Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tìm Hiểu Ý Nghĩa Tam Chuyển Pháp Luân Thập Nhị Hành

12/07/201107:19(Xem: 3743)
Tìm Hiểu Ý Nghĩa Tam Chuyển Pháp Luân Thập Nhị Hành

TÌM HIỂU Ý NGHĨA
TAM CHUYỂN PHÁP LUÂN THẬP NHỊ HÀNH

Thích Thánh Minh

Tứ Diệu Đế là giáo lý căn bản, tối quan trọng trong hệ thống giáo lý, là tinh hoa căn bản trong lời Phật dạy. Đây là pháp hành căn bản trong sự tu tập giải thoát. Để hiểu rõ hơn về ý nghĩa lý thâm sâu bài pháp Tứ Diệu Đế, chúng ta hãy cùng nhau tìm hiểu về ý nghĩa như thế nào được gọi là tam chuyển pháp luân thập nhị hành?

Sau khi thành đạo, đức Phật liền nghĩ đến việc đem giáo lý vừa chứng đạt truyền bá cho chúng sanh. Quán sát thấy căn cơ của năm anh em Kiều Trần Như có thể khai ngộ được, đức Phật đến Vườn Nai (Lộc giả uyển) thuyết bài pháp Tứ Diệu Đế, đây là bài pháp đầu tiên. Tứ Diệu Đế là giáo lý nền tảng của Phật giáo và được xem là thiện pháp tối thắng. Tôn giả Xá Lợi Phất (Sariputta) đã từng nhận định:

"Chư Hiền giả, ví như tất cả dấu chân của mọi loài động vật đều bị nhiếp trong dấu chân voi, vì dấu chân này là to lớn trong tất cả dấu chân về mặt to lớn. Cũng vậy, chư Hiền giả, tất cả các thiện pháp đều tập trung trong tứ Thánh đế" -- (Trung Bộ I, kinh Tượng tích dụ, đại kinh trang 184)

Tứ Diệu Đế là giáo lý căn bản, tối quan trọng trong hệ thống giáo lý, là tinh hoa căn bản trong lời Phật dạy. Đây là pháp hành căn bản trong sự tu tập giải thoát. Để hiểu rõ hơn về ý nghĩa lý thâm sâu bài pháp Tứ Diệu Đế, chúng ta hãy cùng nhau tìm hiểu về ý nghĩa như thế nào được gọi là tam chuyển pháp luân thập nhị hành?

Chuyển pháp luân: là quay bánh xe pháp, là sự chuyển động của bánh xe chân lý. Đây là lối dùng hình tượng cụ thể để diễn tả khái niệm. Bài pháp Tứ Diệu Đế đức Phật giảng thuyết lần đầu tiên để độ năm anh em Kiều Trần Như tại vườn Lộc Giả, ví như bánh xe pháp bắt đầu chuyển động. Xe chánh pháp này chở tâm chúng sanh từ bờ mê đến bến giác. Xe chánh pháp này đưa tâm trí của chúng sanh đến Niết Bàn an vui.

Tam chuyển pháp luân thập nhị hành: Tam chuyển pháp luân gồn có ba phần đó là thị chuyển, khuyến chuyển và chứng chuyển. Đây là ba lần quay bánh xe chánh pháp. Đức Phật chỉ rõ thực tướng của đời sống là khổ, nói rõ nguyên nhân dẫn đến khổ, phải dứt nguyên nhân gây khổ đó và biện pháp dứt khổ, gọi là thị chuyển. Kế tiếp khuyến tấn năm anh em Kiều Trần Như hiểu rõ nỗi đau khổ đó và khích lệ năm người bạn đồng tu phải nhận ra nguyên nhân khổ, phải dứt trừ nguyên nhân và biện pháp dứt khổ, gọi là khuyến chuyển. Sau cùng đức Phật nói tự chính bản thân Ngài đã thực hiện và hoàn toàn giác ngộ - "Dĩ thân tác chứng", lấy kinh nghiệm nóng hổi của bản thân ra làm nền tảng bảo vệ chân lý để thuyết phục chúng sanh nổ lực hành trì theo những gì đức Phật đã làm, đây gọi là chứng chuyển. Vì mỗi đế đều có ba chuyển nên bốn đến cộng lại thành 12 hành; nên gọi là tam chuyển pháp luân thập nhị hành.

