Nguyên tác: Journey In Search Of The Way-The Spiritual Autobiography Of Satomi Myodo
Nguyên Phong Việt dịch, Làng Văn xuất bản 1996
Ở ngoại ô thành phố Sapporo có một thiền viện thuộc dòng Tào Động (Soto) tên là Chuoji, thường mở những khóa tu thiền vào lúc cuối tuần. Thất vọng với việc đi tìm đạo một cách viển vông của mình, tôi quay trở về với Phật giáo như một «giải pháp cuối cùng» và tự nhủ nếu không tìm được con đường giải thoát, tôi sẽ không còn muốn sống nữa. Vào lúc đó cuộc thế chiến thứ hai cũng vừa bắt đầu.
Khóa tu tại chùa Chuoji được vị sư trụ trì hướng dẫn có khoảng ba mươi người tham dự. Khác với những vị thầy mà tôi đã gặp, thường giảng giải về lý htuyết, vị trụ trì tại đây lại chú trọng đến sự thực hành. Ông quan niệm việc tọa thiền (zazen) là chính, mọi thứ khác chỉ là phụ. Ông nói :
- Tọa thiền là ngõ vào con đường giải thoát, chỉ có công phu tọa thiền mới làm cho tâm sáng suốt để nhận thức được chân tánh của nó. Ngày xưa đức Phật Thích Ca đạt đạo giải thoát cũng nhờ ngồi thiền, trước khi hoằng pháp tổ Bồ Đề Đạt Ma cũng ngồi diện bích suốt chín năm, hiển nhiên quí vị thấy tọa thiền quan trọng như thế nào. Do đó quí vị phải chăm chỉ tọa thiền.
Tôi không lạ gì việc ngồi tĩnh tâm theo phương pháp Kannagara-no-michi và phát âm bằng nội lực của mình, nhưng vị trụ trì lại dạy chỉ ngồi trong yên lặng, theo dõi hơi thở và tuyệt đối không làm gì khác. Tôi thắc mắc :
- Thưa thầy, ngồi yên lặng như thế thì được ích lời gì. Ít ra phải có một cái gì khác nữa chứ ?
- Lúc đầu người ta chỉ cần theo dõi hơi thở để làm lắng
dịu tư tưởng đã. Đừng tưởng ngồi yên lặng như thế
là dễ đâu, bà hãy tập ngồi làm sao cho thật trang nghiêm,
ngồi vững vàng như trái núi, ngồi làm sao để tâm và thân
được nhất như thì mới thực sự gọi là tọa thiền.
Phương
pháp ngồi thiền khởi đầu bằng việc đếm số hơi thở
(sổ tức) như sau: lúc đầu thiền sinh hít vào và đếm thầm
«một», khi thở ra thì đếm «hai», cứ thế cho đến số
mười thì bắt đầu trở lại. Dĩ nhiên trong lúc đó những
ý niệm vẩn vơ có thể nẩy sinh làm sao lãng tâm trí nhưng
điều quan trọng là thiền sinh không được áp chế nó, chận
đứng nó, theo đuổi nó hay bám vào nó; mà cứ để cho nó
tự động đến và đi một cách tự nhiên. Thiền sinh được
dạy rất kỹ rằng chỉ nên tập trung năng lực vào việc
đếm hơi thở ra vào thong thả mà thôi. Sau khi tọa thiền
một thời gian thì các thiền sinh được nghỉ ngơi vài phút
để xoa bóp cho giãn gân cốt rồi đứng dậy đi thiền hành
chung quanh thiền đường. Sau khi việc đếm hơi thở như trên
đã thuần thục thì thiền sinh đổi cách đếm, chỉ tập
trung tư tưởng để đếm mỗi khi thở ra mà thôi. Mỗi số
đếm tương ứng với cả lúc hít vào và thở ra, cho đến
số mười thì bắt đầu trở lại từ số một. Sau khi đã
thực tập thuần thục cách đếm này thì họ lại đổi cách
đếm, tập trung tư tưởng để đếm mỗi khi hít vào. Đây
là giai đoạn khó khăn hơn vì mọi hoạt động tinh thần lẫn
thể xác thường được thực hiện khi người ta thở ra nên
hầu hết mọi người đều vấp váp trong lúc này. Mặc dù
đã từng tu tập phương pháp tĩnh tâm rất thuần thục nhưng
cũng phải mất một thời gian tôi mới có thể đếm hơi thở
một cách thoải mái, tự nhiên theo phương pháp này.
Ngoài việc tọa thiền, vị trụ trì còn khuyên các thiền sinh nên tham cứu thêm hai cuốn sách thiền là Bích Nham Lục và Vô Môn Quan. Bích Nham Lục là cuốn sách do thiền sư Tuyết Đậu soạn ra và sau được thiền sư Viên Ngộ chú giải thêm. Cuốn sách gồm một trăm công án được sắp đặt theo thứ tự nhất định : khởi đầu là lời dẫn (Thùy thị), kế đến là công án (Tắc) với những lời bình chú (Cử), bình xướng (Kệ), và bình giải. Thiền sư Đạo Nguyên (Dogen), người sáng lập dòng thiền Tào Động ở Nhật, đã mang cuốn sách này từ Trung Hoa về để làm tài liệu giảng dạy cho học trò của ông. Vô Môn Quan là cuốn sách do thiền sư Huệ Khai (1183 – 1260) soạn ra. Cuốn sách này sắp đặt giản dị hơn Bích Nham Lục rất nhiều, gồm bốn mươi tám công án thiền (Tắc) và lời bình giải. Theo truyền thuyết, thiền sư Huệ Khai nhờ công án «Vô» của Triệu Châu mà chứng đắc, do đó ông đưa công án này lên hàng đầu trong cuốn Vô Môn Quan. Ông viết trong phần mở đầu: «Tất cả những lời dạy của Phật đều lấy Tâm làm tông, lấy không cửa (Vô môn) là lối vào đạo. Đã là không cửa làm sao mà vào được? Há không nghe cổ nhân nói: «Nếu có cửa mà vào chẳng phải là đồ quí, do duyên mà có rồi trước sau cũng thành hoạt». Những kẻ nào tìm lý trong lời, chẳng khác gì vác gậy khều trăng. Có gì liên quan đến sự thật đâu? Khi làm Thủ Chứng ở Long Tường, nhân được chư tăng thỉnh giảng pháp, ta bèn đem công án của cổ nhân làm viên gạch dộng cửa, tùy căn cơ mà dẫn dắt người học. Ta sao lục những lời bình giải lại thành một tập sách đặt tên là Vô Môn Quan. Nếu là kẻ liều lĩnh, không kể mất còn, một mình một kiếm bước thẳng vào chỗ thù địch, dù cho Bát Tí Na Tra cũng không cản nổi. Ngay cả hai mươi tám vị tổ ở Tây Thiên, sáu vị ở Đông Độ, chỉ nghe phong thanh cũng đủ cầu xin tha mạng. Nếu chần chờ, ngần ngại không dũng mãnh thì chẳng khác nào đứng cạnh cửa sổ mà canh chừng kỵ sĩ, chỉ trong chớp mắt y đã chạy mất rồi. Do đó có bài tụng rằng: «Đường lớn không cửa. Có nghìn lối vào. Qua được cửa này. Càn khôn lẻ bước ». Theo vị trụ trì chùa Chuoji, hai cuốn sách trên và cuốn Chứng đạo ca của thiền sư Huyền Giác là ba cuốn sách quan trọng, không thể thiếu của bất cứ người tu thiền nào. Hôm nay khi đặt bút viết đến đây tôi xin ghi lại một nhận xét riêng cho những người muốn bước vào cửa thiền.
Mặc dù tông chỉ của thiền là «Bất lập văn tự», nhưng một số người, thường thuộc hạng trí thức, lại thích bình luận về thiền một cách sôi nổi. Họ thường dẫn cứ những giai thoại về thiền như tổ Đơn Hà chẻ tượng Phật làm củi đốt, tổ Lâm Tế mạnh bạo nói «Phùng Phật, sát Phật» rồi từ đó họ suy luận rộng ra và diễn giải thiền tông theo ý riêng của họ. Đây là một trở ngại rất lớn cho người mới bước chân vào cửa thiền, những người ham thích những gì kỳ lạ, đầy kịch tính, hơn là tọa thiền. Họ đã vô tình biến pháp môn «Bất lập văn tự» thành một trò chơi chữ nghĩa với những câu nói ngông cuồng, bắt chước chư tổ như «Ba lạng vải gai», «Cây phướn trước sân», hoặc «Nói được, ba chục gậy. Không nói được, ba chục gậy». Cùng một câu nói đó nhưng một vị thiền sư đã giác ngộ, một vị tổ, có thể nói được; còn với những kẻ chưa ngộ, chưa hề có kinh nghiệm tâm linh, thì đó chỉ là một sự nhắc đi nhắc lại như con vẹt, một sự ngông cuồng, ngu xuẩn, không những gây trở ngại cho mình mà còn làm hoang mang những người khác. Tôi xin ghi lại đây một sự kiện xảy ra trong khóa tu thiền lúc đó. Trong các khóa tu thường có một số người thích tham dự để bàn luận nhiều hơn là tu tập. Họ thường mang kiến thức ra khoe khoang như một cơ hội để phô trương bản ngã. Khóa tu tại chùa Chuoji cũng có vài người như vậy nên vị trụ trì thất vọng nói :
- Nếu quí vị chểnh mảng việc tọa thiền thì làm sao có thể đi xa hơn trên đường giải thoát được?
