Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đức Đạt Lai Lạt Ma: Vấn đáp về tâm thức

07/07/201106:53(Xem: 5175)
Đức Đạt Lai Lạt Ma: Vấn đáp về tâm thức


61tranhthien-03ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA: VẤN ĐÁP VỀ TÂM THỨC
Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma
Tuệ Uyển chuyển ngữ - 15/05/2011

HỎI:Đưa ra sự kiện rằng trong truyền thống của ngài hiện hữu những thể trạng trong sáng và có những báo cáo về những hành giả kinh nghiệm thể trạng vi tế của tâm thức, câu hỏi của tôi có hai phần: Thứ nhất, những thể trạng vô phân biệt của tâm thức trong lý thuyết có thể được quán sát với những khí cụ ngoại tại không? Thí dụ, nếu chúng tôi để một thiền giả người ở trong thể trạng linh quang vào trong một trong những máy móc hiện đại của chúng tôi với những cộng hưởng từ trường, sử dụng những kỷ thuật hình dung não bộ mới, chúng tôi có thể thấy điều gì đấy, dấu hiệu gì đấy về thể trạng vi tế này không? Có lẻ chúng tôi chưa biết làm điều này như thế nào, nhưng trong lý thuyết, ngài có nghĩ là có thể làm được không? Chúng tôi không muốn đầu hàng với một nhị nguyên mới, tính thô thiển và vi tế, bản chất tự nhiên nhân quả giữa hai trình độ này là gì?

ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA:Tôi nghĩ rằng có thể khó khăn để đo lường hoạt động chính xác đến tâm thức bao hàm việc phản chiếu đối tượng của một người và hiểu biết nó. Nhưng khi những kinh nghiệm của tâm thức thô thiển xuất hiện trong hoạt động của não bộ và vì thế có thể được quán sát như vậy, đối với tôi dường như rằng nó cũng có thể nghiên cứu những biểu hiện vật lý của những thể trạng vi tế hơn của tâm thức. Trình độ vi tế của tâm thức, liên hệ đến thuật ngữ “linh quang”, xuất hiện trong những thứ khác tại thời điểm lâm chung. Những ai đã từng thực tập trước đây có thể tiếp tục duy trì tự nguyện trong thể trạng này trong một vài ngày sau khi chết, và trong khoảng thời gian ấy thân thể của họ không bị phân hủy. Những khí cụ của khoa học hiện đại có thể quán sát hiện tượng này, và trong thực tế điều này đã xãy ra ở Ấn Độ. Mặc dù đối với tôi dường như sẽ khó khăn để quán sát tâm thức vi tế trong việc sử dụng một cách toàn bộ những phương pháp này, tôi nghĩ, tất cả cũng giống như vậy và điều này có thể cho chúng ta một ý tưởng nào đấy.

Để trả lời cho câu hỏi thứ hai, quan tâm đến mối quan hệ giữa tâm thức thô và tâm thức vi tế, bạn phải biết rằng mức độ vi tế của tâm thức sẽ tùy thuộc trong bộ phận trên mức độ vi tế của sự hổ trợ vật lý của nó và trên điều kiện quyết đoán đặc thù, sáu giác quan. Nhưng năng lực chia sẻ bởi tất cả những sự nhận thức – để phản chiếu một đối tượng và hiểu biết nó – đến từ tâm thức vi tế. Trong cách này có thể thấu hiểu mối quan hệ nền tảng hiện hữu giữa những trình độ vi tế và thô thiển của tâm thức. Những thức cảm giác và tinh thần được sản sinh tùy thuộc trên những điều kiện chỉ đạo đặc thù của sáu giác quan: mắt sinh ra cái biết của mắt, năng lực tinh thần hay CẢM GIÁC cho sự hiểu biết tinh thần, v.v…Vì sự thô thiển của sự hổ trợ là lớn hơn, những nhận thức cảm giác là thô thiển một cách tương đối so với những thức tinh thần. Tuy thế, tất cả có khả năng để phản chiếu đối tượng của chúng và biết nó, một năng lực xuất phát từ nền tảng thông thường, tâm thức vi tế, linh quang. Mật điển tantra của Phật Giáo luận giải trên khía cạnh mà những trình độ thô thiển của tâm thức nối kết với tâm thức vi tế. Nó giải thích làm thế nào tám mươi thể trạng của thức đáp ứng đến bốn tầng của sự hòa tan tâm thức thô vào trong tâm thức vi tế, qua cái chết thí dụ thế. Sự nối kết giữa những mức độ khác nhau của tâm thức là trong sáng, nhưng nó là một đối tượng rất phức tạp sẽ rất khó khăn đi vào tại thời điểm này.