Đức Phật đã trình bày rõ ràng, cụ thể tri kiến như thật về Tứ Diệu Đế qua "ba chuyển "và "mười hai hành".

Về diệu đế thứ nhất: Khổ đế (dukkha) có ba luận điểm ,"Đó là khổ (thị chuyển). Dukkha phải được hiểu (khuyến chuyển). Và Dukkha đã được hiểu (chứng chuyển)".

"Chân lý của khổ đế là gì? Sanh là khổ (sanh khổ), già là khổ (lão khổ), bệnh là khổ (bệnh khổ), chết là khổ (tử khổ), xa cách khỏi người thân yêu là khổ (ái biệt ly khổ), không được những gì mình muốn là khổ (cầu bất đắc khổ)... tóm tắt đó là những loại khổ bám lấy chúng sanh".

Đó là khổ đế, đó là linh kiến, sự tự chứng trí huệ, sự nhận biết và ánh sáng đã nảy sinh trong ta về mọi việc chưa từng nghe thấy trước đây.

Khổ đế phải được thấu suốt bằng sự hiểu biết đầy đủ cái khổ: đó là linh kiến, sự tự chứng, trí huệ sự nhận biết và ánh sáng đã nảy sinh trong ta về mọi việc chưa từng nghe thấy trước đây.

Khổ đế đã được thấu suốt bằng sự hiểu biết đầy đủ cái khổ: đó là linh kiến, sự tự chứng trí huệ, sự nhận biết và ánh sáng đã nảy sinh trong ta về mọi việc chưa từng nghe thấy trước đây". -- (Kinh Tương Ưng Bộ, LVI, 11)

Đoạn kinh văn trên là một phương pháp giáo dục rất hay, một phương tiện thuyết pháp thiện xảo, bởi vì đức Phật đã diễn tả bằng một công thức đơn giản dễ nhớ giúp năm người bạn đồng tu nhận định và có thể thực hành. Ba luận điểm của khổ, đức Phật đã trực tiếp truyền đạt cho năm anh em Kiều Trần Như khi xưa, nhưng đồng thời là bài học vô giá hôm nay giúp chúng ta áp dụng trong cái nhìn về cuộc đời: khi nào gặp đau khổ, trước tiên chúng ta phải công nhận "có đau khổ", kế đó: "đau khổ phải được hiểu" và cuối cùng là đau khổ đã được hiểu. Sự hiểu biết về dukkha là sự tự chứng trong Khổ đế.

Về diệu đế thứ hai: Tập đế (Sameda Dukkha) có ba luận điểm, đó là "có căn nguyên của đau khổ, là sự ràng buộc của dục vọng (thị chuyển). Dục vọng phải được buông bỏ (khuyến chuyển) . Và Dục vọng đã được buông bỏ (chứng chuyển)".

"Tập đế là gì? là căn nguyên của đau khổ. Nó là sự khao khát đã thay đổi chúng sanh, đã được kèm theo bởi những hứng thú, ái dục, đam mê về những điều này thứ kia: trong những ngôn từ khác, dục ái, hữu ái, hủy ái. Nhưng sự khao khát nảy sinh và phát triển dựa trên những gì? Nó nảy sinh và phát triển nơi nào có sự vừa lòng và yêu thích.

Diệu đế dạy về căn nguyên của đau khổ: đó là linh kiến, sự tự chứng, trí huệ, chưa từng nghe thấy trước đây.

Tập đế phải được thấu suốt bằng sự dứt bỏ cái căn nguyên của đau khổ...

