Nguyên tác: Journey In Search Of The Way-The Spiritual Autobiography Of Satomi Myodo
Nguyên Phong Việt dịch, Làng Văn xuất bản 1996
Khi
tôi trở lại Shikoku thì lão sư đã dọn vào một căn nhà
to tát đẹp đẽ hơn căn nhà trước, sau nhà có vườn hoa,
ao thả cá kiểng và một hòn non bộ khá lớn. Lão sư không
quan tâm gì nhiều về việc thay đổi này, ông vẫn ung dung
như thường lệ; nhưng vợ ông thì hãnh diện về căn nhà
này lắm. Cũng phải nói thêm rằng vợ lão sư là một người
đàn bà kiêu căng hợm hĩnh, hay khinh rẻ mọi người. Bà xuất
thân trong một gia đình danh giá nhưng khi bà trưởng thành
thì gia đình đã sa sút nhiều, chỉ còn dư âm tiếng tăm mà
thôi. Tuy nhiên bà vẫn tự phụ về truyền thống thế gia
vọng tộc này và luôn luôn coi thường những người xuất
thân hèn kém hơn. Bà đối xử với lão sư một cách tệ bạc,
thỉnh thoảng lại so sánh ông với những người khác địa
vị cao hay giàu có hơn. Đối với học trò của lão sư, bà
có thái độ lạnh nhạt thờ ơ, ít khi nói chuyện với ai.
Một số học trò thường gọi lén bà là “bà Socrates” vì
ngày xưa hiền triết Socrates cũng có một bà vợ rất hung
dữ, nổi tiếng trong lịch sử Hy Lạp. Người ta nói rằng
những bậc hiền triết thường không mấy khi gặp được
những người vợ tương đắc, hễ ông thiên về tinh thần
thì gặp bà vợ chỉ biết đến vật chất. Cũng có người
cho rằng chính nhờ những bà vợ hung dữ như vậy mà người
chồng mới thành công trong nghệ thuật hàm dưỡng, tự chủ
và trở nên một bậc hiền triết. Khi xưa tôi nghĩ quan niệm
đầu có lẽ đúng nhưng về sau, hiểu biết hơn, tôi thấy
giả thuyết sau có lý hơn. Tôi xin kể vì lý do nào mà tôi
lại thay đổi quan niệm như vậy.
Lúc trước đến học đạo với lão sư, tôi chỉ là một trong mấy chục học trò chuyên tĩnh tọa và học các nghi thức của Thần Đạo. Vì bận rộn học hỏi nên ít khi chúng tôi có dịp tiếp xúc với bà vợ của lão sư. Thỉnh thoảng nếu có những va chạm nhỏ thì đám học trò chúng tôi cũng rán chịu đựng rồi xầm xì với nhau về sự khó tính của bà mà thôi. Tuy nhiên lần trở lại Shikoku này sự việc xảy ra khác hẳn. Khi gặp lại lão sư, tôi nghĩ ông sẽ phải hài lòng về công phu tu tập đầy tiến bộ của tôi trong mấy năm qua nhưng trái lại, ông tỏ ra thờ ơ, chẳng hỏi han gì đến chuyện đó hết. Ông chỉ vắn tắt cho biết hiện nay ông đang cần một người giúp việc trong nhà và muốn tôi làm việc đó.
Ông nghiêm nghị:
- Hiện nay ta rất bận, chưa thể dạy riêng cho con được, nhưng
ta muốn con phụ giúp vợ ta lo việc trong nhà. Con phải tuyệt
đối vâng lời vợ ta, như thế ta mới vui lòng.
Thật không thể tưởng tượng được sự thất vọng của tôi lúc đó. Tôi lên đường trở lại Shikoku với hy vọng rằng mình sẽ được học riêng với lão sư. Tôi thầm ao ước rằng với công phu tu tập và quyền năng đặc biệt này, nếu tôi chẳng trở nên một trưởng môn đại đệ tử thì ít ra cũng được đãi ngộ xứng đáng. Chẳng bao giờ tôi lại nghĩ rằng mình biến thành một đứa ở lo quét dọn, cơm nước, hầu hạ mọi người trong nhà. Bà vợ lão sư sung sướng ra mặt khi tự nhiên có một đứa đầy tớ như tôi. Bà lập tức lên giọng sai bảo ngay để chứng tỏ quyền hành của bà:
- Satomi, đi mua cho ta hai miếng đậu phụ chiên.
- Thưa bà vâng.
- Khoan đã, ta không thích đậu phụ chiên. Ngươi mua cho ta hai miếng đậu phụ tươi vậy.
- Thưa vâng.
- Khoan đã, lúc này trời lạnh ăn đậu phụ tươi không được ngon, ngươi mua cho ta hai miếng đậu phụ nấu với nấm đông cô.
Khi trở về với bát đậu phụ nấu nấm thì bà lại đổi ý:
- Bây giờ ta không thích ăn đậu phụ nấu như vậy nữa, mi chạy ra chợ đổi lấy hai miếng đậu phụ chiên.
Suốt ngày bà sai tôi làm những việc vớ vẩn như vậy. Đã thế bà luôn luôn đổi ý, lúc thế này khi thế khác. Hễ trái ý thì bà quát tháo om sòm:
- Này Satomi, ngươi có điếc không đấy? Ta nói rõ như thế mà sao mi không hiểu?
Hoặc có khi bà lên giọng kẻ cả:
- Thật tội nghiệp, nghe nói mi xuất thân từ Hokkaido phải không? Thảo nào mi đần độn quá mất thôi. Những đứa quê mùa thất học như mi làm sao có thể khá được!