HỎI:Tôi đặc biệt thích thú trong câu hỏi về sự thiết lập các hiện tượng bởi tâm thức, và do những nhân duyên hòa hợp của chúng. Tôi muốn hỏi rằng, nếu tách khỏi những sự phân tích giới hạn nào đấy – điều rất là hấp dẫn – giữa Giáo Pháp và khoa học thế gian, Phật Giáo có điều gì đấy căn bản hơn để cống hiến cho phương Tây. Tôi đang suy nghĩ ở đây đặc biệt về sự thực hành thiền quán: một sự cách tân cởi mở và một ý thức về không gian và thời gian là điều có thể cống hiến lối vào thông tin khoa học đến một “thực tại” ý thức chân thật hơn, do thế nó sẽ không còn chỉ đơn thuần là một điều “hư cấu” mê ly liên hệ đến vật chất/năng lượng, vòng cung không gian/thời gian, những hiện tượng phi vật chất,v.v…

ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA:Tôi không có câu trả lời ngay lập tức cho câu hỏi của ông, nhưng tôi thật sự có một ít ý kiến để đưa ra với ông. Thật là hấp dẫn để liên hệ một số ý tưởng đến những loại hiện tượng nào đấy được đề cập trong phạm vi triết lý Phật Giáo. Có những hiện tượng vật lý, hình sắc, không phải được làm bằng vật chất thô (một trong những đặc tính chướng ngại cứng chắc), nhưng đúng hơn, là những hình sắc vi tế, mà có thể phân ra làm năm loại đặc trưng. Thứ nhất là hình sắc sinh khởi từ sự tập họp những hạt cực kỳ nhỏ như nguyên tử. Hình thể của chúng được diễn tả là hình cầu, nhưng màu sắc của chúng không được đề cập. Tiếp theo chúng ta có sự hiện hữu tinh thần của không gian, đó là sự hiện diện với điều mà bầu trời xuất hiện đến nhận thức tinh thần. Tôi nghĩ rằng khoa học hiện đại không thể cung cấp những sự giải thích nhiều hơn trong chủ đề này và có những sự thành công to lớn hơn trong việc làm cho nó có thể nhận thức được. Có thể sẽ có trong thực tế những hạt không gian hay ánh sáng không? Hai loại hiện tượng vật lý vi tế đầu tiên này được chấp nhận bởi tất cả và không là những sự sáng tạo duy nhất của tâm thức.

Loại thứ ba của hình sắc vi tế bao gồm những thứ được tưởng tượng và có thể hiện hữu, thí dụ, đối với một người thiền tập, nhưng điều chỉ thiền giả mới có thể thấy và điều ấy không thề hoàn toàn hiện thực những chức năng thông thường của họ. Đặc trưng kế là những hình sắc được tạo nên bởi năng lực của tập trung; đây là những hiện tượng phát sinh từ bốn nhân tố vật lý[1]qua năng lực của sự hành thiền bởi những người đã từng rất thành công trong việc phát triển năng lực tập trung của họ. Những hiện tượng này có thể được trãi nghiệm bởi những thiền giả nhưng cũng ở những người khác. Qua thiền tập trong cách này thì có thể tạo nên lửa, thí dụ lửa có thể hoàn thành những chức năng của nó cho đốt cháy và tạo sức nóng sưởi ấm. Có thể dường như kỳ lạ, để nói tối thiểu, những hình sắc này có thể được sản xuất qua năng lực của tập trung. Tôi không biết một cách chính xác chúng có thể được diễn dịch hay thấu hiểu như thế nào, nhưng tôi không nghĩ rằng chúng sẽ tồn tại một thời gian dài sau khi chúng được tạo nên, một cách chắc chắn chỉ trong thời gian thiền tập. Những hình sắc thứ ba và thứ tư này nên được đưa ra cho những nhà khoa học như những vấn đề để phản chiếu! Nếu những hiện tượng này hiện hữu, chúng được sản sinh như thế nào?