Một học viên tên Yamato đã biện luận việc chểnh mảng tọa thiền của mình bằng giai thọai về thiền như sau :
- Khi còn tu tại núi Hoành Nhạc, Mã Tổ chăm chỉ tọa thiền ngày đêm không mỏi mệt. Một hôm thầy ông là hòa thượng Nam Nhạc hỏi : «Con tọa thiền như thế để làm gì?». Mã Tổ trả lời: «Con cố gắng ngồi để được thành Phật». Nam Nhạc không nói gì, chỉ lấy một miếng ngói rồi mài đi mài lại trên hòn đá gần đó. Thấy lạ, Mã Tổ bèn hỏi: «Thầy mài ngói để làm gì vậy?». Nam Nhạc thản nhiên trả lời: «Để làm gương soi mặt». Mã Tổ lắc đầu: «Làm sao mài ngói mà có thể thành gương được!» Nam Nhạc cũng nói ngay: «Làm sao ngồi mãi mà có thể thành Phật được?».
Nghe Yamato nói vậy, vị trụ trì đã trả lời :
- Các ông chỉ ham thích những lý luận suông mà không hiểu
Nam Nhạc biết rõ căn cơ của Mã Tổ lúc đó đang bị mê
hoặc, cho rằng Phật tánh là một cái gì ở bên ngoài mà
ông có thể tìm được qua việc tọa thiền, nên mới dạy
như vậy để ông này tỉnh ngộ. Thật ra Nam Nhạc đâu có
nói việc tọa thiền là vô ích như mài ngói không thể thành
gương mà chỉ nhấn mạnh rằng làm sao Mã Tổ có thể thành
Phật qua việc ngồi, nếu ông không bắt đầu là một ông
Phật trước đã. Nói một cách khác, tọa thiền không mang
đến cho ta Phật tánh, nó chỉ giúp cho tâm ta tĩnh lặng để
ý thức được rằng Phật tánh vốn hiện hữu trong ta. Nếu
tâm ta hoàn toàn an tĩnh thì một phút ngồi thiền chính là
một phút làm Phật, còn như ngồi mà tâm vọng động, mong
cầu thì có ngồi bao lâu cũng chỉ là vô ích thôi. Nếu lúc
tọa thiền thì các ông ngủ gật nhưng sau buổi tọa thiền
lại hăng say lý luận giảng giải lung tung như thế này thì
đừng nói tu một kiếp, nếu có tu hành hàng trăm kiếp cho
đến ngày đức Phật Di Lặc ra đời vẫn chẳng hiểu được
gì hết. Các ông phải cố gắng công phu, chớ sinh tâm nghi
ngờ hay chấp vào những giai thoại thiền mà các ông chưa
hiểu rõ, để rơi vào ma đạo, trôi nổi trong sinh tử luân
hồi, không giải thoát được.
Nghe vị trụ trì nói vậy, tôi cảm thấy yên tâm và cố gắng chăm chỉ tọa thiền theo phương pháp chỉ dẫn.
Trước
khi đi xa hơn, tôi muốn nhắc qua về lịch sử Thiền tông
Nhật Bản. Thiền tông du nhập vào xứ tôi từ lâu, có lẽ
từ khi đạo Phật truyền vào đây. Lịch sử ghi nhận vào
năm 552, quốc vương xứ Triều Tiên đã cho người mang triều
cống Nhật Bản một số kinh sách, tượng Phật và sau đó
Hoàng đế Nhật đã gửi người qua Triều Tiên, Trung Hoa để
hỏi thêm về Phật pháp. Vào năm 654, ngài Đạo Chiêu (Dosho),
một đệ tử của ngài Huyền Trang bên Trung Hoa, đã qua Nhật
giảng dạy về thiền tại thành phố Nara. Sau đó các thiền
sư khác như Đạo Tuân (Dosen), Nghĩa Không (Giku), Đạo Long
(Doryu), Tố Nguyên (Sogen), Nhật Ninh (Ichinei) đều lần lượt
được mời sang giảng dạy về thiền nhưng lúc đó Thiền
tông vẫn chưa phát triển được bao nhiêu. Có người cho rằng
các thiền sư trên chỉ đến giảng dạy một thời gian rồi
trở về nước chứ không có ý định xây dựng, phát triển
Thiền tông tại đây. Cũng có dư luận cho rằng phương pháp
giảng dạy của các thiền sư Trung Hoa lúc đó không phù hợp
với phong hóa Nhật Bản nên không được quần chúng đón
nhận nhiệt thành. Phải chờ đến khi hai vị sáng tổ của
Thiền tông Nhật Bản là ngài Vinh Tây (Eisai) và Đạo Nguyên
(Dogen) qua Trung Hoa tu học, trở về hoằng pháp thì thiền tông
mới phát triển mạnh mẽ, ảnh hưởng đến mọi sinh hoạt
của người dân xứ này.
Tổ
Vinh Tây (Eisai Myoan 1147 – 1215) là một vị cao tăng tu ở núi
Hiei, một trung tâm Phật giáo nổi tiếng của Nhật Bản lúc
đó. Trước khi qua Trung Hoa ông đã là một luận sư rất giỏi.
Ông nghiên cứu nhiều kinh điển nhưng không thỏa mãn với
lời giải thích của các danh sư đương thời nên qua Trung
Hoa tìm thầy học thêm. Ông du hành nhiều nơi, theo học với
các cao tăng của Thiên Thai Tông, Chân Ngôn Tông, Tịnh Độ
Tông, nhưng vẫn không thỏa mãn cho đến khi gặp các thiền
sư thuộc dòng Lâm Tế tại núi Thiên Đồng thì bao nghi ngờ
đều được giải đáp cả. Ông sống tại đây nhiều năm
để học hỏi thêm, hàng ngày theo chư tăng làm các công việc
thường nhật như chẻ củi, giã gạo, canh tác theo đúng tinh
thần thiền môn là «một ngày không làm là một ngày không
ăn». Núi Thiên Đồng còn là nơi nổi tiếng sản xuất các
loại trà (hai loại trà Long Tỉnh và Thiết Quan Âm đều phát
xuất từ đây) nên hiển nhiên ông đã học được cách trồng
trà. Khi trở về Nhật, ngoài việc giảng dạy thiền, Vinh
Tây còn mang hạt giống trà về trồng và khởi xướng nghệ
thuật uống trà tại đây, do đó người Nhật đã coi ông
như tổ sư khai sáng dòng Lâm Tế Nhật Bản và cha đẻ ra
nghệ thuật trồng trà, uống trà.
Vinh
Tây là người có công rất lớn trong việc phát triển thiền
học tại Nhật. Ông chủ trương thiền học chính là phương
pháp khai phóng sức mạnh của dân tộc. Ông soạn thảo bộ
Hưng thiền hộ quốc để làm tài liệu giảng cho học trò.
Theo ông thì đạo Phật không giới hạn trong phạm vi của
các tu viện mà phải thể nhập vào đời sống của đại
chúng. Một quốc gia sở dĩ hưng thịnh được là nhờ những
người trong đó biết tu tỉnh, biết sống trong tỉnh thức,
biết ý thức tinh thần trách nhiệm và đạo đức. Ông chủ
trương từ giai cấp lãnh đạo cho đến thứ dân đều phải
thực tập thiền định, ngay các hiệp sĩ (Samurai) cũng phải
biết tự chủ qua phương pháp thiền tập. Ông viết : «Nhờ
làm chủ được mình mà mọi ý nghĩ, hành động của họ
đều phản ảnh phần nội tâm phong phú, nhân cách điềm đạm,
đo đó người hiệp sĩ có thể tìm thấy ‘hành trong vô hành,
động trong bất động’, ung dung tự tại trước ngoại vật,
ngay cả cái chết cũng không thể làm họ nao núng được ».
Cuốn Hưng thiền hộ quốc trở nên cuốn sách gối đầu giường
của giai cấp hiệp sĩ lúc đó và mở đường cho phong trào
võ sĩ đạo (Bushido) sau này. Ngoài ra người ta còn thấy ảnh
hưởng của Vinh Tây trong văn học, thi ca, kịch nghệ, hội
họa, nghệ thuật cắm hoa, uống trà nữa. Chính nhờ Vinh Tây
mà Thiền tông đã gắn liền với đời sống của người
dân xứ này và chính nhờ biết thực tập thiền định mà
người dân xứ này đã hun đúc được một lý tưởng quốc
gia dân tộc mạnh mẽ đến ngày nay.