Là người bướng bỉnh, ít khi tôi chịu nhường ai nhưng không hiểu sao lần này tôi lại chịu đựng được những cơn thịnh nộ tai ác của bà vợ lão sư. Tôi nghĩ nếu lão sư căn dặn tôi phải tuyệt đối vâng lệnh thì mình phải tuân lời, chắc hẳn ông phải có chủ ý gì, biết đâu ông chẳng thử thách công phu tu tập của tôi? Tôi nghĩ nếu như vậy thời gian thử thách này chỉ kéo dài khoảng vài tuần lễ hay một tháng là nhiều nhưng tôi đã lầm: nó tiếp tục từ tháng này qua tháng khác và từ năm này qua năm khác. Lúc đầu tôi nghĩ đó là thử thách nên cắn răng chịu đựng; về sau quen đi nên tôi có thể cười thầm trước những hành động vô lý của bà nhưng theo thời gian, tôi dần dần thấy mình trở nên một người thụ động, ngu si, đần độn không phản ứng trước những lời chửi mắng vô lý đó.
- Này Satomi, con đần độn kia mau vào chùi cầu tiêu cho ta.
- Thưa bà vâng.
- Cái con ngu si kia, tại sao mi có thể để nhà bếp bẩn thỉu như vậy được. Mau lấy khăn chùi cho thật kỹ, ta không muốn thấy một hạt bụi nào dưới sàn nghe chưa?
- Thưa bà vâng.
Thời
gian trôi nhanh, thoáng một cái, tôi đã trở thành đầy tớ
cho gia đình lão sư được hơn bốn năm. Một hôm gia đình
lão sư có khách đến thăm, tôi được lệnh luộc một nồi
khoai mang lên. Trong lúc mọi người đang ăn uống ngon lành,
tôi khoanh tay đứng hầu bên cạnh thì bà vợ lão sư, có lẽ
vì thương hại tôi đói, lấy một miếng khoai luộc nhét luôn
vào miệng cho tôi ăn. Tôi lung túng vì miếng khoai nóng,
nửa muốn nhả ra nửa muốn nuốt vào nhưng không làm sao nuốt
nổi. Tôi bối rối nhìn mọi người và có cảm tưởng mình
là một con chó, được chủ thí cho miếng xương thừa. Tự
nhiên cơn giận ở đâu bốc lên, tôi phải cố gắng lắm
mới giữ được bình tĩnh, lủi thủi bỏ xuống nhà bếp.
Chưa bao giờ tôi thấy chua xót, tủi nhục như lúc đó. Tôi
cố gắng tập trung tư tưởng nhưng nước mắt cứ trào ra.
Tôi tự nhủ: “Mày thật yếu đuối, mới có một chút như
vậy mà đã không giữ được bình tĩnh, công phu tu tập của
mày bỏ đi đâu? Bao năm khổ hạnh luyện tập định lực
mà sao chỉ một đụng chạm nhỏ nhặt như vậy đã nổi cơn
bất bình”. Làm sao tôi có thể sửa đổi được những tư
tưởng oán giận này? Sau một lúc suy nghĩ, tôi lấy ra một
tờ giấy trắng và bắt đầu đánh dấu vào đó mỗi khi tôi
thấy mình không tự chủ được. Vài tháng sau, coi lại tờ
giấy, tôi thấy nó dầy đặc những vết gạch ngang dọc,
tôi biết tuy mình có thể thi hành mọi mệnh lệnh một cách
nghiêm chỉnh nhưng bên trong tôi vẫn khó chịu, bất mãn. Tóm
lại, tôi vẫn chưa thay đổi gì nhiều. Khả năng tự chủ
của tôi chưa tiến bộ được bao nhiêu. Đau khổ cùng cực,
tôi liền đổi phương pháp. Tôi tìm mua bức tranh Mona Lisa,
vẽ một người đàn bà đang mỉm cười, treo trên đầu giường
và tự nhủ trong bất kỳ hoàn cảnh nào, ta cũng nên mỉm
cười, bất chấp tất cả. Mỗi khi bà vợ lão sư quát mắng,
tôi định tâm, hít một hơi thật dài rồi mỉm cười. Phương
pháp này giúp tôi lạc quan hơn, bình tĩnh hơn và tự chủ
hơn. Từ đó bất kỳ chuyện gì xảy ra, tôi cũng cố gắng
kiểm soát hơi thở rồi mỉm cười. Mỗi khi trong lòng tôi
nổi lên một niệm khởi gì, tôi tập trung tư tưởng, nghĩ
đến nụ cười bất diệt của nàng Mona Lisa.
Khi
đặt bút viết những giòng này thì tôi đã là một lão ni
ngoài sáu mươi tuổi. Hơn ba mươi năm đã trôi qua, bao nhiêu
nước đã chảy qua cầu, bao tang thương biến đổi nhưng lúc
nào tôi cũng cảm ơn bà vợ lão sư đã dạy cho tôi một bài
học quí giá về sự tự chủ. Chính cái kỷ luật khắc nghiệt
của bà đã hun đúc cho tôi một tinh thần điềm đạm khiến
tôi trở nên một con người khác hẳn khi trước. Khi trở
lại với lão sư, tôi đang tự hào về định lực của mình;
tôi tưởng mình đã là một cái gì ghê gớm lắm. Nhờ sự
đối xử khắc nghiệt của bà vợ lão sư mà khi rời Shikoku,
tôi đã trở nên một người khiêm tốn hơn, hiểu biết hơn.