Cho đến bây giờ, chúng ta đã nói về những thông tin chứa đựng trong kinh điển. Chúng ta cũng có thể thẩm tra chúng trong ánh sáng của mật điển tantra, khía cạnh bí mật của Đạo Phật đối diện đầy đủ chi tiết với bản chất tự nhiên không ít thì nhiều của những năng lượng vi tế.

HỎI:Khái niệm của Đạo Phật về thời gian là thế nào?

ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA:Xin lỗi nhé, tôi không hiểu sự diễn dịch Tây Tạng về câu hỏi; trong ngôn ngữ của chúng tôi những chữ ma quỷ (demon) và thời gian (time) được phát âm gần như giống nhau, và tôi sắp nói cho ông nghe về vấn đề ma quỷ là gì từ quan điểm của Đạo Phật!

Theo quan điểm của Đạo Phật về thời gian, triết lý của chúng tôi đã tiếp nhận một vài luận điểm. Trường phái Kinh Lượng Bộ (Sautrantika), cũng được biết như “Những người thủ hộ Luận thuyết”, khẳng định rằng tất cả mọi hiện tượng và những sự kiện chỉ tồn tại trong giây phút hiện tại. Đối với trường phái này, quá khứ và tương lai không có gì hơn là những khái niệm đơn thuần, những cấu trúc tinh thần đơn thuần. Đối với trường phái Hệ Quả Trung Đạo (Madhyamika-Prasangika), giải thích một cách rộng rãi thời gian trong dạng thức của tương đối, như một thực thể trừu tượng được phát triển bởi tâm thức trên căn bản của sự quy nạp, một sự tương tục của một sự kiện hay hiện tượng. Do vậy, quan điểm và sự ghi chép này, một khái niệm trừu tượng mà chức năng của nó là lệ thuộc trên sự tương tục của những hiện tượng. Từ điểm này trở đi, để cố gắng giải thích thời gian như một thực thể tự do, độc lập khỏi sự tồn tại của một đối tượng, không thể minh chứng được. Rằng thời gian là một hiện tượng tương dối và có thể nói rằng không có vị thế độc lập là hoàn toàn rõ ràng; tôi thường đưa ra thí dụ về những đối tượng ngoại tại, những thứ có thể nhận thức một cách dễ dàng trong dạng thức của quá khứ và tương lai, nhưng lại là điều dường như không thể nhận thức được trong chính hiện tại. Chúng ta có thể chia thời gian thành những thế kỷ, thập niên, năm, tháng, ngày, giờ, phút, giây. Nhưng khi giây cũng có thể phân chia được thành nhiều phần, một phần nghìn giây, thí dụ thế, chúng ta có thể dễ dàng bị đánh mất sự nắm bắt khái niệm thời gian hiện tại!

Như đối với tâm thức, nó không phải là quá khứ cũng không phải là tương lai và chỉ được biết trong những thời khắc hiện tại; nó là sự tương tục của một thời khắc hiện tại được chuyển biến thành một thời khắc khác, trái lại những đối tượng bên ngoài hiện tại lại biến mất trong sự đồng lõa của những khái niệm quá khứ và tương lai. Nhưng theo đuổi xa hơn với luận lý này sẽ đưa đến một sự ngớ ngẫn, bởi vì đối với vị thế quá khứ và tương lai chúng ta cần một khung liên hệ đến, trong trường hợp này, là hiện tại, và chúng ta vừa đánh mất đấu vết của nó trong những phần tử của một phần nghìn giây…

HỎI:Nếu tâm thức không có bắt đầu cũng không có kết thúc (vô thỉ vô chung), và nếu nó không thường trụ, nó có làm cho một cái nhà già cũ đi, thay đổi với mỗi thời khắc không? Và nếu nó không có hình thể, cũng không có màu sắc, mùi vị, nó có thể chuyển hóa được không?

ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA:Trước nhất, hãy để chúng ta cố gắng để nhất trí trên khái niệm rắc rối của thức, của tâm. Chúng ta chỉ có sự thấu hiểu phần thô và phần nào thông tuệ của tâm thức. Khao khát của chúng ta để thấu hiểu toàn hảo qua nghiên cứu phân tích sẽ đưa chúng ta đến sự khám phá rực rở, rõ ràng , và hiểu biết bản chất tự nhiên của tâm thức. Điều cực kỳ quan trọng để biết xác định một cách rõ ràng đối tượng mà chúng ta đang phân tích, trong trường hợp này là bản chất tự nhiên của tâm thức. Một khi chúng ta định rõ bản chất tự nhiên của tâm thức với những đặc trưng phi vật chất và không chướng ngại của nó, chúng ta sẽ có thể sử dụng nó để đối diện những đối tượng ngoại tại và đặc trưng thứ ba của những hiện tượng, những khái niệm trừu tượng chẳng hạn như những khái niệm của thời gian và thay đổi những thứ không có bản chất của tâm thức cũng không phải là những đối tượng vật chất. Giữ ba thứ phân loại cổ điển này rõ ràng trong tâm thức – những đối tượng vật lý, tâm thức, những cấu trúc trừu tượng của tinh thần – chúng ta sẽ có thể xác định rõ tâm thức bằng việc so sánh nó với hai đặc trưng kia của những hiện tượng. Một khi chúng ta có một tri thức rõ rệt về bản chất của nó, nó sẽ không chỉ có thể có một kinh nghiệm ý thức của tiến trình thay đổi xãy ra trong tâm thức, mà cũng thấu hiểu tâm thức và kinh nghiệm của tâm thức có thể đưa đến một thời khắc xảy ra sau đấy của tâm thức không có gì khác hơn là tính năng ấy.

Tôi không nghĩ rằng chúng ta có thể nói về sự tương tục của tâm thức một cách duy nhất trong dạng thức của sự sắp xếp niên đại. Chính ý tưởng của niên đại, đã làm cho lão hóa, chỉ có ý nghĩa trong mối liên hệ đến những hiện tượng vật chất, chẳng hạn như thân thể. Trên trình độ của những tâm thức cá nhân khác biệt, như những khả năng cảm giác[2], chúng ta có thể sử dụng “lão” (tuổi già) để liên hệ đến căn bản vật lý, thân thể của một con người; lão trong những tiến trình rộng rãi của sự nối kết những điều kiện vật lý của con người. Hai tiến trình là không độc lập với nhau. Để nói về “sự lão của những thức cảm giác” là có thể nếu chúng ta phối hợp sự xác định này với một tiến trình sinh vật lý, đôi khi chúng ta không thể làm như thế khi chúng ta nói về thức tinh thần.

Chúng tôi nghĩ thật là quan trọng để phản chiếu trên bản chất của thức, để biết những loại khác nhau của thức và bản chất của chúng. Kinh điển Đạo Phật cho rằng những nhận thức cảm giác, chẳng hạn như nhãn thức, là trực tiếp và không nhận thức; nhãn thức nhận thức một hình sắc, nhưng không phân biệt giữa những khía cạnh tốt hay xấu, đáng thèm muốn hay không. Sự phân biệt xãy ra trên trình độ nhận thức [của ý thức], là điều cấu thành một tiến trình diễn dịch xa vời hơn nhận thức cảm giác giản dị ấy.