Tổ Đạo Nguyên (Dogen 1200 – 1253) xuất thân trong một gia đình quí tộc. Khi nhỏ, ông đã tỏ ra là người thông minh dĩnh ngộ. Lúc lên bốn tuổi đã đọc được thơ văn Trung Hoa và năm lên chín đã bắt đầu soạn thảo tài liệu về Phật học bằng tiếng Trung Hoa. Vì cha mẹ mất sớm khi ông còn nhỏ nên ông đã sớm suy gẫm về lý vô thường của cuộc đời. Các tác phẩm ông viết năm lên mười tuổi đã phản ảnh rõ ràng tâm trạng này. Năm mười hai tuổi, ông thọ giới xuất gia tại một ngôi chùa ở núi Hiei. Mặc dù còn nhỏ nhưng ông đã có những nhận xét xác đáng. Khi thấy phần lớn các tăng sĩ chỉ chú trọng vào việc cầu siêu, cầu an hoặc ủng hộ các gia đình thế gia vọng tộc chứ không chú tâm vào việc tu hành để giải thoát, ông đã đặt những câu hỏi mà các tăng sĩ lớn tuổi trong tu viện không thể trả lời. Năm mười lăm tuổi, ông thắc mắc: «Nếu như kinh đã nói, nếu chúng sinh đều sẵn tánh Bồ Đề, thì tại sao chư Phật phải nỗ lực mới đạt ngộ?» Vì không một vị sư nào ở núi Hiei lúc đó có thể giải thích thỏa đáng câu hỏi trên nên Đạo Nguyên lên đường đi khắp Nhật Bản tìm các danh sư khác để tham vấn. Lúc đó Tổ Vinh Tây ở Trung Hoa trở về, đang truyền bá giáo lý Lâm Tế ở chủa Kenninji nên ông tìm đến. Cuộc gặp gỡ giữa hai vị tổ Thiền tông của Nhật Bản diễn ra như sau :
Đạo Nguyên bước vào xin gặp Vinh Tây và đặt ngay câu hỏi. Vừa nghe xong, Vinh Tây ung dung trả lời: «Không Phật nào biết, chỉ có hàng thô lậu biết mà thôi», ngụ ý chư Phật không còn nghĩ đến có hay không có bản tánh Bồ Đề, chỉ có hạng người mê hoặc mới nghĩ đến những điều như thế. Vừa nghe xong, bao thắc mắc từ bấy lâu nay đều tiêu tan cả nên Đạo Nguyên sụp xuống lạy và xin được ở lại chùa Kenninji tu học dưới sự hướng dẫn của Vinh Tây. Cuối năm đó tổ Vinh Tây qua đời, Đạo Nguyên tiếp tục tu học dưới sự hướng dẫn của các đệ tử lớn của Vinh Tây. Ông đã hoàn tất một số công án và được thiền sư Myozen, vị kế nghiệp của Vinh Tây, ấn chứng cho. Mặc dù được thế, Đạo Nguyên vẫn cảm thấy trong lòng có nỗi bất an nên ông tìm đường qua Trung Hoa học hỏi thêm.
Ông
đi khắp Trung Hoa, dừng chân ở các thiền viện nổi tiếng,
tu tập dưới sự dẫn dắt của rất nhiều vị thầy nhưng
vẫn chưa hoàn toàn thỏa mãn cho đến khi ông gặp Thiền sư
Như Tịnh (Nyojo) thuộc dòng Tào Động chỉ cho ông phương
pháp Chỉ Quán Đả Tọa (Shikan – Taza), một hình thức tọa
thiền không tham công án cũng không theo dõi hơi thở. Ông chăm
chỉ thực hành phương pháp này ngày đêm không mệt mỏi.
Một hôm trong buổi thiền tập, Như Tịnh bắt gặp một vị
tăng đang ngủ gật, ông bèn quở trách vị này không hết
lòng cố gắng rồi quay qua tăng chúng trong thiền đường,
khuyên: «Các ông phải dùng tất cả sức mạnh của mình,
ngay cả hy sinh mạng sống nữa, muốn giác ngộ hoàn toàn,
các ông phải xả bỏ thân tâm». Khi nghe đến cuối câu này,
Đạo Nguyên bỗng liễu ngộ. Ông cảm thấy trong lòng sảng
khoái, hoan hỉ lạ thường; bao thắc mắc, các nỗi bất an
đều tiêu tan cả. Hôm sau, ông bước đến phòng thầy đốt
một nén nhang và quì lạy. Như Tịnh vốn đã biết rõ căn
cơ Đạo Nguyên, nay nhìn thấy học trò mình đã đại ngộ
qua cách đi đứng, quì lạy nên giả vờ hỏi: «Tại sao con
lại thắp nhang?» Đạo Nguyên đáp:«Kính thưa thầy, con đã
xả bỏ thân tâm». Như Tịnh bèn lập lại: «Con đã xả bỏ
thân tâm. Thân tâm thực đã xả bỏ». Đạo Nguyên bèn trách:
«Xin thầy đừng ấn chứng cho con một cách dễ dàng như vậy».
Như Tịnh thản nhiên: «Ta có ấn chứng dễ dàng thế đâu».
Đạo Nguyên lắc đầu: «Xin thầy chỉ cho con thầy không ấn
chứng dễ dàng». Như Tịnh đáp: «Đây là xả bỏ thân tâm».
Đạo Nguyên cảm động quì sụp xuống lạy thầy một lần
nữa. Như Tịnh hài lòng gật đầu và nói: «Đó là xả bỏ
cái xả bỏ». Mặc dù đã được thầy ấn chứng nhưng
Đạo Nguyên vẫn tiếp tục tu học với Như Tịnh thêm hai
năm nữa trước khi từ giã thầy lên đường về nước.
Tuy
được coi là người đã mang giáo lý Tào Động từ Trung Hoa
về truyền bá tại Nhật nhưng thật ra Đạo Nguyên không hề
có ý định thành lập môn phái. Nếu nghiên cứu kỹ các bài
giảng của ông, người ta thấy ông không hề bị ràng buộc
vào giáo lý Tào Động. Ông đã sử dụng nhiều phương pháp
khác nhau, và nếu cần, sẵn sàng vay mượn phương pháp của
các dòng khác như Lâm Tế, Hoàng Bá, Ngưu Đầu. Ông chủ trương
«tùy bệnh cho thuốc», tùy căn cơ học trò mà giảng dạy.
Ông cho rằng người tu thiền có thể tạm chia ra làm bốn
loại. Loại thứ nhất là những người không có lòng tin tưởng
sâu xa nhưng nhờ duyên nghiệp mà đến với thiền. Loại thứ
hai là những người chỉ mong nhờ tu thiền mà cải thiện
sức khỏe, cả thể xác lẫn tinh thần. Loại thứ ba là những
người có lòng tin, muốn đi theo con đường của đức Phật,
và loại thứ tư là những người không những đã có lòng
tin mà còn có tinh thần dũng mãnh, quyết tâm thực hiện chân
ngã của mình, để đạt đến giác ngộ giải thoát. Tùy học
trò thuộc loại nào mà ông giảng dạy cho họ phương pháp
tọa thiền nào thích hợp nhất cho từng người.
Đạo
Nguyên là một trong những thiền sư siêu việt nhất của Nhật
Bản. Ông dạy đạo một cách mãnh liệt nhất bằng chính
thái độ sống của mình. Ông viết bộ Chánh pháp nhãn tạng
(Shobogenzo) đề cập quan niệm sống, từ những việc nhỏ
nhặt, giản dị nhất như cách thực hiện phương pháp vệ
sinh trong tu viện đến những quan niệm lớn lao, trừu tượng
hơn như sự tương quan giữa con người với thiên nhiên, vũ
trụ. Khi được triều đình mời vào giảng dạy, ông hăng
say cổ súy việc tu tập thiền định tại đây. Khi thấy những
người cầm quyền chỉ coi thiền như một thứ giải trí,
ông lập tức bỏ đi và than: «Phật pháp là thực hành, không
phải để nói suông». Vào lúc đó, phần lớn các tăng sĩ
đều dựa vào thế lực của triều đình, việc được mời
đến giảng dạy cho vua chúa là một vinh dự rất lớn, có
thể đưa đến việc triều đình cấp ruộng nương, đất
đai để lập tu viện. Thái độ bất khuất, thẳng thắn của
ông đã khiến cho các tu viện lúc đó ngần ngại không dám
chứa chấp ông. Một số tăng sĩ còn lên tiếng chỉ trích
ông nữa nhưng người ta càng chỉ trích ông bao nhiêu, danh
tiếng của ông lại càng nổi lên như cồn bấy nhiêu. Ông
đến tỉnh Echizen, đích thân quyên góp tiền bạc của dân
chúng để dựng một cảnh chùa riêng, không cần đến sự
giúp đỡ của triều đình. Số người kéo đến xin tu học
với ông rất đông. Ông thường nói: «Đừng chờ lúc khát
mới đào giếng, đừng chờ lúc già mới học đạo, mà phải
nỗ lực tinh tấn tu hành ngay trong lúc này. Nếu kiếp này
không ngộ thì còn chờ đến kiếp nào?» Thấy uy tín của
ông mỗi ngày một lớn, triều đình cho người cầm chứng
thư đến phủ dụ, trong thư hứa sẽ cấp rất nhiều đất
đai, ruộng nương cho ông nhưng ông từ chối. Nhờ thế danh
tiếng của ông lại càng nổi hơn, số người kéo đến xin
xuất gia với ông rất đông nhưng ông nói: «Không phải vào
chùa mới là tu mà phải biết tu trong mọi hoàn cảnh». Cũng
như Vinh Tây, Đạo Nguyên chủ trương thiền phải được thể
hiện ngay trong đời sống hàng ngày và trong kinh nghiệm cá
nhân. Khi sứ quân Tokiyori hỏi ông có cách nào giảng về thiền
một cách thật ngắn và thật dễ hiểu không, ông đã trả
lời: «Đi, đứng, nằm, ngồi đều là thiền cả». Có thể
nói nhờ Đạo Nguyên mà sự giản dị, thanh khiết và thành
thật đã ảnh hưởng rất nhiêu đến người dân xứ này.