Mỗi lần nghĩ đến bà, tôi tin rằng chính bà mới là người
giúp lão sư trở nên một vị thầy giỏi. Biết đâu công
phu tu tập để thản nhiên, điềm đạm của lão sư chẳng
nhờ bà vợ một phần nào?
Trước
khi đi xa hơn, tôi xin nói qua về công phu tu tập của tôi.
Kể từ khi tấm lòng chân thành của cha tôi cảm hóa được
tôi thì tôi ý thức rất rõ về cái tính nết ích kỷ, xấu
xa, kiêu ngạo của mình. Tôi cương quyết thay đổi, loại
trừ những mầm mống tội lỗi này vì nó là những ô nhiễm
đã ngăn cản tôi tìm hiểu chính mình. Qua sách vở thu thập
được, tôi tin rằng người ta chỉ có thể tẩy uế những
ô nhiễm này qua những phương pháp khổ hạnh, hành xác. Lúc
bắt đầu thực hành, các tư tưởng xấu xa, ích kỷ không
thể phát triển được vì tôi cố gắng kiểm soát thân và
tâm kịch liệt. Tuy nhiên khi vừa ngưng tập luyện thì các
thói xấu này trở lại ngay. Cuộc sống lúc đầu với Ryochan
đã phản ảnh điều này một cách rõ rệt. Càng thực hành,
tư tưởng ích kỷ, xấu xa càng bị dồn nén nên khi có dịp
phát động, chúng trở nên mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Lúc
đầu tôi nghĩ công phu tu tập của tôi chưa đủ nên tôi áp
dụng thêm các phương pháp tẩy uế bằng nước lạnh (Misogi).
Giữa mùa đông lạnh giá, tôi lấy nước mưa chứa trong các
thùng lớn ngòai sân để tắm gội. Dĩ nhiên nước gần đóng
thành băng rất lạnh nhưng tôi vẫn cương quyết xối lên
khắp người. Tôi thầm mong nước lạnh làm cho đầu óc tôi
trở nên tê cứng, khiến tôi rơi vào một trạng thái mê hoặc
xuất thần (trance), các ý tưởng xấu xa ích kỷ kia cũng theo
đó mà bị tiêu diệt. Tôi thực hành suốt mấy năm nhưng
chẳng thấy mình rơi vào trạng thái mê hoặc xuất thần nào
hết. Sau khi tắm rửa bằng nước lạnh, tôi xếp bằng trước
sân nhà để tĩnh tọa, bất chấp thời tiết lạnh đến đâu.
Việc áp dụng phương pháp này đã khiến cho tai, mũi, miệng
của tôi bị trào máu. Hậu quả là tôi phải nằm liệt giường
liệt chiếu mất mấy tháng. Tôi tưởng mình có thể chết
và những ô nhiễm cũng tiêu theo nhưng rồi tôi lại hồi phục.
Khi sức khỏe trở lại, tôi thấy lòng mình vẫn không thay
đổi bao nhiêu. Qua năm sau, tôi lại tiếp tục thực tập như
vậy một cách mãnh liệt hơn. Tôi tắm nước lạnh mỗi ngày
hai lần và tĩnh tọa ngoài trời từ sáng đến tối. Hậu
quả là tôi lại nằm liệt giường thêm mấy tháng nữa nhưng
càng ngày khả năng tập trung định lực của tôi càng mạnh
mẽ hơn trước.
Chính
nhờ tu tập chuyên về định lực (Joriki) này mà tôi vô tình
phát triển được năng khiếu tiếp xúc với vong linh thuộc
thế giới siêu hình. Để có thể thường xuyên giao thiệp
với cõi này, người ta cần phải diệt bỏ cái ý thức về
bản ngã; nghĩa là phải biết quên mình, không ý thức gì
về mình nữa, thụ động hoàn toàn để cho một quyền năng
nào đó sai khiến. Đó cũng là lý do tôi được yêu cầu trở
nên một người đầy tớ, chịu mắng chửi suốt ngày để
dẹp bỏ lòng tự ái, bản ngã cá nhân, chịu sự sai sử tuyệt
đối của người khác. Đây là phương pháp huấn luyện những
người có tính thụ cảm để trở nên một cô đồng (Miko)
của Thần Đạo. Dĩ nhiên tôi không biết gì về việc này
mà vẫn nghĩ mình trở lại Shikoku để tiếp tục học đạo
với lão sư. Tôi tin rằng mình đang đi trên một con đường
chân chính, tu tập để trở nên một người sống thật với
lẽ đạo, sống một cách chính tâm thành ý, thành thật với
mình và với mọi người. Tôi không ý thức gì về con đường
mình đang theo đuổi. Tôi nghĩ mình đã tìm được một vị
thầy rất giỏi, nếu triệt để tuân theo lời chỉ dẫn của
thầy thì chắc chắn sẽ đến đích. Tôi chưa biết phân tích,
suy gẫm, tìm hiểu xem điều mình đang thực hành có dẫn mình
đến mục đích chân chính hay không. Tôi cũng không tìm hiểu
gì thêm về lão sư xem ông muốn gì mà chỉ tuyệt đối làm
theo sự yêu cầu của ông. Tôi tin rằng sự trung thành với
một vị thầy là điều cần thiết mà không hề nghĩ rằng
chính ông cũng đang lần mò đi tìm như tôi, và cũng không
biết con đường đó sẽ đưa ông đến đâu.
Cũng
phải nói thêm rằng tuy theo Thần Đạo nhưng lão sư không
phải là người chuyên đào tạo các cô đồng (Miko) mà chỉ
là một học giả thích tìm tòi nghiên cứu mà thôi. Ông đã
từng học thiền với Hòa thượng Nantembo tại Kyoto, học Thánh
Kinh với các nhà truyền giáo Tây phương, tập võ nghệ với
các võ sư người Trung Hoa. Ông rút tỉa các tinh hoa thâu tập
được và tổng hợp thành một đường lối riêng của mình.