Cho đến khi mà thức tinh thần [ý thức], thế giới của tư tưởng nhận thức, được quan tâm, chúng ta phân biệt những trình độ khác nhau một cách vi tế, từ CÁI THÔ đến vi tế nhất, dẫn chứng trong hệ thống mật tông tantra: não bộ, thần kinh, kỳ tiếp hợp[3][trong phân chia tế bào],v.v… được nối kết đến thức, và điều này mở ra một lĩnh vực rộng rãi cho khảo sát khi chúng ta nối kết chúng với những gì văn học tantra gọi là năng lượng (Tibetan: lung; Sanskrit: prana).

Nghiên cứu vào trong bản chất tự nhiên chính xác mối quan hệ giữa não bộ, [tâm] thức, và năng lượng chứng minh là rất hấp dẫn. Khi tất cả những chức năng của não bộ đã dừng lại và những điều kiện vật lý đã biến mất, dường như rằng một hình thức của tiến trình tâm thức tiếp tục tồn tại. Điều này đã từng được quán sát trong kinh nghiệm của những đạo sư thực chứng nào đấy, mà thân thể của họ, mặc dù được tuyên bố đã chết lâm sàng, đã không phân hủy và tiếp tục tươi tắn mềm mại trong vài ngày hay thậm chí vài tuần. Tại giai tầng này, quan điểm của Đạo Phật xác nhận rằng con người không phải đã chết một cách hoàn toàn, rằng vị ấy vẫn đang tiếp tục tiến hóa qua tiến trình của cái chết, và rằng vị ấy tiếp tục trong tình trạng của tâm thức vi tế. Tôi nghĩ các nhà khoa học phải tìm kiếm một sự giải thích hợp lý cho những trường hợp này, khi thân thể không phân hủy ngay cả khi những chức năng của não bộ và thân thể đã ngừng lại.

Mật điển cũng tường thuật về những thiền giả, những người đã học để phát triển một khả năng siêu nhiên để tạo những đối tượng vật chất trong tâm thức của họ, hay sản sinh những yếu tố như lửa, và không khí, được nhận biết không phải chỉ người tạo nên mà hình như cũng bởi những người khác. Những loại đối tượng tinh thần khác được tạo nên chỉ được nhận thức bởi thiền giả. Tôi thật sự tự hỏi nguyên nhân vật chất, thực tế của những đối tượng ngoại tại này có thể là gì. Nếu có một kết quả - một đối tượng vật lý được tạo nên một cách tinh thần – nó phải được đến trước bởi một nguyên nhân và những điều kiện cùng bản chất. Tôi cũng tự hỏi có phải những đối tượng này hiện hữu duy nhất trong sự thiền quán của hành giả, và chấm dứt tồn tại ngay khi người ấy xuất thiền (định an chỉ) hay không? Tôi không thể nói nguyên nhân vật chất của đối tượng được tạo nên bằng tinh thần là gì. Đấy là câu hỏi mà tôi tuyên bố đến cộng đồng tu sĩ: tâm thức có thể trở thành một nguyên nhân có thực chất của những đối tượng vật chất không? Mật điển tantra, chẳng hạn như Bí Mật Tập Hội, nói về thân ảo giác và nguyên nhân thực chất của nó, là điều được ngụ ý là năng lượng vi tế, như năng lượng vi tế là bộ phận của thế giới vật chất. Tôi phải nói rằng đây là vấn đề đã làm cho tôi lúng túng.

HỎI:Vọng tưởng đã bắt đầu như thế nào?

ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA:Như sự tương tục của tâm thức là không có bắt đầu, vô minh si ám cũng không khởi thỉ vậy, nên chúng ta phải khám phá từ trong tình trạng của tâm thức đã lùi ngày tháng về trước vô minh và là khác biệt từ trong tâm thức giác ngộ, do thế đấy là một nguyên nhân dẫn đến vô minh. Điều này vô nghĩa.

HỎI:Có một nguyên nhân ban sơ cho tất cả những nguyên nhân không?

ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA: Không. Một cách tổng quát những nguyên nhân không có nguồn gốc, trong phạm vi của chính vấn đề đặc biệt này, rằng trong một vài trường hợp nguyên nhân và hệ quả có một sự bắt đầu. Khi chúng ta thiết lập rằng sự tương tục của tâm thức là không có sự bắt đầu, để muốn phân biệt một sự bắt đầu đến những nguyên nhân sẽ là một sự mâu thuẩn rõ ràng! Ông biết không, những nhà luận lý học Đạo Phật là hoàn toàn chính xác. Từ thời khắc họ chấp nhận rằng tâm thức không có sự bắt đầu, các ngài có thể khẳng định một cách hợp lý và cương quyết rằng không nguyên nhân cũng không hệ quả nào có sự khởi đầu.

The material on this page has been collected from the recent book, "Beyond Dogma: The Challenge of the Modern World", (c) 1996 North Atlantic Books, translated by Alison Anderson and Marianne Dresser from talks given during His Holiness's visit to France end 1993.
E-MAIL: All enquiries, comments and suggestions welcome.
http://hhdl.dharmakara.net/hhdlquotes3.html
Ẩn Tâm Lộ ngày 26/05/2011


[1]Đất, nước, gió, lửa.

[2]Tiền ngũ thức: nhãn, nhĩ, tỉ,thiệt, thân thức

[3]Synapse

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/07/2020(Xem: 5984)
Trong kinh có ghi lại lời cảnh giác của Đức Phật, Ngài đã từngnói rằng: “Phàm tất cả chúng sinh còn lên xuống trong ba cõi, lăn lộn trong sáu đường thì không một loài nào được hoàn toàn trong sạch, không một giống nào dứt hết tội lỗi sai lầm”.Lời nói của bậc toàn giác thật chính xác. Chúng sinh còn trầm luân trong ba cõi, sáu đường, là còn gây nhiều nghiệp xấu. Cho nên, dù chúng ta là ai của những đời trước, kiếp trước? Kiếp này, tuy chung sống ở cõi Ta-Bà nhưng mỗi người ôm vào đời một biệt nghiệp riêng, do tội lỗi hay phước báo đã gây ra trong đời trước. Nhưng nói chung,dù ở trong bất cứ hoàn cảnh nào thì con người cũng đã từngbị vô minh che mờ lý trí xúi quẩy tạo ra muôn ngàn tội lỗi, và tội lỗi đó cứ chồng chất mãi theo thời gian.
12/07/2020(Xem: 6136)
Theo, Đại-Vô-Lượng-Thọ-Kịnh. Đại-A-Di-Đà-Kinh Q1.- Bình-Đẳng-Giác- Kinh Q1. Đại-Bảo-Tích-Kinh Q17. Bi-Hoa-Kinh Q3. Vô-Lượng-Quảng- Trang-Nghiêm-Đại-Thừa-Kinh… Thì đều lạy tu theo 48 nguyện. 48 đại nguyện có đủ trong 6 bộ kinh nói trên. Chỗ cốt yếu cho người tu niệm Phật và lễ lạy 48 đại nguyện là : 1.Tin tưởng tha thiết nguyện về cõi Phật A Di Đà chắc thật diệt sạch hết tâm nghi ngờ. Lòng tin trọn vẹn trong sạch. 2. Lập thời khóa tu niệm lễ lạy trong một ngày đêm 1, 2, hay 3 Thời, Tùy ý thích. Chọn cho thích hợp để tu. Quan trọng là thành tâm. Đừng ham nhiều mà lụy thân rồi chán bỏ! 3. Quyết tâm phát nguyện vãng sanh về Cực Lạc Tịnh Độ, Tâm luôn kính nhớ ưa thích cõi Cực Lạc của Từ Phụ A Di Đà, quí mến Từ Phụ A Di Đà. niệm Hồng danh Phật liên tục, khi xướng lạy lời nguyện thân tâm vui thích mừng rỡ cảm động, thân nhẹ lân lân như ơn Phật đang ban phước cao vời vô tận, đầy tâm an lạc, như thấy mình đầy đủ sức khỏe. Niệm, chừng nào được “nhứt tâm bất loạn” đồng nghĩa với “hế