Tập đế này đã được thấu suốt bằng sự dứt bỏ cái căn nguyên của đau khổ: đó là linh kiến, sự tự chứng, trí huệ, chưa từng nghe thấy trước đây". -- (Kinh Tương Ưng Bộ, LVI, 11)

Đức Phật dạy căn nguyên của đau khổ là sự ràng buộc của ba loại dục vọng: dục ái(kama tanha), hữu ái (bhava tanha) và huỷ ái (vibhava tanha).

Dục ái: sự tham ái về nhục dục, đây là loại dục vọng ham muốn có những khoái lạc về giác quan qua thể xác hoặc những giác quan khác làm cho ta luôn có khuynh hướng để kích thích và thỏa mãn các giác quan của mình. Ví dụ: khi đói gặp thức ăn ngon và ăn thử những gì thật khoái khẩu sẽ thấy: một sự thèm muốn thêm nữa nảy sinh. Đó là Kama tanha. Khuynh hướng con người là tìm kiếm và ham thích những sắc đẹp, những âm thanh hay, những mùi hương thơm lạ, những vị ngọt ngon và những xúc chạm êm ái và tránh xa các sắc, thinh, hương, vị và xúc trái ngược. Lòng tham ái càng mạnh thì chấp thủ càng mạnh. Đây chính là nghiệp lực dẫn đến tái sanh, là cội nguồn của đau khổ.

Hữu ái: là sự tham khát liên hệ đến tư tưởng, là bản năng của sinh tồn là khát vọng được tồn tại. Do muốn tồn tại nên sinh sợ hãi sự chuyển sinh hay hoại diệt. Cứ nhìn một người đang phấn đấu với cái chết thì sẽ thấy bản năng sinh tồn ấy. Đây gọi là Bhavana tanha. Hễ còn khát vọng tồn tại là còn khát ái, là còn sinh tử, còn chịu cảnh vô thường và đau khổ.

Hủy ái còn gọi là vô hữu ái: Đây là những tham ái liên hệ đến tư tưởng đoạn kiến, những người nhàm chán cuộc sống muốn tự tử để kết liễu cuộc đời, hoặc tham ái nơi những cảnh giới vô hình. Đây gọi là Vibhava tanha. Chính sự khát vọng mù quáng này là một thứ lửa nung nấu khổ đau.

Dục ái, hữu ái và hủy ái là ba khía cạnh khác nhau của dục vọng. Tư tưởng ham hố quá mạnh thúc đẩy ta vào con đường hành tác mù quáng theo bản năng, thiếu trí huệ soi đường. Đây là những thiên kiến dẫn đến sự tạo nghiệp là cội nguồn của đau khổ. Nên lưu ý rằng, thông thường chúng ta đo lường đau khổ bằng cảm thọ, nhưng cảm thọ không phải là đau khổ. Sự giữ lấy dục vọng mới chính là đau khổ.

Khi đã hiểu được bản chất của ba loại dục vọng này là sự trói buộc. Đây chính là động cơ, là nguyên nhân đẩy mạnh nghiệp thức phải luân hồi sanh tử trong tứ sanh lục đạo. Chúng ta phải hướng đến bước tu tập tiếp theo đó là sự tự chứng thứ nhì trong tập đế: "Dục vọng phải được cởi bỏ" và sự tự chứng thứ ba "Dục vọng đã được buông bỏ". Như vậy chúng ta không cần phải tiếp tục chịu đau khổ. Chúng ta không phải là những nạn nhân tuyệt vọng của dục vọng. Chúng ta có thể cho phép dục vọng tồn tại và bắt đầu buông xả nó. Dục vọng có tác dụng làm ta mê mờ chỉ khi chúng ta còn nắm bắt nó, tin nó và phản ứng lại nó. Chúng ta có thể rút ra đuợc một bài học kinh nghiệm để giải quyết những vấn đề thường xảy ra trong cuộc sống hằng ngày: khi đang cảm thấy phiền não và bi quan, ngay lúc chúng ta từ chối nuông chìu cái cảm giác đó. Qua sự hiểu biết và thực hành chúng ta mới có được sự tự chứng thứ ba "Dục vọng đã được buông xả" vì buông xả ở đây không phải buông xả một cách lý thuyết mà đây là tất cả những gì về thực hành.