Ông không ưa phương pháp tẩy uế ô nhiễm, thanh lọc bản
thân của Thần đạo vì cho rằng nó quá bạo động và phũ
phàng. Ông chủ trương chỉ cần tĩnh tọa, đặt trọng tâm
vào hơi thở, người ta có thể tẩy sạch được các ô nhiễm.
Ông nói:” Khi tĩnh tọa một cách chính tâm thành ý, người
ta có thể giao cảm được với chư thần (Kami) và khi mình
và chư thần không còn là hai thực thể cách biệt nữa, chỉ
cần một hơi thở nhẹ cũng có thể quét sạch được mọi
ô nhiễm rồi”. Việc hợp nhất với chư thần là mục đích
tối hậu của Thần đạo, do đó việc giao cảm với chư thần
qua một cô đồng (Miko) cũng là một cuộc thí nghiệm, để
ông có dịp tìm hiểu thêm về con đường mà ông đang theo
đuổi.
Về
phần tôi chi có một mục đích duy nhất là tìm ra con đường
có thể giúp tôi thay đổi những thói hư tật xấu, những
kiêu căng ngã mạn, vẫn tiềm ẩn trong tâm thức của tôi.
Tôi tin rằng với quyền năng sẵn có, nếu được lão sư
chỉ dạy thêm ít lâu, tôi có thể đạt được mục đích
này. Điều bất ngờ là không những lão sư chẳng chỉ dậy
gì riêng cho tôi mà lại chỉ định tôi thành một đầy tớ,
phục vụ cho bà vợ của ông. Vào lúc đó lão sư vẫn tiếp
tục thu nhận học trò, vẫn có những buổi thực tập hay
tĩnh tọa hay giảng giải học thuyết Thần đạo nhưng tôi
không được phép tham dự. Tại sao lão sư không dạy thêm
cho tôi? Tại sao ông lại đối xử với tôi như vậy? Tại
sao ông lại viết thư gọi tôi trở lại rồi không dạy dỗ
gì hết? Lúc đầu tôi nghĩ rằng ông muốn thử thách tôi
một thời gian nhưng càng ngày tôi càng thất vọng và nghĩ
có lẽ ông đã quên tôi hoặc nhận thấy tôi không có khả
năng đi xa hơn nên chỉ coi tôi như một người đầy tớ.
Lão sư thường cấp chứng chỉ cho học trò khi họ đạt được trình độ nào đó. Cho đến nay, tôi vẫn không biết những chứng chỉ đó dựa trên căn bản nào nhưng lúc đó, tôi tin lão sư đã có những công thức bí mật mà ông chỉ dạy riêng cho từng người. Dĩ nhiên những học trò được cấp chứng chỉ không bao giờ nói về những điều mà họ đã được truyền dạy. Hàng ngày nhìn những người đến tu học với ông một thời gian rồi được cấp phát chứng chỉ, tôi thèm khát vô cùng và thầm ao ước cũng có được một chứng chỉ như vậy. Morisan là một thiếu nữ trong số học trò của lão sư. Tuy mới theo học mấy năm mà cô đã được cấp chứng chỉ trình độ trung cấp. Cô thường dắt bạn bè đến đàm đạo với lão sư và luôn luôn được mời uống trà với ông ở vườn sau. Một hôm cô và một người bạn trẻ đến thăm lão sư gặp lúc ông đi vắng, tôi bèn mời họ ra vườn sau ngồi chờ. Đây là cơ hội ngàn năm một thuở để tôi tiếp xúc với những học trò đã được cấp chứng chỉ mà không có mặt lão sư tại đó, biết đâu họ chẳng thương tình tiết lộ cho tôi một vài điều gì chăng. Tôi dọn một mâm cơm thịnh soạn, khoanh tay đứng hầu, hy vọng có thể nghe lén được vài điều. Tôi chăm chú theo dõi từng cử chỉ của Morisan và thầm nghĩ:” Tại sao một người còn trẻ thế kia mà đã được vào trình độ trung cấp, chắc chắn cô ta phải sở hữu một kiến thức đặc biệt nào đó”. Sau cùng lòng khao khát mãnh liệt thúc đẩy tôi buột miệng:
- Này chị Morisan, chân lý tối hậu là gì?
Người bạn của Morisan đang ăn bỗng quay qua nhìn tôi rồi nói:
- Là khi ăn biết mình ăn, khi uống biết mình uống. Chỉ có thế thôi!
Tuy
nói thế nhưng anh ta vẫn nhồm nhoàm nhai thức ăn một cách
thô bỉ, anh gắp lấy gắp để những thức ăn trên bàn như
sợ ai giành mất. Ăn xong anh còn bưng cả bát canh húp một
hơi dài khiến tôi thắc mắc không biết điều anh nói và
việc anh làm có ăn nhập gì với nhau không. Morisan không trả
lời, chỉ giữ thái độ im lặng trong suốt bữa ăn, Tôi khó
chịu lắm vì nghĩ cô này không muốn chia sẻ gì với tôi,
tự nhiên tôi nổi giận và nhủ thầm: “Nếu chúng mày không
muốn chia sẻ với ta thì ta sẽ tìm cách khác”.