22/06/2020(Xem: 4597)
Đi tìm nguồn cội của những việc cần tìm hiểu quả là điều rất hữu ích và cần thiết cho những người học Phật như chúng ta ngày nay. Tuy trong hiện tại chúng ta có quá nhiều phương tiện để tìm hiểu, đọc tụng cũng như học hỏi, nhưng cũng không phải muốn tìm gì là có ngay lời giải đáp đúng như ý ta mong đợi, mà vẫn cần phải qua những trải nghiệm của bản thân cũng như sự tu học hành trì, nghiên cứu lâu ngày, chúng ta mới thẩm thấu được lời Phậtdạy. Vì lẽ lời dạy của Đức Phật nằm rải rác khắp nơi trong ba tạng của Nam Truyền và ba tạng của Bắc Truyền, có cả hàng triệu triệu chữ và nhiều nhà phiên dịch, chú giải khác nhau, nên không phải ai cũng có cơ duyên để trì tụng, nghiên cứu hết ba tạng Kinh điển này. Riêng bản thân tôi không dám làm việc gì quá khả năng, chỉ cố gắng gom góp lại những chỗ đã đọc qua, nhằm cống hiến cho quý vị một sự hiểu biết căn bản về Đức Phật A-di-đà, để chúng ta không còn nghi ngờ gì nữa khi trì tụng các Kinh A-di-đà, Kinh Vô Lượng Thọ hay Kinh Quán Vô Lượng Thọ. Đó
21/06/2020(Xem: 8395)
Do một thiện niệm vừa phát sinh sau khi TT Thích Nguyên Tạng chấm dứt 48 bài pháp thoại liên tục được livestream trên Facebook của trangnhaquangduc trong mùa cách giản xã hội vì đại dịch Corona vào mỗi sáng sau thời công phu khuya ( với kinh Lăng Nghiêm, Đại Bi và thập chú ) mà người viết mới có dịp ôn lại những gì trong “ PHÁP NGỮ CỦA HT TỊNH KHÔNG” đã được TT Thích Nguyên Tạng Việt dịch và được xuất bản từ 2004. Thời gian trôi qua nhanh quá , thấm thoát đã 16 năm mà đến bây giờ đây là lần thứ ba tôi mới đọc lại , phải nói là rất ân hận cho sự vô minh của mình trong nhiều năm và đã uổng phí thời gian để có thể tu tập đúng hơn nữa .
07/05/2020(Xem: 5801)
Đệ tử tên là: .......... Một lòng quy kính - Đức Phật A Di Đà. Thế giới Cực Lạc - Nguyện lấy hào quang - Trong sạch soi cho, Lấy thệ từ bi - Mà nhiếp thọ cho - Con nay chánh niệm, Niệm hiệu Như Lai - Vì đạo Bồ Đề - Cầu sanh Tịnh Độ. Phật xưa có thệ: “Nếu có chúng sinh - Muốn sinh về nước ta Hết lòng tín nguyện - Cho đến mười niệm - Nếu chẳng đặng sinh Chẳng thành Chánh Giác - Chỉ trừ kẻ ngũ nghịch - Kẻ bài báng Chánh Pháp” - Do vì nhân duyên - Niệm hiệu Phật nầy - Được vào trong bể - Đại thệ Như Lai - Nhờ sức Từ Bi Các tội tiêu diệt - Căn lành tăng trưởng.- Khi mạng gần chung, Biết trước giờ chết- Thân không bệnh khổ- Tâm không tham luyến,
05/05/2020(Xem: 5907)
Chiều nay ngày 19 tháng 7 năm Mậu tuất (2018), tôi đến Phương trượng Tổ đình Từ Đàm, đảnh lễ Trí Quang Thượng Nhân, sau khi xuất hạ, Thượng Nhân đã dạy cho tôi những điều hữu ích gồm: 1- Pháp học: Pháp giới tạng thân A-di-đà-Phật là chỉ cho Thân thể của Phật A-di-đà bao trùm khắp cả không gian và thời gian về mặt không gian là cả mười phương. Về mặt thời gian là bao trùm cả ba đời.