Ngày
nay một số người thường phân biệt phương pháp giảng dạy
giữa hai dòng Tào Động và Lâm Tế. Họ cho rằng Tào Động
chú trọng về tọa thiền trong khi Lâm Tế chủ trương tham
công an. Thật ra cả hai phái đều chú trọng đến sự tọa
thiền cũng như tham công án. Tổ Đạo Nguyên trước khi qua
Trung Hoa đã từng tu học với Tổ Vinh Tây, đã từng tham công
án trong tám năm và được ấn chứng bởi các thiền sư Lâm
Tế. Sau khi học được phương pháp Chỉ Quán Đả Tọa của
phái Tào Động tại Trung Hoa, ông đã trở về Nhật giảng
dạy cho các môn đệ của mình nhưng ông đã mang theo bộ Bích
Nham Lục, gồm một trăm công án làm tài liệu giảng dạy
thêm. Ngoài ra ít lâu sau ông còn soạn thêm cuốn Niêm bình
tam bách tắc (Nempyo Sambyaku Soku) gồm ba trăm công án nữa để
làm sáng tỏ phương pháp giảng dạy của mình. Ngay trong bộ
sách Chánh pháp nhãn tạng của ông cũng chứa đựng rất nhiều
công án, do đó không thể nói phái Tào Động chỉ chú trọng
đến tọa thiền mà thôi. Có lẽ vì phương pháp Chỉ Quán
Đả Tọa là một phương pháp rất cao, thuộc Tối Thượng
Thiền (Saijojo), những kẻ thiếu nhiệt tâm khó lòng tu tập
nên các thiền sư dòng Tào Động đã phương tiện dẫn dắt
người mới nhập môn tập đếm hơi thở (sổ tức) để cho
tâm được hợp nhất, sau đó họ giảng dạy cách tham công
án để phá tung các vướng mắc của lý trí, tư tưởng, quan
niệm, thành kiến, và sau cùng mới dạy Chỉ Quán Đả Tọa
để kiến tánh.
Chỉ
Quán Đả Tọa (Shikan Taza) là một phương pháp thực hành của
phái Tào Động mà tổ Đạo Nguyên đã mang từ Trung Hoa về.
Đây là cách tọa thiền không đếm hơi thở cũng như không
tham công án, mà chỉ tập trung nỗ lực vào việc ngồi mà
thôi (đả tọa). Dĩ nhiên điều này rất khó vì tâm dễ bị
xao lãng nếu không được tập trung vào sự đếm hơi thở
hay vào công án. Đả tọa là cách ngồi sao cho thật ung dung,
không vội vã, ngồi thoải mái vững vàng như núi và linh mẫn
như nước. Nói một cách khác, đó là một tâm trạng tập
trung cao độ nhưng không quá căng thẳng và dĩ nhiên không
giải đãi. Tổ Đạo Nguyên đã diễn tả tâm trạng này như
sau: «Đó là tâm trạng của một kiếm sĩ đang thủ thế trước
một địch thủ lợi hại, ông ta phải hết sức đề cao cảnh
giác, không ngừng theo dõi từng bước đi, từng cử động
nhỏ của đối thủ. Mỗi người đều chuẩn bị xuất chiêu
và sự thiếu cảnh giác, dù chỉ trong giây phút thôi, cũng
đem lại cái chết. Trong lúc đó có một đám đông người
tụ tập theo dõi cuộc đấu kiếm. Dĩ nhiên vì mắt không
mù nên kiếm sĩ nhìn thấy họ rất rõ; vì tai không điếc
nên kiếm sĩ nghe rõ những lời khen chê của họ, nhưng ông
ta phải biết làm chủ tâm mình, không để ngoại cảnh chi
phối dù chỉ trong phút chốc, vì sai một giây thôi cũng đủ
mất mạng rồi. Do đó một kiếm sĩ phải biết sử dụng
kiếm một cách ung dung, không quá gắng sức, chỉ khi cần
thiết mới nỗ lực xuất chiêu thôi. Chỉ Quán Đả Tọa là
thế đó. Lúc mới tập ai cũng gắng sức và căng thẳng nhưng
khi công phu đã chín muồi thì sự căng thẳng từ từ biến
đi và thay bằng sự ung dung thoải mái, dĩ nhiên vẫn có sự
chú tâm đầy đủ. Giống như bực kiếm sư sử dụng kiếm
không hề gắng sức, không hề suy tính chiêu thức vì kiếm
và người đã là một, thân và tâm đã nhất như thì Chỉ
Quán Đả Tọa cũng như thế, không còn phương tiện, không
còn cứu cánh mà tất cả chỉ là một. Do đó chư Phật quá
khứ cũng như vị lai đều thực hành phương pháp này vì nó
biểu lộ sự sống tuyệt đối, sự sống trong các hình thức
tinh khiết nhất. Nó không dính dáng gì đến việc phải nỗ
lực, cố gắng để đạt ngộ giải thoát hay bất cứ một
đối tượng nào khác. Nó hoàn toàn vô cầu, vô niệm. Thực
hành thiền như thế chính là thể hiện Chân tánh không hề
ô nhiễm của mình và đó chính là Thiền Tối Thượng Thừa
».
Vì
chùa Chuoji chỉ mở các khóa tu thiền vào lúc cuối tuần nên
một người bạn đã nói với tôi rằng người ta không thể
tiến bộ gì nhiều nếu chỉ tu một cách «tài tử» vào lúc
cuối tuần như vậy. Theo bà, muốn tiến nhanh hơn, người
ta cần phải tham dự những tuần lễ Nhiếp Tâm (Zazen Sessin)
vì trong tuần lễ này, thiền sinh phải nỗ lực công phu, ngày
cũng như đêm, vượt qua những trở ngại để chứng ngộ.
Tôi được biết tại Maruyama có một thiền viện thuộc dòng
Lâm Tế, thường mở những tuần lễ nhiếp tâm mỗi năm hai
lần. Trong tuần lễ này, thiền sinh nỗ lực tham cứu công
án và được Thiền sư Joten, một trong những thiền sư nổi
tiếng của phái Lâm Tế lúc đó, hướng dẫn. Có ba cách tu
tập : Thính tham (Sosan) là những buổi giảng chung mà các thiền
sinh phải tham dự để nghe các thiền sư dạy về phương pháp
tu tập. Độc tham (Dokusan) là sau khi nỗ lực tu tập, thiền
sinh được đưa đến gặp riêng các thiền sư vào những giờ
phút qui định trước, để trình bày kiến giải của mình
cho thầy nghe. Đặc tham (Naisan) là bất cứ lúc nào học trò
cần trình bày kiến giải hay có những nghi tình, thắc mắc
khẩn cấp cần phải vào gặp riêng thầy vào những giờ phút
không qui định trước. Mùa thu năm ấy, tôi ghi tên tham dự
tuần lễ nhiếp tâm tại chùa Zuryuji thuộc tình Maruyama.
Đó là một ngôi chùa cổ nằm ở ngoại ô thành phố, mái phủ đầy rong rêu, trước cổng có treo một tấm bảng gỗ nét chữ đã phai mờ, phải nhìn kỹ mới thấy được chữ « Zuryuji ». Thiền đường trần thiết giản dị với một tượng Phật bằng gỗ, nét khắc đơn sơ một mạc, trên vách có một bức tranh lớn vẽ tổ Bồ Đề Đạt Ma đang quảy chiếc dép đi về phương tây. Quanh vách là những bục gỗ được đóng cao lên để thiền sinh tọa thiền. Chúng tôi được vị tri khách tăng chỉ dẫn cẩn thận về cách thức đi đứng, sinh hoạt trong tuần lễ nhiếp tâm:
- Quí vị nên biết, đây là một cơ hội hiếm có mà trong đó
quí vị sẽ cố gắng để đạt đến giác ngộ (Satori). Thời
gian sắp đến rất quan trọng và đòi hỏi nỗ lực phi thường,
do đó tôi yêu cầu quí vị hãy nghỉ ngơi sớm để sáng mai
khi khóa nhiếp tâm bắt đầu, quí vị sẽ có đủ sức theo
đuổi. Nếu quí vị không cố gắng trong khóa tu này thì quí
vị còn chờ đến bao giờ? Trong tuần lễ này, tất cả mọi
người phải tuyệt đối giữ im lặng, không được nói chuyện
hay gây tiếng động, làm phiền người khác. Thời khóa tu
tập đã được ấn định, giờ giấc ăn ngủ, nghỉ ngơi
đều có ghi rõ trong lịch trình tu học và sẽ có chuông báo,
quí vị phải tuyệt đối tuân lệnh những vị tăng phụ trách...
Khóa Nhiếp Tâm (Zazen Sassin) bắt đầu từ sáng sớm với nghi thức phổ thông trước khi chuyển qua phần thính tham (Sosan). Thiền sư Joten, người hướng dẫn khóa tu, là một vị tăng có nét mặt oai nghi và nghiêm khắc. Ông im lặng chờ mọi người an tọa rồi mới đưa mắt nhìn quanh thiền đường như để nhận diện từng người một trước khi lên tiếng :
- Trong khóa tu này quí vị phải cố gắng tìm hiểu về thiền. Có lẽ quí vị đã từng nghe, từng đọc, từng đàm luận về thiền rồi nhưng cái thứ thiền trên sách vở, trên đầu môi chót lưỡi đó chẳng có ích lợi gì cho quí vị cả. Càng nói nhiều về thiền, quí vị càng dễ đắm đuối. Càng nghe nhiều về thiền, quí vị càng thêm nhức óc nếu quí vị không thực sự tự mình cố gắng tìm hiểu xem thiền là gì. Người ta không thể hiểu Phật pháp qua kiến văn quảng bác hay các lý luận cao siêu được. Nếu lý luận có thể giải thích được thì đó chỉ là một mớ kiến thức chứ chắng phải Phật pháp. Nếu quí vị không nhất quyết một lòng tu tập thì chẳng bao giờ quí vị có thể giải thoát được.