Vài hôm sau tôi vào gặp lão sư:
- Thưa thầy quả là một phép lạ. Thầy biết pho tượng Địa Tạng bằng gỗ đàn hương dựng ở cửa nghĩa địa không? Pho tượng này linh lắm, có lúc nó nhẹ như bông, có lúc nó lại nặng như tảng đá ngàn cân. Chính con đã đến đó xem, một chú tiểu nhỏ có thể khuân pho tượng đó lên để lau chùi một cách dễ dàng, nhưng một gã phu xe khỏe mạnh lại không sao nhấc nó lên nổi.
Tôi nghĩ lão sư phải sốt sắng tìm hiểu về việc này, biết đâu ông lại chẳng buột miệng giải thích và nhờ đó, tôi tìm được cái chìa khóa bí mật mà ông vẫn cất giữ, chưa chịu truyền dạy. Tuy nhiên lão sư vẫn tỏ ra bình thản:
- Thế ư? Kể cũng lạ đấy nhưng việc đó chẳng có gì quan trọng.
Khi đó không hiểu sao tôi bạo miệng tự giải thích:
- Phải chăng nặng hay nhẹ cũng chỉ là một quan niệm của tâm thức nhị nguyên trái với nguyên lý “Vạn vật đồng nhất thể” và “ Nhất bản tán vạn thù”?
Lão sư thản nhiên trả lời bằng một câu vô thưởng vô phạt:
- Ừ.
- Thế nhưng tại sao..?
- Đừng thắc mắc nhiều. Cái đó chẳng có gì đáng quan tâm hết.
Tôi
thất vọng lắm nhưng không biết làm sao hơn nên đành tự
an ủi rằng có lẽ thời cơ chưa đến, một ngày nào đó
đủ duyên ông sẽ chỉ dạy cho tôi.
Thời gian tiếp tục trôi nhưng tôi vẩn không được ông chỉ dạy thêm một điều gì hết. Tôi bèn đổi chiến thuật, ngày ngày cố ý đi ngang qua phòng lão sư, làm một cử chỉ gì đó khiến ông phải chú ý đến nhưng lão sư vẫn ung dung, điềm đạm, dường như ngọai cảnh không ảnh hưởng gì đến ông được. Tôi nghĩ thầm có lý nào mình hầu hạ gia đình ông suốt bao nhiêu năm, chịu đựng trăm điều khổ cực mà chẳng được đối xử tử tế chi hết. Sự thất vọng dần dần chuyển qua tuyệt vọng. Một hôm không thể chịu đựng được nữa, tôi đã vào quì trước mặt lão sư, cương quyết:
- Thưa thầy, con là một đúa ngu độn không có một khả năng gì hết… Phải chăng một cục đất sét không bao giờ có thể trở nên vàng ròng được?
Lão sư thản nhiên trả lời:
- Đúng vậy! Làm sao một cục đất sét có thể trở thành vàng ròng được, nhưng nếu biết nhào nặn cẩn thận, một cục đất sét vẫn có thể trở nên một vật hữu dụng.
Tôi đau khổ khóc òa lên:
- Thưa thầy, một cục đất thì hữu dụng cái nỗi gì!
- Không đâu, khi một vật vô dụng trở nên hữu dụng, nó sẽ là một bảo vật quí giá của thế gian.
Lúc
đó vì quá thất vọng nên tôi không hiểu được ý nghĩa
lời khuyên của lão sư. Tôi lẩm bẩm: “Phải rồi, đất
là đất, vàng là vàng, ta chỉ là một cục đất tầm thường
vô dụng, dù có cố gắng đến đâu ta cũng không thể trở
nên vàng ròng được. Lão sư đã xác nhận như vậy thì cố gắng cách mấy ta cũng không thay đổi được gì. Phải chăng
ta đã lầm khi có ý đi tìm một con đường lý tưởng? Phải
chăng chân lý chỉ là một ảo vọng, một trò chơi của những
kẻ viển vông?”
Sau
buổi tiếp xúc đó, sự kính trọng của tôi đối với lão
sư đã giảm hẳn đi. Từ địa vị một vị thầy khả kính,
lão sư đã biến thành một kẻ lợi dụng, một tên đạo
đức giả, một người tồi tệ đáng khinh. Đúng vào lúc
đó, tôi nhận được thư nhà gửi từ Hokkaido qua. Trong thư
mẹ tôi cho biết, cha tôi đang lâm trọng bệnh sắp chết,
căn nhà của chúng tôi bị hỏa hoạn cháy rụi, và đứa con
gái của tôi đang chuẩn bị để lập gia đình. Mẹ tôi khẩn
khoản gọi tôi trở về lo việc nhà, bà còn kèm theo một
món tiền nhỏ làm lộ phí nữa. Tôi run rẩy đặt lá thư
xuống bàn, nước mắt ràn rụa. Thì ra tôi đã xa nhà hơn
mười sáu năm. Mười sáu năm dài đăng đẳng, mười sáu
năm lang thang khắp các nẻo đường mà chẳng học hỏi được
gì nên người hết. Tôi đã phụ lòng cha mẹ, chẳng làm gì
cho ông bà có thể hãnh diện, và nay đến lúc cha tôi gần
đất xa trời, tôi vẫn chưa báo đáp được công ơn dưỡng
dục của ông trong muôn một. Liệu tôi còn mặt mũi nào trở
về gặp mẹ cha? Làm sao tôi có can đảm gặp lại đứa con
mà tôi chẳng hề săn sóc? Không những là một đứa con bất
hiếu, tôi còn là một người mẹ thiếu bổn phận nữa. Làm
sao một người tồi tệ như tôi dám trở về làng xưa? Dĩ
nhiên tôi không có can đảm trở về nhưng trong hoàn cảnh
khốn cùng hiện nay, tôi cũng không thể tiếp tục sống ở
đây, chờ đợi lão sữ dạy dỗ thêm gì nữa. Sau nhiều đêm
mất ngủ, tôi quyết định từ bỏ việc học đạo, trở
về Hokkaido, sống đời một dân quê ngu muội, chỉ biết cày
sâu cuốc bẫm vậy.