13/03/2020(Xem: 17719)
Quyển "The Buddha and His Teachings" (Đức Phật và Phật Pháp) được ấn hành tại Sài gòn năm 1964 nhờ sự phát tâm bố thí của liệt vị Phật tử Việt Nam. Đạo hữu Phạm Kim Khánh, pháp danh Sunanda, đã dày công phiên dịch thiên khái luận nhỏ bé này ra tiếng mẹ đẻ với mục đích đáp lại phần nào lòng mong ước của những ai muốn hiểu Đức Phật và giáo lý của Ngài. Công đức này được hàng Phật tử Việt Nam ghi nhận. Trong hiện tình, nước Việt Nam không mấy được yên ổn. Bao nhiêu người đang đau khổ, về vật chất cũng như tinh thần. Không khí căng thẳng này quả không thích hợp với việc làm có tánh cách tinh thần và đạo đức
20/12/2019(Xem: 5064)
Niệm Phật là phương pháp thực hành rất phổ biến trong Phật Giáo Đại Thừa, đặc biệt là Tịnh Độ Tông hay còn được gọi là Pháp môn Niệm Phật. Nhưng nếu thuần túy chỉ niệm Phật mà thôi, thiếu tu học thì chúng ta có thể tái sanh về cõi Tây Phương Cực Lạc được hay không? Tính cốt lõi của pháp môn Niệm Phật là lấy Minh tâm (trong sáng) làm công yếu, lấy Hạnh môn (tịnh tâm) làm chính yếu. Tu và học phải đi đôi với nhau. Tu là thay đổi bản chất, tánh nết của mình cho được tốt hơn, cho được thiện lành hơn -đó mới là tu tâm dưỡng tánh. Còn Học là để mở mang kiến thức, để hiểu và nhận ra những điều thiện lành. Vậy tu học là đôi chân vững chắc để chúng ta đi đến được bến bờ giác ngộ. Tu làm sao để nở tâm Bồ Đề, đừng nở tâm ganh tỵ. « Văn, tư, tu » như lời Đức Phật dạy, trước tiên chúng ta phải lắng nghe, sau đó suy nghĩ để nhận biết rồi mới thực hành. Khi niệm Phật chúng ta phải nhất tâm tưởng đến Phật hiện tại, giúp tâm chúng ta có chất liệu để thành Phật. « Nhất thiết ch
12/09/2019(Xem: 5697)
Đại sư Từ Chiếu (Chi: Tzu Chao) có lần nói: "Người tu Tịnh độ lúc sắp chết thường bị Ba Điều Nghi và Bốn cửa ải làm trở ngại cho việc vãng sanh Cực Lạc. Do đó hành giả ngày thường cần chuẩn bị, suy tư và đề phòng để có thể loại trừ chúng trong lúc lâm chung.
24/08/2019(Xem: 8779)
Niết bàn là khái niệm thể hiện triết lý độc đáo về giải thoát của Phật giáo. Đây là một trạng thái tâm linh hoàn toàn thanh thản, giải thoát khỏi mọi đau khổ của cuộc đời. Trạng thái này có thể đạt được khi còn đang sống (Hữu dư Niết bàn) hoặc khi đã chết (Vô dư Niết bàn). Phật giáo Tiểu thừa hướng tới Vô dư Niết bàn - một Niết bàn tịch diệt, cô đơn, từ bỏ mọi thú vui trần thế. Phật giáo Đại thừa lại hướng tới Hữu dư Niết bàn - một Niết bàn nhân bản, nhập thế và hoạt động cùng những buồn vui nhân thế. Quan niệm này đã mang lại một sức hấp dẫn, sức sống mới cho Phật giáo, đặc biệt là trong xã hội hiện đại.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567