một bộ ba thực tập, dần dần gia tăng trong khuynh hướng, mở rộng việc quan tâm và lòng từ ái sau cùng.

khuynh hướng của những bài thực tập đến đây là để trở thành một người bạn của tất cả chúng sinh, để có sự quan tâm cho tình trạng của họ và để sẳn sàng và có thể hổ trợ. Bây giờ sự khác biệt giữa từ ái và luyến ái được vạch ra với nhiều chi tiết hơn. Bằng việc mở rộng cảm giác thông thường của từ ái và quan tâm vượt khỏi những giới hạn thành kiến thông thường, từ ái được tự do khỏi sự luyến ái chướng ngại ẩn tàng. Tiến trình này không phải là vấn đề của việc tìm kiếm một lòng yêu thương mới của thế gian khác, nhưng của việc sử dụng những cảm giác yêu thương quen thuộc và áp dụng chúng trong những không gian rộng lớn hơn bao giờ hết [của lòng từ ái]. Mục tiêu là để trau dồi trong con tim chúng ta sự quan tâm của một bà mẹ hy hiến cảm nhận đối với đứa con thơ của bà, và rồi hướng trực tiếp đến nhiều hơn và nhiều hơn những con người và những chúng sinh. Đây là lòng yêu thương thành tâm, một lòng từ ái đầy năng lực. Tôi sẽ chỉ cho quý vị những cảm giác này phục vụ một sự thấu hiểu về chân thật về nhân quyền như thế nào, không phải đặt nền tảng trong những phạm vi pháp luật hay tiếng gọi bên ngoài mà bén rể một cách sâu xa trong trái tim.

Bước thứ năm là trau dồi lòng bi mẫn, một khát vọng sâu xa để thấy được giảm bớt khỏi khổ đau: đây là một khía cạnh khác của từ ái, một nguyện ước mạnh mẽ để thấy người khác hạnh phúc. Để yêu thương từ ái và bi mẫn đến mọi người - giàu hay nghèo, mạnh hay đau, già hay trẻ - thật thiết yếu để có một cảm nhận kiên định về dễ thương của họ trong khi nhận biết tình trạng khổ đau của họ. Những thực tập thực tiển trong phần này tạo nên kinh nghiệm từ từ của lòng từ bi đối với những ai mà đối với họ cảm nhận của chúng ta hoặc là yếu ớt, trung lập, không hiện hữu hay ngay cả tiêu cực. Một kỷ năng nâng đở kêu gọi cho một sự chuyển hướng đến những nơi với ai đấy rõ ràng khổ đau với nghèo khó hay bệnh tật.

Bước thứ sáu chỉ đến việc trở nên hoàn toàn hướng chí nguyện đến lòng vị tha, và bước thứ bảy cùng bước cuối cùng hướng kinh nghiệm của yêu thương (từ ái) và ân cần (bi mẫn) thiên kiến đến sự giác ngộ tối thượng - trở nên tác động hơn trong việc hổ trợ và phụng sự một sự đa dạng rộng rãi các chúng sinh.

Đi theo những giai tầng của con đường giác ngộ sẽ chuyển hóa dấu ấn chướng ngại ẩn tàng trong chính chúng ta thành sự quan tâm lành mạnh cho người khác. Bằng việc phát triển khả năng của chính mình, chúng ta có thể thay thế việc yêu mến chính mình với sự yêu mến những người khác. Vô số kỷ năng cung ứng cho việc tái cấu trúc những mối quan hệ của chúng ta trong một cơ cấu của tâm bình đẳng và chí nguyện mạnh mẽ sẽ bảo đảm sự thực tập của chúng ta không bao giờ trì trệ. Sự đa dạng sẽ làm nổi bật và làm cho kinh nghiệm của chúng ta sâu sắc hơn. Cũng thế, những kỷ năng nào đấy có thể thích hợp hơn đến tính khí và quan điểm của chúng ta; một số phương pháp có thể dễ dàng hơn và tác động hơn đến những người khác.

Nguyên tác: Stages of Developmenttrích từ quyển How to Expand Love
Ẩn Tâm Lộ ngày 04/09/2011

Bài liên hệ:

Quan điểm của tôi

Những giai tầng phát triển

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/07/2020(Xem: 6026)
Trong kinh có ghi lại lời cảnh giác của Đức Phật, Ngài đã từngnói rằng: “Phàm tất cả chúng sinh còn lên xuống trong ba cõi, lăn lộn trong sáu đường thì không một loài nào được hoàn toàn trong sạch, không một giống nào dứt hết tội lỗi sai lầm”.Lời nói của bậc toàn giác thật chính xác. Chúng sinh còn trầm luân trong ba cõi, sáu đường, là còn gây nhiều nghiệp xấu. Cho nên, dù chúng ta là ai của những đời trước, kiếp trước? Kiếp này, tuy chung sống ở cõi Ta-Bà nhưng mỗi người ôm vào đời một biệt nghiệp riêng, do tội lỗi hay phước báo đã gây ra trong đời trước. Nhưng nói chung,dù ở trong bất cứ hoàn cảnh nào thì con người cũng đã từngbị vô minh che mờ lý trí xúi quẩy tạo ra muôn ngàn tội lỗi, và tội lỗi đó cứ chồng chất mãi theo thời gian.
12/07/2020(Xem: 6222)
Theo, Đại-Vô-Lượng-Thọ-Kịnh. Đại-A-Di-Đà-Kinh Q1.- Bình-Đẳng-Giác- Kinh Q1. Đại-Bảo-Tích-Kinh Q17. Bi-Hoa-Kinh Q3. Vô-Lượng-Quảng- Trang-Nghiêm-Đại-Thừa-Kinh… Thì đều lạy tu theo 48 nguyện. 48 đại nguyện có đủ trong 6 bộ kinh nói trên. Chỗ cốt yếu cho người tu niệm Phật và lễ lạy 48 đại nguyện là : 1.Tin tưởng tha thiết nguyện về cõi Phật A Di Đà chắc thật diệt sạch hết tâm nghi ngờ. Lòng tin trọn vẹn trong sạch. 2. Lập thời khóa tu niệm lễ lạy trong một ngày đêm 1, 2, hay 3 Thời, Tùy ý thích. Chọn cho thích hợp để tu. Quan trọng là thành tâm. Đừng ham nhiều mà lụy thân rồi chán bỏ! 3. Quyết tâm phát nguyện vãng sanh về Cực Lạc Tịnh Độ, Tâm luôn kính nhớ ưa thích cõi Cực Lạc của Từ Phụ A Di Đà, quí mến Từ Phụ A Di Đà. niệm Hồng danh Phật liên tục, khi xướng lạy lời nguyện thân tâm vui thích mừng rỡ cảm động, thân nhẹ lân lân như ơn Phật đang ban phước cao vời vô tận, đầy tâm an lạc, như thấy mình đầy đủ sức khỏe. Niệm, chừng nào được “nhứt tâm bất loạn” đồng nghĩa với “hế
22/06/2020(Xem: 4636)
Đi tìm nguồn cội của những việc cần tìm hiểu quả là điều rất hữu ích và cần thiết cho những người học Phật như chúng ta ngày nay. Tuy trong hiện tại chúng ta có quá nhiều phương tiện để tìm hiểu, đọc tụng cũng như học hỏi, nhưng cũng không phải muốn tìm gì là có ngay lời giải đáp đúng như ý ta mong đợi, mà vẫn cần phải qua những trải nghiệm của bản thân cũng như sự tu học hành trì, nghiên cứu lâu ngày, chúng ta mới thẩm thấu được lời Phậtdạy. Vì lẽ lời dạy của Đức Phật nằm rải rác khắp nơi trong ba tạng của Nam Truyền và ba tạng của Bắc Truyền, có cả hàng triệu triệu chữ và nhiều nhà phiên dịch, chú giải khác nhau, nên không phải ai cũng có cơ duyên để trì tụng, nghiên cứu hết ba tạng Kinh điển này. Riêng bản thân tôi không dám làm việc gì quá khả năng, chỉ cố gắng gom góp lại những chỗ đã đọc qua, nhằm cống hiến cho quý vị một sự hiểu biết căn bản về Đức Phật A-di-đà, để chúng ta không còn nghi ngờ gì nữa khi trì tụng các Kinh A-di-đà, Kinh Vô Lượng Thọ hay Kinh Quán Vô Lượng Thọ. Đó
21/06/2020(Xem: 8479)
Do một thiện niệm vừa phát sinh sau khi TT Thích Nguyên Tạng chấm dứt 48 bài pháp thoại liên tục được livestream trên Facebook của trangnhaquangduc trong mùa cách giản xã hội vì đại dịch Corona vào mỗi sáng sau thời công phu khuya ( với kinh Lăng Nghiêm, Đại Bi và thập chú ) mà người viết mới có dịp ôn lại những gì trong “ PHÁP NGỮ CỦA HT TỊNH KHÔNG” đã được TT Thích Nguyên Tạng Việt dịch và được xuất bản từ 2004. Thời gian trôi qua nhanh quá , thấm thoát đã 16 năm mà đến bây giờ đây là lần thứ ba tôi mới đọc lại , phải nói là rất ân hận cho sự vô minh của mình trong nhiều năm và đã uổng phí thời gian để có thể tu tập đúng hơn nữa .
07/05/2020(Xem: 5833)