Chỉ
sau khi quyết định khăn gói lên đường thì tôi mới khám
phá rằng mình đã lầm và lầm rất lớn. Thật ra thời gian
sống với gia đình lão sư không vô nghĩa như tôi tưởng nhưng
là một sự rèn luyện âm thầm, một cách huấn luyện kỳ
lạ của lão sư để phát triển khả năng tiếp xúc với cõi
giới siêu hình của tôi. Biết tôi đã thực hành tĩnh tọa
đến mức sở hữu được định lực, ông thấy không cần
phải dạy các lý thuyết từ chương nữa. Đó là lý do ông
không cho phép tôi tham dự các khóa tĩnh tọa, học hỏi lý
thuyết như các học trò khác. Để diệt trừ bản ngã của
tôi, ông đã lợi dụng bản tính khắc nghiệt, hung dữ của
chính bà vợ mình, để huấn luyện tôi trở nên thụ động,
tuyệt đối vâng lời. Ông đã tính toán kế hoạch một cách
kỹ lưỡng mà tôi nào hay biết. Ông âm thầm thử thách tôi,
quan sát thái độ của tôi đối với bà vợ của ông, mà
tôi nào có hay. Cho đến khi tôi xin phép được trở về quê,
ông mới yêu cầu tôi làm một vài việc nhỏ để trắc nghiệm
và khi tôi làm tròn một cách dễ dàng, ông mới xác nhận
trình độ của tôi. Ông cho biết tôi đã đạt đến trình
độ rất cao của Thần đạo, đã trở nên một cô đồng
(Miko) với quyền năng đặc biệt có thể tiếp xúc với chư
thần theo ý muốn. Tôi hết sức ngỡ ngàng và vô cùng xúc
động vì kết quả bất ngờ này. Trước khi đi xa hơn, tôi
muốn nói qua vài nét về vai trò của cô đồng (Miko) trong
Thần đạo.
Cũng
như mọi tôn giáo lớn. Thần đạo chia làm hai phần: Công
truyền và Bí truyền. Phần Công truyền được tổ chức chặt
chẽ qua kinh điển, sách vở, nghi thức, đền thờ và giáo
sĩ. Phần Bí truyền không có tổ chức, không có sách vở,
không có giáo sĩ, mà chỉ dựa trên sự tin tưởng và hiểu
biết của một thiểu số. Đây là những phương pháp khẩu
truyền bí mật được truyền riêng giữa thầy và trò. Danh
từ cô đồng (Miko) vì thế cũng được chia làm hai loại:
Các cô đồng thuộc nhóm Công truyền hay đồng đền (Shrine
Miko) là những phụ nữ được huấn luyện để phụ tá cho
các giáo sĩ trong các nghi thức cúng tế. Trong đền thờ Thần
đạo, các cô đồng đền này phụ trách việc múa hát (kagura),
dâng lễ vật, bày biện trang hoàng bàn thờ thần linh v.v..
Số người hành nghề này khá đông vì công việc không đòi
hỏi gì nhiều. (Trong Thần đạo, giáo sĩ và cô đồng được
coi là một nghề nghiệp có lương). Các cô đồng đền này
được huấn luyện trong các khóa đào tạo, và khi tốt nghiệp
được cấp chứng chỉ hành nghề. Trong khi đó, các cô đồng
thuộc nhóm Bí truyền (Shamanie Miko) được huấn luyện trong
vòng bí mật, bởi các vị thầy của Thần đạo, để trở
nên một khí cụ trung gian giữa thần linh và người. Những
cô đồng này sẽ tuân theo những nghi thức riêng để bước
vào một trạng thái mê hoặc xuất thần, lúc đó chư thần
(Kami) sẽ nhập vào họ, sử dụng xác thân của họ để tiếp
xúc với thế giới loài người. Qua miệng của cô đồng,
chư thần cho mọi người biết trước những điều hung cát,
tiên đoán mùa màng, thời tiết, vận mệnh làng xã hay quốc
gia, hoặc trả lời những câu hỏi có tính cách cá nhận của
mọi người… Ngoài ra, những cô đồng này còn có thể yêu
cầu các vong linh nhập vào họ để tiếp xúc với họ hàng
thân quyến hoặc thực hành các nghi thức trừ tà, chữa bệnh
v.v..