Về diệu đế thứ ba: Diệt đế (Nirodha Dukkha) có ba luận điểm, đó là "Có sự đoạn trừ của đau khổ, của dukkha (thị chuyển). Sự đoạn trừ của dukkha phải được nhận thức (khuyến chuyển). Và sự đoạn trừ của dukkha đã được nhận thức (chứng chuyển)"

"Diệt đế là gì? Là sự diệt khổ, là sự tẩy sạch và sự diệt trừ dục vọng; sự bác bỏ, buông xả, từ bỏ và không thừa nhận nó. Nhưng trên căn bản nào dục vọng này được bỏ mặc và làm cho triệt tiêu? Nó có thể được bỏ mặc và làm cho triệt tiêu ngay nơi nào có sự vừa lòng và yêu thích.

Diệt đế dạy về sự diệt khổ: đó là linh kiến, sự tự chứng, trí tuệ, sự nhận biết, và ánh sáng đã nảy sinh trong ta về mọi việc chưa từng nghe thấy trước đây.

Diệt đế này phải được thấu suốt bằng sự nhận thức được sự diệt khổ...

Diệt đế này đã được thấu suốt bằng sự nhận thức được sự diệt khổ: đó là linh kiến, sự tự chứng, trí tuệ, sự nhận biết, và ánh sáng đã nảy sinh trong ta về mọi việc chưa từng nghe thấy trước đây". -- (Kinh Tương Ưng bộ, LVI,11)

Toàn bộ mục đích của giáo lý Phật giáo là để phát huy trí tuệ nhằm thoát ra khỏi những vọng tưởng. Diệt (Nirodha) là một chữ khác của Diệt độ hoặc Tịch Diệt (Nibbana) là sự chấm dứt nguồn gốc của mê lầm đau khổ, đó là buông bỏ các dục vọng, dập tắt được các phiền não mê muội là có được sự an lạc.

Chúng ta có thể cảm nhận được sự an lạc qua sự hành trì tu tập của chính bản thân khi dục vọng chấm dứt trong tâm. Khi chúng ta ở trong trạng thái nhìn sự vật và thật sự hiểu biết điều đó như nó đang là, chúng ta sẽ nhận thức được diệt đế (nirodha dukkha), trong đó không có bản ngã mà vẫn có sự linh hoạt và sự minh bạch. Đó là ý nghĩa thật sự của hoan lạc là ý thức siêu việt bình an nhất.

Khi đức Phật giảng xong bài pháp tứ Diệu đế thì ông Kiều Trần Như đạt được thanh tịnh pháp nhãn (tâm trí lọc sạch không còn vướng bụi nhơ), đức Phật đã gọi ông ta là A Nhã Kiều Trần Như. A Nhã có nghĩa là hiểu biết thâm sâu, như vậy A Nhã Kiều Trần Như có nghĩa là: "Kiều Trần Như - người am tường". Kiều Trần Như đã biết cái gì? Trí huệ ngài như thế nào mà đức Phật đã tán dương lúc bài pháp chấm dứt? Vì ngài nhận thức rõ rằng: "Tất cả những gì là đối tượng của sinh cũng là đối tượng của diệt"(cái gì sanh tức phải bị diệt).

Đức Phật nhấn mạnh rằng:"Chân đế phải đươc nhận thức ở đây ngay từ bây giờ". Vì vậy không phải chờ đợi đến lúc chết để khám phá ra chân lý mà mỗi một chúng ta phải nhận thức được điều đó ngay bây giờ.

Về diệu đế thứ tư: Đạo đế (Nirodha Gamadukkha) như những chân đế khác, có ba luận điểm, đó là "có bát chánh đạo, đường dẫn ra khỏi đau khổ (thị chuyển). Đường đi này phải được phát triển (khuyến chuyển) và đường đi này đã được phát triển một cách toàn diện (chứng chuyển)".