Ông im lặng một lúc như để lời nói ăn sâu vào tâm thức mọi người rồi mới tiếp tục :
- Trong tuần lễ Nhiếp tâm này, chúng ta sẽ bắt đầu
bằng công án «Vô» của Triệu Châu như sau: Một tăng sĩ
đến gặp Triệu Châu và hỏi: «Thưa thầy, con chó có Phật
tánh không?» Triệu Châu trả lời: «Vô». Bây giờ quí vị
hãy chuyên tâm vào chữ «Vô» này và tìm hiểu xem ý nghĩa
của nó như thế nào. Dĩ nhiên nghĩa đen của nó là «không»
nhưng thực ra lời giải đáp của Triệu Châu không nằm ở
chỗ đó. Quí vị phải cố gắng tham cứu công án để tìm
ra cái cốt tủy của chữ “Vô” này. Quí vị sẽ thấy rằng
mọi lý luận, phân tích bằng lý trí đều vô hiệu vì ý
nghĩa đích thực của nó không thể tìm kiếm được bằng
lý trí. Quí vị hãy xếp bằng, thở hít thật đều đặn
và thầm đọc chữ «Vô» ở trong tâm. Hãy cố gắng tập
trung mọi năng lực trong người vào chữ «Vô» này, đừng
nghĩ đến ý nghĩa của nó, đừng tìm hiểu bằng lý luận,
hãy tập trung nỗ lực để trở thành một với nó đã. Chỉ
khi nào hòa nhập được với «Vô» rồi thì quí vị mới
bắt đầu tự hỏi : «Vô là gì hay nó có thể là cái gì?»
và sau đó tập trung mọi năng lực trong người vào câu hỏi
đó cho đến khi nó bùng vỡ ra và từ đó mọi sự sẽ tự
nó giải quyết. Khi đó quí vị sẽ vào độc tham với tôi
để chứng minh một cách đích thực rằng quí vị đã hiểu
«Vô» là gì. Trong khi tu tập, điều quan trọng nhất là quí
vị phải giữ công án này trong tâm, ngày cũng như đêm, sáng
cũng như tối, đi, đứng, nằm, ngồi đều phải chú tâm nơi
công án, không được nghĩ bất cứ một điều gì khác. Phải
sử dụng tất cả mọi năng lực trong người để giữ nó
trong tâm, tuyệt đối không được xao lãng vì một phút ngập
ngừng là hỏng hết công phu rồi. Chỉ một giây lơ đễnh
quí vị có thể đi xa cả ngàn dậm, do đó trong việc tham
công án, quí vị phải hết sức đề cao cảnh giác. Phải
biết gạt bỏ mọi vọng niệm mà chỉ chuyên nhất vào chữ
«Vô» mà thôi.
Một tiếng chuông vang lên báo hiệu phần thính tham đã chấm dứt. Các thí sinh xếp bằng quay mặt vào vách và bắt đầu việc tham công án. Vì đã từng tọa thiền từ trước nên tôi cảm thấy thoải mái ngay với cách ngồi này nhưng không phải ai cũng như vậy. Nhiều người không quen cứ phải thay đổi cách ngồi, co chân duỗi tay, gây trở ngại không ít cho việc tập trung của người khác. Sau khi hơi thỏ đã điều hòa, tôi bắt đầu tập trung tư tưởng vào công án. Vì đây là lần đầu tham công án nên trí óc của tôi chưa thuần thục, nó cứ xoay chuyển tìm đủ mọi cách để giải công án này qua sự suy luận quen thuộc của nó nhưng vì đã được cảnh cáo trước nên tôi cố gắng loại bỏ những tư tưởng xáo trộn này. Thoạt nghe thì tưởng dễ nhưng thật ra đâu là việc không dễ chút nào, tôi cứ phải phấn đấu để loại bỏ những lý luận này mãi nên chỉ một lúc sau mồ hôi của tôi đã toát ra như tắm. Bình thường tôi có thể ngồi thiền khá lâu, nhưng lần này chỉ khoảng tàn một nén nhang tôi đã cảm thấy mệt mỏi vô cùng. Tôi cố gắng tập trung định lực vào chữ «Vô» nhưng không hiểu sao đầu óc của tôi cứ muốn nổ tung lên. Mọi ngày khả năng tập trung của tôi rất mạnh, nhưng lần này nó không theo mệnh lệnh của tôi nữa. Hơi thở của tôi tự nhiên tán loạn, đầu óc của tôi trở nên mơ hồ. Đúng vào lúc tôi cảm thấy gần như không kiểm soát nổi thì có tiếng gió rít ngang tai và chiếc Tỉnh Thức Côn bằng gỗ đã đập mạnh vào lưng tôi. Tiếng vị tăng kiểm soát (Godo) vang lên :
- Hãy cố gắng tập trung, đừng tách rời công án dù chỉ một thoáng giây.
Lạ
lùng thay, cái đánh bằng Tỉnh Thức Côn có một mãnh lực
kỳ lạ làm tôi như thoát khỏi cơn mê. Tôi vội ngồi thẳng
người lên, hít một hơi dài để lấy sức rồi tiếp tục
tập trung tư tưởng vào chữ «Vô». Về sau này tôi nghe nhiều
người phàn nàn về việc bị đánh bằng chiếc gậy này khi
họ ngủ gật hay xao lãng tâm thân, có người đã tỏ ra bất
mãn khi bị đánh như vậy. Theo tôi thì đây là một phương
pháp rất hay nhằm mục đích làm thức tỉnh những năng lực
đang bị tán loạn hoặc hôn trầm khiến người tu tích cực
trong việc tu tập hơn. Một số nhà phê bình người Âu cho
việc đánh bằng Tỉnh Thức Côn là dã man, hung bạo, không
hợp với tinh thần từ bi của Phật giáo, nhưng thật ra điều
này không đúng. Tỉnh Thức Côn chỉ là cây gậy gỗ dài khoảng
một thước, một đầu dẹp trông giống như mái chèo, được
chế tạo bằng gỗ mềm nên dù có đánh mạnh cũng không thể
gây thương tích cho ai được. Nên nhớ mục đích của cây
gậy này không phải để trừng phạt mà chỉ để thức tỉnh
người đang buồn ngủ, khuyến khích kẻ đang mệt mỏi, và
cảnh tỉnh một người đang xao lãng thân tâm. Vị tăng sử
dụng Tỉnh Thức Côn thường là một người nhiều kinh nghiệm,
được huấn luyện cẩn thận để làm việc này và ông rất
ý thức mỗi khi vung gậy lên đánh chứ không hung hăng gây
bạo hành như nhiều người thường nghĩ. Thông thường người
bị đánh chắp tay giơ lên để tỏ lòng biết ơn và vị tăng
đi kiểm soát cũng cúi đầu đáp lễ trong tinh thần tương
thân tương kính.
Một tiếng chuông vang lên báo hiệu buổi thiền tập đầu tiên đã chấm dứt, tôi nghe có nhiều tiếng thở phào nhẹ nhõm. Theo sự hướng dẫn của vị tăng, mỗi người thong thả xoa nắn chân tay cho đỡ mỏi một lúc rồi sắp hàng để đi kinh hành (Kihin) quanh thiền đường. Sau buổi kinh hành, chúng tôi được nghỉ ngơi khoảng nửa giờ trước khi vào thiền đường tiếp tục tham cứu công án. Vì là tuần lễ Nhiếp Tâm nên mỗi ngày có tất cả bảy buổi thiền tập như vậy từ sáng đến khuya, trong khi các khóa thiền tập khác thường chỉ có khoảng ba hay bốn buổi thiền tập là nhiều. Ngoài các thời khóa công phu, mọi người được nghỉ ngơi, ăn uống hay tắm rửa nhưng họ được căn dặn phải giữ tuyệt đối yên lặng và chú tâm vào công án. Trong ngày đầu đa số chưa quen nên ai nấy đều mệt lả nhưng bước sang ngày thứ hai, tôi thấy nhiều người đã cố gắng tu tập một cách kiên trì và đến ngày thứ ba thì thiền sinh chia làm hai nhóm rõ rệt, một nhóm chăm chỉ gắng sức tham công án bất kể mệt mỏi và một nhóm chỉ cố gắng làm sao để có thể theo kịp các thời khóa mà thôi. Về phần tôi tuy không gặp khó khăn trong tư thế ngồi nhưng lại gặp trở ngại trong việc tham công án, hàng trăm ý tưởng kỳ lạ cứ nảy sinh trong đầu óc khiến nhiều lúc tôi cảm thấy mệt mỏi, chỉ muốn bỏ cuộc. Đây là một sự lạ vì tôi là một người đã có khả năng tập trung khá cao nhưng có lẽ cũng chưa quen với lối tọa thiền tham công án này. Việc đưa ra một đề tài đã kích thích khả năng lý luận của tôi, khiến đầu óc tôi cứ khổ công phấn đấu để loại bỏ các tạp niệm này. Sự tranh chấp giữa các ý niệm lăng xăng khiến tôi cảm thấy vô cùng mệt mỏi, nhưng lần nào cũng thế, mỗi khi sắp sửa xao lãng thì vị tăng cầm tỉnh thức côn đã bước đến đập nhẹ vào vai tôi :
- Bà phải cố gắng chiến đấu mãnh liệt thêm nữa.
Tôi thầm nghĩ tại sao tọa thiền lại là một sự chiến đấu? Người ta há chẳng nói thiền là ngồi yên tĩnh hay sao? Tôi đã từng ngồi yên tĩnh lặng được kia mà, tại sao trong lối tu này lại phải chiến đấu như thế? Đang mải mê suy nghĩ thì vị tăng bước lại ghé sát vào tai tôi nói lớn:
- Đừng mất thì giờ thắc mắc làm gì, hãy tập trung vào «Vô» thôi. Đó là điều duy nhất cần làm lúc này, chỉ vậy thôi.