Đệ tử tên là: .......... Một lòng quy kính - Đức Phật A Di Đà. Thế giới Cực Lạc - Nguyện lấy hào quang - Trong sạch soi cho, Lấy thệ từ bi - Mà nhiếp thọ cho - Con nay chánh niệm, Niệm hiệu Như Lai - Vì đạo Bồ Đề - Cầu sanh Tịnh Độ. Phật xưa có thệ: “Nếu có chúng sinh - Muốn sinh về nước ta Hết lòng tín nguyện - Cho đến mười niệm - Nếu chẳng đặng sinh Chẳng thành Chánh Giác - Chỉ trừ kẻ ngũ nghịch - Kẻ bài báng Chánh Pháp” - Do vì nhân duyên - Niệm hiệu Phật nầy - Được vào trong bể - Đại thệ Như Lai - Nhờ sức Từ Bi Các tội tiêu diệt - Căn lành tăng trưởng.- Khi mạng gần chung, Biết trước giờ chết- Thân không bệnh khổ- Tâm không tham luyến,
05/05/2020(Xem: 5967)
Chiều nay ngày 19 tháng 7 năm Mậu tuất (2018), tôi đến Phương trượng Tổ đình Từ Đàm, đảnh lễ Trí Quang Thượng Nhân, sau khi xuất hạ, Thượng Nhân đã dạy cho tôi những điều hữu ích gồm: 1- Pháp học: Pháp giới tạng thân A-di-đà-Phật là chỉ cho Thân thể của Phật A-di-đà bao trùm khắp cả không gian và thời gian về mặt không gian là cả mười phương. Về mặt thời gian là bao trùm cả ba đời.
13/03/2020(Xem: 17805)
Quyển "The Buddha and His Teachings" (Đức Phật và Phật Pháp) được ấn hành tại Sài gòn năm 1964 nhờ sự phát tâm bố thí của liệt vị Phật tử Việt Nam. Đạo hữu Phạm Kim Khánh, pháp danh Sunanda, đã dày công phiên dịch thiên khái luận nhỏ bé này ra tiếng mẹ đẻ với mục đích đáp lại phần nào lòng mong ước của những ai muốn hiểu Đức Phật và giáo lý của Ngài. Công đức này được hàng Phật tử Việt Nam ghi nhận. Trong hiện tình, nước Việt Nam không mấy được yên ổn. Bao nhiêu người đang đau khổ, về vật chất cũng như tinh thần. Không khí căng thẳng này quả không thích hợp với việc làm có tánh cách tinh thần và đạo đức
20/12/2019(Xem: 5100)
Niệm Phật là phương pháp thực hành rất phổ biến trong Phật Giáo Đại Thừa, đặc biệt là Tịnh Độ Tông hay còn được gọi là Pháp môn Niệm Phật. Nhưng nếu thuần túy chỉ niệm Phật mà thôi, thiếu tu học thì chúng ta có thể tái sanh về cõi Tây Phương Cực Lạc được hay không? Tính cốt lõi của pháp môn Niệm Phật là lấy Minh tâm (trong sáng) làm công yếu, lấy Hạnh môn (tịnh tâm) làm chính yếu. Tu và học phải đi đôi với nhau. Tu là thay đổi bản chất, tánh nết của mình cho được tốt hơn, cho được thiện lành hơn -đó mới là tu tâm dưỡng tánh. Còn Học là để mở mang kiến thức, để hiểu và nhận ra những điều thiện lành. Vậy tu học là đôi chân vững chắc để chúng ta đi đến được bến bờ giác ngộ. Tu làm sao để nở tâm Bồ Đề, đừng nở tâm ganh tỵ. « Văn, tư, tu » như lời Đức Phật dạy, trước tiên chúng ta phải lắng nghe, sau đó suy nghĩ để nhận biết rồi mới thực hành. Khi niệm Phật chúng ta phải nhất tâm tưởng đến Phật hiện tại, giúp tâm chúng ta có chất liệu để thành Phật. « Nhất thiết ch
12/09/2019(Xem: 5748)
Đại sư Từ Chiếu (Chi: Tzu Chao) có lần nói: "Người tu Tịnh độ lúc sắp chết thường bị Ba Điều Nghi và Bốn cửa ải làm trở ngại cho việc vãng sanh Cực Lạc. Do đó hành giả ngày thường cần chuẩn bị, suy tư và đề phòng để có thể loại trừ chúng trong lúc lâm chung.
24/08/2019(Xem: 8870)
Niết bàn là khái niệm thể hiện triết lý độc đáo về giải thoát của Phật giáo. Đây là một trạng thái tâm linh hoàn toàn thanh thản, giải thoát khỏi mọi đau khổ của cuộc đời. Trạng thái này có thể đạt được khi còn đang sống (Hữu dư Niết bàn) hoặc khi đã chết (Vô dư Niết bàn). Phật giáo Tiểu thừa hướng tới Vô dư Niết bàn - một Niết bàn tịch diệt, cô đơn, từ bỏ mọi thú vui trần thế. Phật giáo Đại thừa lại hướng tới Hữu dư Niết bàn - một Niết bàn nhân bản, nhập thế và hoạt động cùng những buồn vui nhân thế. Quan niệm này đã mang lại một sức hấp dẫn, sức sống mới cho Phật giáo, đặc biệt là trong xã hội hiện đại.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567