"Đạo đế là gì? Là con đường dẫn tới sự diệt khổ, là Bát Chánh Đạo, đó là: Chánh Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm và Chánh Định.

Đạo đế dạy về con đường dẫn tới sự diệt khổ: đó là linh kiến, sự tự chứng, trí tuệ, sự nhận biết, và ánh sáng đã nảy sinh trong ta về mọi việc chưa từng nghe thấy trước đây...

Đạo đế này phải được thông suốt bằng sự trau dồi trí tuệ về Bát Chánh Đạo...

Đạo đế này đã được thông suốt bằng sự trau dồi trí tuệ về Bát Chánh Đạo: đó là linh kiến, sự tự chứng, trí tuệ, sự nhận biết, và ánh sáng đã nảy sinh trong ta về mọi việc chưa từng nghe thấy trước đây". -- (Kinh Tương Ưng bộ, LVI,11)

Đạo đế còn được gọi là Thánh đạo (Ariya Magga), hay chánh đạo. Đây là tám phương pháp, tám nguyên lý chân chánh nhất để tu tập giải thoát. Hầu hết các kinh điều chứng minh rằng Bát Thánh là con đường đưa đến sự đoạn diệt khổ đau. Tất cả các giáo lý tu tập điều được xây dựng trên nền tảng căn bản của Giới, Định và Huệ. Bát Thánh đạo được khai triển từ tam vô lậu học. Chánh kiến (samma ditthi) và Chánh tư duy (samma sankappa) là thuộc về Huệ. Chánh ngữ (samma vaca), Chánh nghiệp (samma kammanta) và Chánh mạng (samma ajiva) là thuộc về Giới. Chánh tinh tấn (samma vayama), Chánh niệm (samma sati) và Chánh định (samma samadhi) thuộc về Định.

Bát Thánh Đạo là một pháp hành, là con đường để phát triển thánh trí chúng ta phải biết và làm theo, làm từ cạn đến sâu, phải thực hành từng phần từng phần mà tiến lên ngày càng đầy đủ hơn, toàn diện hơn để đời sống đươc an lạc hạnh phúc.

Qua phương pháp Tam chuyển pháp luân thập nhị hành, đức Phật đã triển khai thật đầy đủ về ý nghĩa tuyệt diệu của của pháp Tứ Diệu Đế. Tam chuyển là thấy rõ đau khổ và chỉ cho chúng sanh thấy rõ khổ đau; hiểu rõ nỗi khổ đau và khích lệ chúng sanh nhận rõ nỗi khổ đau; và sau cùng là đã chứng ngộ dứt trừ hết khổ đau. Mỗi đế đều có ba chuyển còn được gọi là ba luận điểm rất rõ ràng và cụ thể làm lay tỉnh và chuyển đổi tâm hồn của chúng sanh từ mê lầm ra giác ngộ, từ đau khổ trở thành hạnh phúc an vui. Tam chuyển pháp luân thập nhị hành là phương pháp giáo dục cao độ qua khẩu giáo và thân giáo của một bậc giác ngộ. Vì vậy nó mang tính thuyết phục cao đã lay tỉnh tâm hồn năm người bạn đồng tu (năm anh em Kiều Trần Như) và rất nhiều chúng sanh trực nhập vào chánh pháp. Điều này đã minh chứng rằng Phật Giáo không ru ngủ con người trong những tín điều thần quyền mà luôn đánh thức con người trực nhận sự thật của con người về chân lý của cuộc đời qua chân lý "hiểu khổ và diệt khổ". Sở dĩ con người khổ đau là do vô minh vọng chấp, do chạy theo lòng tham dục, luyến ái của tư duy hữu ngã. Đức Phật đã chuyển pháp luân là đem giáo lý Tứ Diệu Đế soi sáng cuộc đời và mọi nguời trên bước đường tìm cầu hạnh phúc chân thật viên mãn. Giáo lý Tứ Diệu Đế qua lăng kính "ba chuyển" và "mười hai hành" đã trở thành bài pháp rất sống động hùng hồn làm sáng tỏ lại giá trị của con người, chỉ cho con người thấy được kho tàng tri thức cũng như khả năng để tự nổ lực kiến tạo lại đời mình bằng mọi hiểu biết đúng đắng nhất xuất phát từ ngay giữa lòng cuộc sống này. Chính vì thế, bài pháp Tứ Diệu Đế đã trở thành một giáo lý tối quan trọng, là giáo lý nền tảng của các bộ phái Phật giáo, không một nhà nghiên cứu Phật học nào có thể phủ nhận được điều này. Vì vậy chúng ta phải quyết tâm nghiên cứu Tứ Diệu Đế để thực hành có kết quả.