Từ
xưa Thần đạo đã đóng một vai trò rất quan trọng trong
lịch sử Phù Tang, trước khi ảnh hưởng của Trung hoa du nhập
vào đây. Vào thời cổ sử, những người lãnh đạo các bộ
tộc, các vị lãnh chúa đều có những cố vấn riêng là những
cô đồng có khả năng giao thiệp với Thái Dương thần nữ
(Amaterasu Omi Kami). Tại sao những người này thuộc phái nữ
mà không thuộc phái nam? Người Nhật tin rằng đấng sáng
tạo hay Thái Dương thần nữ thuộc phái nữ, và chỉ người
nữ mới có thể tiếp xúc được với người nữ một cách
tương đắc mà thôi; người nam thường thô lỗ, dễ làm phật
hòng Thần nữ. Do đó trong Thần đạo, tu sĩ thường là phái
nam nhưng một người đồng (Miko) luôn luôn phải thuộc phái
nữ. Trong hai cuốn cổ thư của Thần đạo, Kojiki và Nihon
Shoki, có ghi rõ việc Hoàng đế xứ Chuai lập đàn cầu khẩn
chư thần để hỏi ý về việc ông muốn xuất quân đi đánh
xứ Kumaso, nằm ở phía đông xứ Chuai. Chư thần, qua miệng
cô đồng, cho biết ông phải tiến quân về phía tây thì mới
gặt hái kết quả tốt đẹp. Hoàng đế xứ Chuai nổi giận
chỉ trích cô đồng nói láo vì phía tây là biển cả, đâu
có xứ nào để chinh phục. Ông ra lệnh chém đầu cô đồng
rồi đi về phía đông, đánh xứ Kumaso. Vì hỗn láo, miệt
thị chư thần, nên vừa mặc giáp trụ để cầm quân thì
tự nhiên Hoàng đế hộc máu ra chết. Các tướng lãnh thấy
vua bị chư thần vật chết, vội lập vua khác rồi ra lệnh
cho quân sĩ đóng thuyền bè để đi về hướng tây, mặc dù
lúc đó không ai biết hướng này có gì. Vượt biển được
hai ngày, họ đặt chân lên một mảnh đất trù phú đúng
như lời mách bảo của chư thần, họ chinh phục xứ này,
đặt ách thống trị trong nhiều thế kỷ. Mảnh đất này
chính là xứ Triều Tiên (Đại Hàn) ngày nay. Cuộc chinh phục
Triều tiên đã đưa địa vị cô đồng (Miko) lên một mức
rất cao và sau đó, hầu hết các quyết định quan trọng đều
dựa trên lời mách bảo của chư thần qua miệng những cô
đồng. Lịch sử Nhật bản đã chép rõ vai trò của các cô
đồng này có khi vượt hẳn quyền hạn của các tướng lãnh
hay có khi cả hoàng đế nữa.
Đến
triểu đại Taika, ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa du nhập Nhật
Bản mỗi ngày một mạnh; các quan văn, chịu ảnh hưởng Khổng
giáo, không chấp nhận phái nữ (các cô đồng) xen vào quyền
bính. Họ đòi cải tổ triều chính, rập khuôn theo tổ chức
hành chánh của nhà Đường bên Tàu. Họ chủ trương hoàng
đế (thiên tử) chính là một vị thần (Kami) rồi, mà đã
là thần thì không cần phải hỏi ý kiến một vị thần linh
nào hết. Họ dẹp bỏ các nghi thức cầu đảo trong triều
đình, đưa Thần đạo xuống hàng tín ngưỡng bình dân, các
cô đồng bị giới hạn tầm hoạt động, chỉ được thực
hành các nghi thức cúng lễ trong đền thờ mà thôi. Từ đó
khởi đầu cho vai trò của các cô đồng đến, chỉ biết
múa hát, dâng lễ vật, thực hành nghi thức cúng tế chứ
không có quyền năng. Dĩ nhiên vẫn có một số người cất
giấu những phương pháp huấn luyện các cô đồng thời cổ,
qua các phương pháp khẩu truyền nên truyền thống này vẫn
được giữ gìn một cách giới hạn. Là nhà nghiên cứu, chủ
truơng tìm về nguồn cội, lão sư đã tìm được các tài
liệu về việc huấn luyện các cô đồng và ông đã áp dụng
vào tôi.
Cũng
phải nói thêm rằng thời đại Minh Trị (Meiji) là một giai
đoạn đặc biệt với những truyền thống cũ mới xung đột
nhau mạnh mẽ. Khi trước, vào thời Tokugawa (1600 – 1867), các
sứ quân nắm quyền cai trị và vai trò của hoàng đế rất
lu mờ, nếu không nói là vô quyền. Để phát triển văn hóa,
các sứ quân cho lập trường Quốc học (Kokugaku) để nghiên
cứu văn hóa và phục hồi các truyền thống cổ xưa. Nhờ
biết áp dụng các phương pháp nghiên cứu rất khoa học, các
học giả của trường Quốc học đã phát hiện được rất
nhiều tài liệu cổ, nhất là những tài liệu từ xưa, được
cất giấu trong các chùa chiền, cổ mộ. Vào đầu thế kỷ
18, lúc phong trào bế quan tỏa cảng lên cao, các học giả
chủ trương bài ngoại muốn dẹp bỏ các ảnh hưởng ngoại
lai, nhất là ảnh hưởng của Trung Hoa, để phục hồi truyền
thống quốc gia nên thiết lập ra học phái Kannagara-no-michi.
Học giả Hirata Atsutane (1776 – 1843) là người cổ súy việc
này. Ông chủ trương lấy Thần đạo làm quốc giáo, nhấn
mạnh về vai trò Hoàng đế là một vị thần (Kami) con cháu
của Thái Dương thần nữ. Theo ông, các sứ quân chỉ là kẻ
tiếm vị, là người đã theo chủ thuyết Trung Hoa mà ông gọi
là chủ thuyết của các quan hoạn, làm ô uế truyền thống
cao đẹp cổ truyền của Thái Dương thần nữ. Dĩ nhiên các
sứ quân triều đại Tokugawa không chấp nhận lời giải thích
này nên Hirata bị bắt giam và đày biệt xứ, sách của ông
bị tịch thu nhưng học trò của ông vẫn lén lút truyền bá
học thuyết này. Ít lâu sau, lợi dụng tình hình chính trị
sôi động về việc người Âu Mỹ bắn phá các hải cảng
của Nhật, đòi tự do giao thương và truyền giáo, các nhóm
chính trị đối lập đã hô hào dân chúng nổi lên, lật đổ
chế độ sứ quân, đưa Thiên Hoàng trở lại địa vị tối
cao. Một trong những điều đầu tiên của Minh Trị thiên hoàng
là khôi phục lại truyền thống cũ, đưa Thần đạo lên hàng
quốc giáo và dẹp bỏ ảnh hưởng của Phật giáo mà triều
đình cho rằng đã ủng hộ các sứ quân khi xưa. Sự phát
triển của Thần đạo đã vô tình phục hồi giai cấp võ
sĩ đạo (Bushido) vốn bị các sứ quân thời Tekogawa hạn chế.