Cứ
thế mỗi ngày chúng tôi tiếp tục tham công án như vậy nên
đầu óc của tôi mỗi lúc một căng thẳng, hơi thở của
tôi không còn nhẹ nhàng thoải mái mà trở nên hổn hển gấp
rút khác thường. Tuy nhiên tôi không phải là người duy nhất
vì hầu như ai nấy đều gặp khó khăn tương tự. Khắp thiền
đường đầy những hơi thở dồn dập nặng nề, thỉnh thoảng
lại có người kêu lớn «Vô», «Vô» như mê sảng. Vị tăng
cầm tỉnh thức côn càng ngày càng mệt nhọc hơn trước,
ông đi hết chỗ này đến chỗ khác để nhắc nhở và tùy
hoàn cảnh mà ông nhắc mỗi người một cách khác nhau. Có
khi ông nói nhẹ nhàng nhưng cũng có khi ông quát lớn và đến
những ngày cuối thì gần như ai nấy đều mệt lả, không
thể kiểm soát được nữa. Thiền đường trở nên một «bãi
chiến trường» với những tiếng kêu gần như tuyệt vọng:
«Vô», «Vô»... Ai nấy đều cố gắng giữ tư thế để tránh
khỏi gục xuống sàn vì kiệt sức. Tôi cố gắng tập trung
tư tưởng nhưng không thể bám víu vào chữ «Vô» được
vì hầu như nó và tôi vẫn còn một khoảng cách kỳ lạ nào
đó. Tôi nắm chặt hai tay lại, vận dụng tất cả sức bình
sinh để giữ công án trong tâm nhưng càng cố gắng bao nhiêu
nó càng tuột ra bấy nhiêu. Mồ hôi toát ra như tắm, tôi nghiến
chặt răng lại nhưng năng lực trong người tôi dường như
biến đâu mất hết. Tôi cảm thấy như đang rơi vào một
trạng thái kỳ lạ, không còn kiểm soát được mình nữa.
Một tiếng chuông vang lên báo hiệu buổi tập thiền đã chấm dứt, mọi người vội vã xoa bóp chân tay và chuẩn bị cho phần độc tham (Dokusan). Vì là lần đầu còn bỡ ngỡ, tôi không biết phải làm gì hay thu xếp để trình bày sự hiểu biết của mình như thế nào. Chúng tôi đi dọc theo hành lang ra hậu liêu rồi chắp tay chờ đến lượt vào độc tham với thiền sư Joten. Tôi chẳng biết mình đã chờ đợi bao lâu vì lúc đó đầu óc tôi hết sức mệt mỏi vì tập trung quá độ, thân thể kiệt quệ thiếu điều đứng không nổi nữa. Vị tăng phụ trách ra hiệu cho tôi bước vào một căn phòng nhỏ ở cuối dãy. Dưới ánh nến leo lét, tôi thấy thiền sư Joten đang ngồi yên lặng chờ đợi. Lúc đó tôi không biết phải làm gì hay tuân theo một nghi thức nào. Bao nhiêu điều được dặn dò trước khi vào độc tham tôi đều quên hết nhưng dường như có một động năng nào đó thúc giục, tôi thu hết can đảm bước thẳng đến chỗ thiền sư Joten ngồi và nói lớn:
- Bạch thầy, tâm chính là đạo.
Vừa thốt xong câu đó tôi bỗng giật mình không hiểu tại sao mình lại nói như vậy. Đó không phải là một câu nói ngẫu nhiên, nhưng là điều mà tôi đã cảm nhận được khi thực hành những nghi thức tẩy uế bằng nước lạnh (Misogi) ở Hokkaido. Tôi nghĩ rằng đó là một kinh nghiệm về sự giác ngộ (Satori) qua công phu tu tập nhiều năm mà tôi vẫn ấp ủ trong đáy lòng nhưng chưa có dịp bày tỏ. Không hiểu sao trong giây phút bất ngờ, tôi lại thốt ra như vậy. Vừa nghe tôi nói thế, thiền sư Joten đã nghiêm nghị trả lời ngay:
- Đó là một lý thuyết sai lầm.
Câu nói lạnh lùng làm tôi chưng hửng như vừa bị dội một gáo nước lạnh lên người. Có thể như vậy sao? Tôi toan cãi rằng đó không phải là một lý thuyết nhưng là sự cảm nhận, trực ngộ qua công phu tu tập từ trước của tôi nhưng trước ánh mắt nghiêm trang của thiền sư Joten, không hiểu sao tôi lại giữ thái độ im lặng. Thiền sư chăm chú nhìn tôi như chờ đợi phản ứng nhưng không thấy tôi nói gì, ông khoát tay ra hiệu cho tôi lui ra. Tôi đã thất bại trong việc trình bày kiến giải của mình về công án «Vô». Tôi bước trở về thiền đường trong một tâm trạng chán nản và tuyệt vọng cùng cực. Tôi không biết phải làm gì hay thế nào nữa đây. Công phu tu tập và sự cảm nhận vẫn ấp ủ trong lòng từ trước đến nay bỗng dưng bị gạt bỏ một cách phũ phàng không thương tiếc. Tại sao thiền sư Joten không an ủi hay ban cho tôi một câu nói khích lệ hơn? Phải chăng thiền sư Joten, giống vị lão sư của Thần Đạo chỉ là những người ích kỷ, lạnh lùng đầy những mưu toan, tính toán? Tôi cảm thấy mệt mỏi rã rời, mọi sinh lực trong người gần như mất hết. Tôi cố gắng không lộ vẻ xúc động, bước về chỗ ngồi của mình và giữ im lặng nhưng không hiểu sao công án «Vô» lại tiếp tục ám ảnh đầu óc tôi. Hình như có một cái gì đang phát triển trong tôi, một cảm giác rất vi tế mà tôi không thể hiểu. Tuần lễ nhiếp tâm chấm dứt với một khóa lễ phổ thông. Sau khóa lễ, thiền sư Joten kết thúc bằng một buổi nói chuyện ngắn:
- Trong tuần lễ nhiếp tâm này, một số lớn quí vị chưa nắm vững được ý nghĩa của công án «Vô». Có lẽ quí vị chưa cố gắng hết sức, chưa một lòng một dạ để sống chết với công án này. Một vài người trong quí vị đã tỏ ra hài lòng với kinh nghiệm nhỏ nhặt đạt được trong lúc tu tập nhưng đó chỉ là những chướng ngại mà thôi. Tu thiền phải biết đi đến chung cuộc, phải đạt chứng ngộ mới được chứ không thể có việc đi nửa chừng. Một là quí vị ngộ, hai là không ngộ chứ không thể lưng chừng ở giữa được. Do đó quí vị phải biết chuyên tâm vào công án, dù các vọng niệm nổi lên cứ mặc nó mà chỉ chú tâm vào công án thôi. Một số quí vị đã mắc lỗi lầm thông thường là cố gắng đè nén các vọng niệm đó xuống, quí vị sẽ không thể thành công như vậy được. Chư tổ đã dạy «Cố đạt đến cái tĩnh bằng cách dẹp cái động thì cái tĩnh lại càng quấy động hơn nữa, càng nỗ lực đè nén cái động bao nhiêu thì kết quả lại càng ngược lại bấy nhiêu». Cái «Vô» của Triệu Châu đối với người chưa quán triệt là một bức tường dày bằng sắt nung đỏ, không ai dám đâm đầu vào đó nhưng nếu dũng mãnh, cố gắng tham công án ngày này qua ngày khác không một phút ngưng nghỉ, thì quí vị sẽ thấy nó chẳng có gì ghê gớm cả...
Vừa
nghe đến đó tôi bừng tỉnh và nghĩ rằng có lẽ thiền sư
Joten đã nói riêng cho tôi về phương pháp tham công án. Suốt
mấy ngày qua tôi chẳng đã nỗ lực đè nén những vọng niệm
xuống hay sao, có lẽ vì thế nên tôi rất mệt, nhưng hiện
nay tôi đã hiểu và biết đâu tôi chẳng chứng ngô được
trong một thời gian ngắn. Tự nhiên tôi nghĩ việc gì phải
chờ đợi đến khóa nhiếp tâm sang năm như vậy, tôi sẽ
về nhà tập trung năng lực để giải công án này rồi tới
độc tham với thiền sư Joten để vị này ấn chứng cho. Tôi
rời chùa Zuiryuji với tâm trạng phấn khởi lạ lùng và chuẩn
bị ngay một thời khóa công phu tu tập riêng cho mình. Tôi
nghĩ một khi đã nắm được bí quyết thì thời gian chứng
ngộ chẳng còn bao lâu, chắc chỉ vài tuần hay vài tháng là
nhiều. Để tham cứu công án một cách yên tĩnh, không bị
ai quấy phá, tôi quyết định tìm lên một hang động trên
núi để tĩnh tu. Gia đình tôi rất ngạc nhiên và khó chịu.
Đứa con rể phàn nàn: «Mẹ đã già rồi, sao không tu ở nhà
cho thoải mái, bỏ lên núi làm gì cho mệt! Không chừng gặp
loài chồn hoang rồi trở lại việc lên đồng nhập cốt thì
mệt lắm». Tôi biết thằng con rể vẫn nghi ngờ động năng
tu hành của tôi nhưng bất chấp mọi lời khuyên cản, tôi
nhất định cắt bỏ mọi ràng buộc với gia đình để tìm
đạo. Tôi thương lượng với một người tiều phu mua lại
căn lều đổ nát của ông trên núi mà ông không dùng nữa.