Là sứ giả Như Lai, chúng ta noi gương hoằng pháp của đức Phật, sống và hành trì tu học và truyền bá chánh pháp theo tôn chỉ "chuyển mê khai ngộ ly khổ đắc lạc" để mang lại sự an lạc cho bản thân và sự bình an hạnh phúc đến với mọi nhà mọi nguời.

Thích Thánh Minh
(Đạo Phật Ngày Nay)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/07/2020(Xem: 6042)
Trong kinh có ghi lại lời cảnh giác của Đức Phật, Ngài đã từngnói rằng: “Phàm tất cả chúng sinh còn lên xuống trong ba cõi, lăn lộn trong sáu đường thì không một loài nào được hoàn toàn trong sạch, không một giống nào dứt hết tội lỗi sai lầm”.Lời nói của bậc toàn giác thật chính xác. Chúng sinh còn trầm luân trong ba cõi, sáu đường, là còn gây nhiều nghiệp xấu. Cho nên, dù chúng ta là ai của những đời trước, kiếp trước? Kiếp này, tuy chung sống ở cõi Ta-Bà nhưng mỗi người ôm vào đời một biệt nghiệp riêng, do tội lỗi hay phước báo đã gây ra trong đời trước. Nhưng nói chung,dù ở trong bất cứ hoàn cảnh nào thì con người cũng đã từngbị vô minh che mờ lý trí xúi quẩy tạo ra muôn ngàn tội lỗi, và tội lỗi đó cứ chồng chất mãi theo thời gian.
12/07/2020(Xem: 6232)
Theo, Đại-Vô-Lượng-Thọ-Kịnh. Đại-A-Di-Đà-Kinh Q1.- Bình-Đẳng-Giác- Kinh Q1. Đại-Bảo-Tích-Kinh Q17. Bi-Hoa-Kinh Q3. Vô-Lượng-Quảng- Trang-Nghiêm-Đại-Thừa-Kinh… Thì đều lạy tu theo 48 nguyện. 48 đại nguyện có đủ trong 6 bộ kinh nói trên. Chỗ cốt yếu cho người tu niệm Phật và lễ lạy 48 đại nguyện là : 1.Tin tưởng tha thiết nguyện về cõi Phật A Di Đà chắc thật diệt sạch hết tâm nghi ngờ. Lòng tin trọn vẹn trong sạch. 2. Lập thời khóa tu niệm lễ lạy trong một ngày đêm 1, 2, hay 3 Thời, Tùy ý thích. Chọn cho thích hợp để tu. Quan trọng là thành tâm. Đừng ham nhiều mà lụy thân rồi chán bỏ! 3. Quyết tâm phát nguyện vãng sanh về Cực Lạc Tịnh Độ, Tâm luôn kính nhớ ưa thích cõi Cực Lạc của Từ Phụ A Di Đà, quí mến Từ Phụ A Di Đà. niệm Hồng danh Phật liên tục, khi xướng lạy lời nguyện thân tâm vui thích mừng rỡ cảm động, thân nhẹ lân lân như ơn Phật đang ban phước cao vời vô tận, đầy tâm an lạc, như thấy mình đầy đủ sức khỏe. Niệm, chừng nào được “nhứt tâm bất loạn” đồng nghĩa với “hế
22/06/2020(Xem: 4645)
Đi tìm nguồn cội của những việc cần tìm hiểu quả là điều rất hữu ích và cần thiết cho những người học Phật như chúng ta ngày nay. Tuy trong hiện tại chúng ta có quá nhiều phương tiện để tìm hiểu, đọc tụng cũng như học hỏi, nhưng cũng không phải muốn tìm gì là có ngay lời giải đáp đúng như ý ta mong đợi, mà vẫn cần phải qua những trải nghiệm của bản thân cũng như sự tu học hành trì, nghiên cứu lâu ngày, chúng ta mới thẩm thấu được lời Phậtdạy. Vì lẽ lời dạy của Đức Phật nằm rải rác khắp nơi trong ba tạng của Nam Truyền và ba tạng của Bắc Truyền, có cả hàng triệu triệu chữ và nhiều nhà phiên dịch, chú giải khác nhau, nên không phải ai cũng có cơ duyên để trì tụng, nghiên cứu hết ba tạng Kinh điển này. Riêng bản thân tôi không dám làm việc gì quá khả năng, chỉ cố gắng gom góp lại những chỗ đã đọc qua, nhằm cống hiến cho quý vị một sự hiểu biết căn bản về Đức Phật A-di-đà, để chúng ta không còn nghi ngờ gì nữa khi trì tụng các Kinh A-di-đà, Kinh Vô Lượng Thọ hay Kinh Quán Vô Lượng Thọ. Đó
21/06/2020(Xem: 8499)
Do một thiện niệm vừa phát sinh sau khi TT Thích Nguyên Tạng chấm dứt 48 bài pháp thoại liên tục được livestream trên Facebook của trangnhaquangduc trong mùa cách giản xã hội vì đại dịch Corona vào mỗi sáng sau thời công phu khuya ( với kinh Lăng Nghiêm, Đại Bi và thập chú ) mà người viết mới có dịp ôn lại những gì trong “ PHÁP NGỮ CỦA HT TỊNH KHÔNG” đã được TT Thích Nguyên Tạng Việt dịch và được xuất bản từ 2004. Thời gian trôi qua nhanh quá , thấm thoát đã 16 năm mà đến bây giờ đây là lần thứ ba tôi mới đọc lại , phải nói là rất ân hận cho sự vô minh của mình trong nhiều năm và đã uổng phí thời gian để có thể tu tập đúng hơn nữa .
07/05/2020(Xem: 5843)
Đệ tử tên là: .......... Một lòng quy kính - Đức Phật A Di Đà. Thế giới Cực Lạc - Nguyện lấy hào quang - Trong sạch soi cho, Lấy thệ từ bi - Mà nhiếp thọ cho - Con nay chánh niệm, Niệm hiệu Như Lai - Vì đạo Bồ Đề - Cầu sanh Tịnh Độ. Phật xưa có thệ: “Nếu có chúng sinh - Muốn sinh về nước ta Hết lòng tín nguyện - Cho đến mười niệm - Nếu chẳng đặng sinh Chẳng thành Chánh Giác - Chỉ trừ kẻ ngũ nghịch - Kẻ bài báng Chánh Pháp” - Do vì nhân duyên - Niệm hiệu Phật nầy - Được vào trong bể - Đại thệ Như Lai - Nhờ sức Từ Bi Các tội tiêu diệt - Căn lành tăng trưởng.- Khi mạng gần chung, Biết trước giờ chết- Thân không bệnh khổ- Tâm không tham luyến,
05/05/2020(Xem: 5997)
Chiều nay ngày 19 tháng 7 năm Mậu tuất (2018), tôi đến Phương trượng Tổ đình Từ Đàm, đảnh lễ Trí Quang Thượng Nhân, sau khi xuất hạ, Thượng Nhân đã dạy cho tôi những điều hữu ích gồm: 1- Pháp học: Pháp giới tạng thân A-di-đà-Phật là chỉ cho Thân thể của Phật A-di-đà bao trùm khắp cả không gian và thời gian về mặt không gian là cả mười phương. Về mặt thời gian là bao trùm cả ba đời.
13/03/2020(Xem: 17838)