Đó là một căn lều cỏ dột nát, bẩn thỉu, chỉ trơ trụi
một tấm mền rách và một cái bếp bằng đất thấp lè tè
nhưng tôi thầm nghĩ: «Đức Phật ngày xưa chỉ có độc một
tấm bồ đoàn, ngồi dưới gốc cây bồ đề mà thành đạo
được thì một túp lều rách với một cái bếp cũ còn tiện
nghi chán». Tôi lập thời khóa công phu để tọa thiền ba
lần mỗi ngày, thời giờ còn lại tôi vào rừng nhặt củi
mang xuống chợ bán, với số tiền bán củi tôi có thể mua
thực phẩm và không phải nhờ cậy gì đến gia đình nữa.
Lúc
đầu tôi nghĩ mình có thể chứng ngộ trong vòng một tháng
nhưng một tháng trôi qua mà tôi vẫn chưa tiến bộ được
chút nào. Tôi cố gắng nỗ lực nhiều hơn nữa, thay vì mỗi
ngày ba buổi tọa thiền, tôi gia tăng lên bốn buổi rồi năm
buổi. Thời gian tiếp tục trôi, một năm, hai năm đã qua mà
tôi vẫn chưa thấy có sự thay đổi gì. Tôi có ý định trở
lại tham dự khóa nhiếp tâm để hỏi thiền sư Joten cho ra
lẽ nhưng không hiểu sao tôi lại nghĩ: «Mình đã từng tham
dự khóa nhiếp tâm rồi, cũng chẳng có gì lạ, có mỗi công
án «Vô» mà giải chưa xong thì tham dự thêm mấy khóa nữa
cũng chẳng lợi lộc gì». Tôi nhất định không đến Zuiryuji
mà chờ đến khi tự mình chứng ngộ được sẽ đến độc
tham với thiền sư Joten. Thời gian cứ tiếp tục trôi. Thấm
thoát tôi đã tham công án được bốn năm mà vẫn không thấy
tiến bộ gì so với khi trước. Hơn lúc nào hết, tôi bắt
đầu sợ hãi và mất niềm tin. Nhiều lúc tuyệt vọng, tôi
đã nghĩ đến việc tìm cái chết. Sau cùng tôi tạm ngưng
việc tham công án cho đầu óc bớt căng thẳng rồi kiểm điểm
lại hành động của mình trong bốn năm qua. Tôi thấy mình
đã có cố gắng nhưng không hiểu sao vẫn không thể hòa nhập
được với «Vô». Tôi đành kết luận có lẽ nghiệp của
mình quá nặng, không thể tu hành tiến bộ được, và muốn
tiếp tục tôi phải tìm cách giải trừ các nghiệp chướng
này. Tôi không nhớ đã đọc được ở đâu một phương pháp
gọi là Lục Độ Ba La Mật (Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục,
Tinh tấn, Thiền định và Trí huệ) trong đó hạnh bố thí
đứng đầu và làm căn bản cho tất cả những Ba La Mật kia.
Để tiêu trừ túc nghiệp, người tu phải lập hạnh Bố thí
bằng việc cho đi tất cả những gì mình có như quần áo,
thực phẩm, nhà cửa, tài sản, và nếu cần cả thân thể
của mình nữa. Trong việc tu thiền, có năm chướng ngại là
tham lam, giận tức, hôn trầm, trạo cử và nghi hối. Nhờ
thực hành bố thí mà người tu diệt trừ được lòng tham
lam. Nhờ phát tâm bố thí một cách trong sạch mà người tu
sẽ nhẫn nhục, diệt trừ được sự giận tức. Nhờ phát
tâm cầu đạt đạo giải thoát mà người tu siêng năng bố
thí do đó diệt trừ được sự lười biếng, hôn trầm. Nhờ
khởi tâm trong sạch, kính trọng mọi chúng sinh, chú ý đến
hành động của mình để không tạo thêm nghiệp nữa mà người
tu diệt trừ được trạo cử. Nhờ biết bố thí như trên
mà người tu đạt được phước báu vô lượng, càng được
nhiều phước càng vững tin vào sự bố thí mà người tu diệt
trừ được nghi hối.
Biết
bố thí là căn bản cho mọi hạnh khác. Tôi bèn quyết định
thực hành bố thí qua việc chia xẻ những cái mình có với
những người chung quanh. Mặc dù sống bằng nghề nhặt củi,
lợi tức chẳng bao nhiêu nhưng tôi cố gắng ăn thật ít,
để chia xẻ thực phẩm cho những người nghèo và những đứa
trẻ thiếu ăn trong xóm. Vào lúc đó, cuộc thế chiến thứ
hai đang bước vào giai đoạn trầm trọng, hầu như mọi hoạt
động đều đổ dồn vào chiến tranh. Các hãng xưởng sản
xuất khí giới hoạt động mạnh, mọi người bị động viên
vào việc sản xuất cho chiến tranh, chỉ trừ những người
già yếu, bệnh tật hay trẻ nhỏ mà thôi. Tôi gặp Kimura,
một cựu quân nhân đã phục vụ trong mặt trận Mãn Châu
trở về. Ông này bị nội thương rất nặng thường thổ
huyết, không thể làm ăn gì được. Vợ ông lại mang bầu
sắp sinh cũng không thể đi làm. Hai vợ chồng đã bán tất
cả những gì họ có, từ đồ đạc, nhà cửa, ruộng nương
để mua thực phẩm nuôi thân và sau cùng khi không còn gì nữa,
họ gạt lệ rời bỏ căn nhà hương hỏa đã lọt vào tay
kẻ khác, cất một cái chòi nhỏ ở chân núi, sống bằng
cách đi mót rau trái ngoài ruộng để sống qua ngày. Mùa mưa
đến, ruộng ngập nước không còn rau trái để mót, họ đành
sống bằng cách đi ăn xin nhưng trong tình trạng chiến tranh,
ai ai cũng đói khổ, nên họ thường đói nhiều hơn no. Biết
rõ tình cảnh, tôi thường đến chia sẻ số thực phẩm ít
oi của mình với họ. Hôm đó khí trời giá lạnh, tôi bước
vào căn lều dột nát trơ trụi không có đồ đạc và thấy
bà Kimura đang ôm bụng nằm rên la trong ổ rơm dưới đất.
Tôi động lòng trắc ẩn nghĩ đến cái chăn bằng nỉ đã
cũ nát của mình. Dù sao cái chăn cũ cũng còn ấm hơn nằm
ổ rơm, hơn nữa bà Kimura lại sắp sinh, làm sao một đứa
bé
sơ sinh có thể chịu đựng được thời tiết lạnh cắt ruột
như thế này. Tôi nảy ý định cho bà Kimura cái chăn cũ của
mình nhưng khi trở về lều, nhìn cái chăn rách tôi lại có
ý tiếc không muốn cho. Ngay lúc đó tôi thấy rõ hạt giống
tham lam, bỏn xẻn vẫn còn ở trong tôi và quyết định: «Ta
phải cương quyết diệt trừ tính tham lam này». Tôi vơ vội
chiếc chăn rách và mấy cái áo cũ mang qua lều tặng cho bà
Kimura. Trên đường trở về tôi thấy trong lòng nhẹ nhõm,
thoải mái khác thường. Một cảm giác ấm áp lạ lùng dường
như nảy sinh trong tâm khiến tôi suýt kêu lớn: «Bây giờ
có lẽ ta sẽ đạt ngộ được rồi». Tôi vội vã xếp bằng
tập trung tư tưởng vào công án «Vô» và thầm nghĩ có lẽ
lần này mình sẽ thành công nhưng rồi một năm lại trôi
qua, tôi vẫn không thấy mình tiến bộ chút nào.
Tôi
đã khóc hết nước mắt, tôi đã thao thức nhiều đêm để
tìm hiểu về số phận hẩm hiu của mình. Tôi tự hỏi tôi
đã làm gì nên tội, tại sao công phu tu tập siêng năng như
vậy mà không đạt được kết quả nào? Không lẽ nghiệp
của tôi lại nặng đến như vậy hay sao? Tự nhiên ý định
tìm đến cái chết bỗng nảy sinh trong đầu óc hoang mang,
tuyệt vọng của tôi. Tôi lấy một sợi dây thừng treo lên
cành cây gần đó toan thắt cổ tự tử nhưng may mắn thay
khi vừa treo xong sợi dây, tôi lại nghĩ: «Nếu ta chết đi
thì sự đau khổ này có chấm dứt không? Chắc chắn là không,
nó sẽ tiếp tục theo đuổi ta qua những kiếp sau. Nghiệp
chướng đâu thể thay đổi bằng cái chết. Người ta phải
gặt hái những gì mà người ta đã gieo, không thể trốn chạy
được. Có nợ thì phải trả và phải trả cho đến hết
mới thôi. Chắc chắn trên thế gian này thiếu gì những kẻ
cũng gặp khó khăn như ta, biết đâu hoàn cảnh của họ lại
chẳng bi đát hơn ta nữa. Đi tìm cái chết chỉ là một hành
động nhất thời không giải quyết được gì hết. Giải
pháp duy nhất là phải nhẫn nhục chịu đựng để trả hết
nghiệp. Khi hết nghiệp thì chắc chắn sẽ giải thoát được.