Quyển "The Buddha and His Teachings" (Đức Phật và Phật Pháp) được ấn hành tại Sài gòn năm 1964 nhờ sự phát tâm bố thí của liệt vị Phật tử Việt Nam. Đạo hữu Phạm Kim Khánh, pháp danh Sunanda, đã dày công phiên dịch thiên khái luận nhỏ bé này ra tiếng mẹ đẻ với mục đích đáp lại phần nào lòng mong ước của những ai muốn hiểu Đức Phật và giáo lý của Ngài. Công đức này được hàng Phật tử Việt Nam ghi nhận. Trong hiện tình, nước Việt Nam không mấy được yên ổn. Bao nhiêu người đang đau khổ, về vật chất cũng như tinh thần. Không khí căng thẳng này quả không thích hợp với việc làm có tánh cách tinh thần và đạo đức
20/12/2019(Xem: 5111)
Niệm Phật là phương pháp thực hành rất phổ biến trong Phật Giáo Đại Thừa, đặc biệt là Tịnh Độ Tông hay còn được gọi là Pháp môn Niệm Phật. Nhưng nếu thuần túy chỉ niệm Phật mà thôi, thiếu tu học thì chúng ta có thể tái sanh về cõi Tây Phương Cực Lạc được hay không? Tính cốt lõi của pháp môn Niệm Phật là lấy Minh tâm (trong sáng) làm công yếu, lấy Hạnh môn (tịnh tâm) làm chính yếu. Tu và học phải đi đôi với nhau. Tu là thay đổi bản chất, tánh nết của mình cho được tốt hơn, cho được thiện lành hơn -đó mới là tu tâm dưỡng tánh. Còn Học là để mở mang kiến thức, để hiểu và nhận ra những điều thiện lành. Vậy tu học là đôi chân vững chắc để chúng ta đi đến được bến bờ giác ngộ. Tu làm sao để nở tâm Bồ Đề, đừng nở tâm ganh tỵ. « Văn, tư, tu » như lời Đức Phật dạy, trước tiên chúng ta phải lắng nghe, sau đó suy nghĩ để nhận biết rồi mới thực hành. Khi niệm Phật chúng ta phải nhất tâm tưởng đến Phật hiện tại, giúp tâm chúng ta có chất liệu để thành Phật. « Nhất thiết ch
12/09/2019(Xem: 5755)
Đại sư Từ Chiếu (Chi: Tzu Chao) có lần nói: "Người tu Tịnh độ lúc sắp chết thường bị Ba Điều Nghi và Bốn cửa ải làm trở ngại cho việc vãng sanh Cực Lạc. Do đó hành giả ngày thường cần chuẩn bị, suy tư và đề phòng để có thể loại trừ chúng trong lúc lâm chung.
24/08/2019(Xem: 8902)
Niết bàn là khái niệm thể hiện triết lý độc đáo về giải thoát của Phật giáo. Đây là một trạng thái tâm linh hoàn toàn thanh thản, giải thoát khỏi mọi đau khổ của cuộc đời. Trạng thái này có thể đạt được khi còn đang sống (Hữu dư Niết bàn) hoặc khi đã chết (Vô dư Niết bàn). Phật giáo Tiểu thừa hướng tới Vô dư Niết bàn - một Niết bàn tịch diệt, cô đơn, từ bỏ mọi thú vui trần thế. Phật giáo Đại thừa lại hướng tới Hữu dư Niết bàn - một Niết bàn nhân bản, nhập thế và hoạt động cùng những buồn vui nhân thế. Quan niệm này đã mang lại một sức hấp dẫn, sức sống mới cho Phật giáo, đặc biệt là trong xã hội hiện đại.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567