Dù thế nào chăng nữa ta cũng phải đạt ngộ giải thoát,
nếu không được trong kiếp này thì kiếp sao hay kiếp sau
nữa». Nghĩ thế tôi bèn bỏ ý định tự tử và từ đó
trở đi, dù trong hoàn cảnh tuyệt vọng nào, không bao giờ
tôi nghĩ đến việc tìm cái chết nữa. Tôi vất bỏ sợi
dây thừng rồi thắp một nén nhang, thành tâm xin xám hối
những tội lỗi đã tạo và cương quyết phát nguyện sẽ
tu hành để đạt đạo giải thoát, bất chấp mọi khó khăn
trở ngại. Tôi không nhớ rõ mình đã làm những gì nhưng
tôi biết chắc chắn tương lai của tôi sẽ phải thay đổi
từ khi phát nguyện này. Tôi thành kính niệm hồng danh chư
Phật, xin xám hối những lỗi lầm đã phạm và tôi đã khóc
cho đến khi ngất đi lúc nào không biết.
Tôi
không biết mình mê hay tỉnh nhưng trước mắt tôi bỗng hiện
ra một làn hơi mờ đục, tụ lại thành một hình bóng vật
vờ bay lượn. Hình bóng này từ từ đông đặc lại thành
một con vật lông lá xù xì, trông như con dã nhân. Con vật
này vươn mình lên cao và cao mãi cho đến khi đầu nó đụng
vào những lớp mây đang bay trên trời. Tôi tự hỏi tại sao
lại có hiện tượng kỳ lạ như vậy. Tôi đã từng có dịp
tiếp xúc với các cõi giới vô hình nhưng điều này vượt
ra ngoài giới hạn mà tôi hiểu biết. Tôi bèn cố gắng tập
trung tư tưởng để quán xét hiện tượng này và bất ngờ
thay tôi bỗng thấy mình chính là Thái Dương Thần Nữ. Tôi
nắm rất vững quan niệm về sự giao tiếp với các thần
linh trong thiên nhiên và đã từng làm như vậy nhiều lần
trong khi hành nghề cô đồng (Miko) nhưng lần này tôi không
còn thấy mình là một dụng cụ để các vị thần nhập vào
nữa, mà trở nên là một với các thần linh. Ngay lúc đó,
tôi biết mình đang kinh nghiệm được một trạng thái đặc
biệt, tối cao của Thần Đạo: Trạng thái hợp nhất với
đấng Sáng Tạo hay Thái Dương Thần Nữ. Một sự an lạc
lạ lùng xâm chiếm trọn tâm hồn tôi. Phải chăng đây chính
là trạng thái mà lão sư vẫn thường nói đến, trạng thái
đạt đại đạo? Tôi thấy mình tan biến trong một biển ánh
sáng lạ lùng. Trước mắt tôi hàng ngàn hình ảnh kỳ lạ
đầy màu sắc hiện ra chói lọi. Phải rồi, tôi đang chiêm
ngưỡng sự tạo thiên lập địa của Thái Dương Thần Nữ.
Không ! Chính tôi là người đang sáng tạo, giữa tôi và Thái
Dương Thần Nữ không còn gì cách biệt mà là một với nhau.
Tôi thấy mình sinh hóa ra muôn loài, ra các chư thần, ra chính
tôi, chính tôi đã sinh ra tôi. Tôi đã kinh nghiệm được mình
trước khi được sinh ra. Phải chăng đó là điều mà công
án «Bộ mặt thật trước khi sinh ra» đã đề cập đến?
Trong khoảnh khắc đó, mọi sự bỗng trở nên rõ ràng hơn
bao giờ hết. Tôi reo lớn: «Ngộ rồi (Satori), ta đã chứng
ngộ rồi!» Tôi choàng dậy trong một cảm giác kỳ lạ không
thể diễn tả. Tôi thấy mình chạy nhảy chung quanh căn lều
và reo lớn như đứa trẻ được quà: «Satori! Satori! Satori!»
Tôi có cảm tưởng như toàn thế giới đang tràn ngập một
niềm vui không kể xiết và rồi tôi cười, cười mãi không
thôi.
Không bút nào có thể diễn tả được cảm giác sung sướng mà tôi đã kinh nghiệm được lúc đó. Cái thế giới đầy phiền muộn vẫn quấy phá tôi từ trước đến nay bỗng dưng thay đổi một cách bất ngờ. Tôi thấy trong người nhẹ nhõm thoải mái như vừa trút được một gánh nặng. Phải chăng tôi đã chứng ngộ? Phải chăng ngộ là như thế? Dĩ nhiên tôi muốn được ấn chứng về kinh nghiệm tâm linh này. Lúc đó vào đầu mùa đông, phải đợi đến cuối xuân mới có khóa nhiếp tâm tại Zuiryuji nhưng tôi không thể chờ đợi lâu như thế được. Tôi vội vã lấy xe lửa đi Maruyama để gặp thiền sư Joten ngay. Ngồi trên xe tôi đã thảo một bài thơ ngắn trình bày kiến giải của mình với hy vọng sẽ được thiền sư Joten ấn chứng cho. Khi xe lửa đến gần Maruyama, tôi lo lắng tự hỏi không biết thiền sư Joten có chịu tiếp tôi không? Trong các khóa nhiếp tâm, người ta có thể xin đặc tham được nhưng hiện nay không phải tuần lễ nhiếp tâm. Phần lớn các thiền sư đều tĩnh tu, không dễ gì có thể gặp các ngài nếu không có hẹn trước. May mắn thay, khi vừa đến trước cửa chùa Zuiryuji, tôi gặp thiền sư Joten đi đâu về, đang chuẩn bị mở cổng bước vào. Tôi vội vã bước đến :
- Bạch thầy, cách đây hai năm con đã từng tham dự khóa nhiếp tâm với thầy.
Thiền sư Joten nhìn tôi tỏ vẻ ngạc nhiên :
- Thế ư?
- Đúng thế. Con đã được thầy trao cho công án «Vô» nhưng lúc đó con đã không giải được.
- Thì ra thế, có lẽ bà đã thay đổi nhiều nên tôi không nhận ra...
Tôi vội vã rút bài thơ trong túi ra trao cho thiền sư Joten:
- Bạch thầy, từ đó đến nay con vẫn tiếp tục tham cứu công án và có bài thơ này, xin thầy coi qua để thẩm xét trình độ cho con.
Thiền sư Joten nhận bài thơ từ tay tôi, chăm chú đọc rồi gật đầu :
- Khá lắm! Khá lắm! Bà đã đạt được một trình độ khá cao rồi đó nhưng...
- Nhưng làm sao? Con chưa ngộ hay sao?
Thiền sư Joten ngạc nhiên nhìn tôi như không hiểu tôi vừa nói gì. Tôi hỏi dồn :
- Như vậy là thế nào? Phải làm sao mới ngộ được?
Thiền sư Joten im lặng không trả lời. Tôi vội hỏi:
- Con vẫn nghe nói phải cắt bỏ mọi tư niệm để đạt đến trình độ vô ngã, phải chăng tất cả mọi tư niệm đều là vọng hết?
- Không hẳn thế.
- Thế là sao? Nếu chỉ dẹp bỏ một số tư niệm thì làm sao người ta biết được cái nào cần giữ, cái nào cần bỏ? Làm sao người ta có thể biết được cái nào là chân cái nào là vọng? Làm sao có thể phân biệt được những tư niệm nào là đúng hay sai, thiện hay ác, xấu hay tốt?
Tôi liên tiếp hỏi hết câu này đến câu khác, dường như bao thắc mắc vẫn tích lũy trong tâm tôi từ trước đến nay bỗng được dịp tuôn ra như suối :
- Tại sao người ta cứ phải niệm chữ «Vô» mãi trong tâm, như thế có được ích gì?
- Điều đó cũng giản dị thôi. Khi muối dưa người ta thường phải nén lên hũ dưa một cái cối đá nặng để đè dưa xuống...
- À con hiểu rồi, khi người ta nhấc cái cối đá nặng đó lên thì bao nhiêu sức mạnh bị đè nén bỗng bật lên một cách bất ngờ chứ gì?
- Phải rồi, như thế đó.
Nói xong thiền sư Joten quay lưng bước vào chùa rồi tiện tay đóng luôn cánh cửa lại như không muốn cho tôi làm phiền ông nữa. Tôi dứng sững trước cánh cửa đã đóng chặt, tự hỏi: Như vậy là sao? Ông có xác nhận trình độ của tôi không? Tại sao ông lại có thái độ kỳ lạ như thế? Tại sao đang nói chuyện với tôi ông lại quay lưng bỏ đi rồi đóng cửa lại như vậy? Rõ ràng ông đã không xác nhận trình độ của tôi nhưng hình như ông cũng không phủ nhận nó, như vậy là thế nào?
Không
tìm được câu trả lời, tôi đành lủi thủi quay về với
một tâm trạng vô cùng hoang mang, chán nản.
Vài
hôm sau tôi trở lại Zuiryuji một lần nữa xin đặc tham với
thiền sư Joten nhưng người ta đã từ chối lời yêu cầu
của tôi một cách lễ phép. Cái cảm giác hân hoan sung sướng
vừa đạt được của tôi bỗng dưng tắt ngúm như ngọn đèn
trước gió. Niềm an lạc dễ chịu chợt tan rã như mây khói,
tôi lại rơi vào trạng thái dằn vặt khó chịu như cũ. Phải
chăng tôi lại đi lầm đường một lần nữa? Phải chăng
nghiệp của tôi quá nặng, không thể thoát ra được? Tôi
thấy mệt mỏi, chán nản về việc theo đuổi sự Chứng ngộ
(Satori) của mình. Tại sao có người chỉ tham dự một khóa
nhiếp tâm mà đã chứng ngộ trong khi tôi khổ công suốt mấy
năm trường mà kết quả chẳng đi đến đâu? Tôi đã tìm
đủ mọi cách để đạt ngộ mà sao kết quả cứ mịt mù
như vậy?