Dưới danh nghĩa võ sĩ đạo, các nhà lãnh đạo quân sự đã
đào tạo được nhiều sĩ quan có tinh thần quốc gia cực
đoan, và hậu quả là đưa Nhật Bản vào cuộc chiến với
Trung Hoa (1894 – 1895), Nga sô (1904 – 1905) và Thế chiến thứ
hai (1937 – 1945).
Trước khi trở về Hokkaido, lão sư và tôi đã thực hành một nghi thức quan trọng mà qua đó tôi đã chứng tỏ quyền năng của một cô đồng như sau: Yoshida là một thiếu phụ ngoài ngũ tuần. Bà mắc một chứng bệnh lạ lùng mà các y sĩ đều bó tay. Sau khi đã chữa đủ mọi thầy hay thuốc giỏi mà vẫn vô hiệu, người ta mách bà tìm đến lão sư để xin ông giúp cho. Lão sư thiết lập một đàn tràng rất nghiêm trang tại một đền thờ Thần đạo gần đó. Sau khi tất cả mọi người tham dự chấp tay cầu nguyện một hồi lâu, tôi được mời ra ngồi quay lưng trước bàn thờ. Lão sư đứng trước mặt tôi cầm một tờ sớ dài và bắt đầu đọc. Tôi ngồi yên, giữ hơi thở thật đều đặn và bắt đầu đọc thầm các câu thần chú bí mật có mục đích giữ cho tâm thật trống rỗng theo lời chỉ dẫn của lão sư. Khoảng mười phút sau, thình lình tôi thấy lồng ngực mình nóng ran lên, dường như có một cái gì to cỡ quả trứng gà nổi lên giữa lồng ngực; vật này di chuyển từ từ xuống đan điền rồi dừng lại ở đó. Tôi thấy toàn thân bỗng cứng đơ, dường như cái vật này đã làm chủ thân thể tôi một cách kỳ lạ. Tôi thấy mọi vật trước mặt mờ nhạt đi rồi tất cả như tan biến trong một biển ánh sáng quang minh kỳ lạ. Tôi không còn biết gì nữa, hình như tôi đã chắp hai tay giơ lên trán. Lúc đó lão sư thong thả lên tiếng hỏi ba lần:
- Vị nào đã về đó?
Sau khi hỏi xong, vẫn thấy hai tay tôi giơ trước trán, ông bèn đọc bài Khai Khẩu thần chú có công dụng giúp tôi lên tiếng được. Một giọng nói kỳ lạ dĩ nhiên không phải giọng nói của tôi, thốt lên qua miệng tôi:
- Ta là Thanh Xà đây.
Ngay lúc đó, trong biển ánh sáng lung linh đầu màu sắc tôi đã trông thấy một cái gì lạ lùng đang từ từ xuất hiện. Giọng nói kỳ lạ đó vẫn tiếp tục phát qua miệng tôi:
- Khi Yoshida còn là một đứa bé mười hai tuổi, ta chỉ là
một con rắn nhỏ đang bò đi trên đường làng. Lũ nhỏ đi
học về nhìn thấy, bèn lấy gậy thay phiên nhau đánh ta đến
chết. Sáu đứa nhỏ con trai đã hành hạ ta trong khi Yoshida
chỉ đứng nhìn. Trong lúc thân thể cực kỳ đau đớn, ta
bỗng nhìn thấy ánh mắt xót thương của Yoshida, dường như
cô không chịu nổi khi thấy ta đau đớn. Trước khi lìa đời,
ta cần một nơi chốn nương tựa nên thu hết năng lực nhảy
vào lưng của Yoshida... Ta đã sống tại đây nhiều năm và
ngăn trở luồng sinh khí của Yoshida khiến nó bị tắc nghẽn,
Khi Yoshida còn trẻ, luồng sinh khí còn mạnh nên nó tìm được
chỗ rẽ để thoát đi, nhưng nay về già, luồng sinh khí đã
yếu, không lưu chuyển được nữa nên tích tụ và gây ra
bệnh tật. Ta cũng muốn thoát đi lắm nhưng không sao thoát
được... Cách đây khoảng mười cây số về hướng nam, ở
góc cánh đồng có một cổ thụ lớn, dưới gốc cây đó
là nơi chôn xương cốt của ta. Nếu Yoshida đến đó thắp
cho ta một nén hương, một bó hoa tươi và đọc kinh siêu độ
thì may ra ta có thể thoát được hoàn cảnh này.
Ngay lúc đó tôi nhìn rõ cái vật lạ lùng đang xuất hiện chính là một con rắn nhỏ màu xanh lục. Tôi tự hỏi : « Phải chăng đây là con rắn năm xưa đã ẩn náu trong thể phách Yoshida khiến bà mang bệnh ? » Lão sư thắp một nén hương và đọc một bài thần chú khác, tôi thấy lồng ngực càng lúc càng nóng ran, bứt rứt khó chịu vô cùng. Tự nhiên tôi nhảy nhổm lên múa tay múa chân cho đỡ nóng và cứ thế quay cuồng như không làm chủ được mình nữa. Lão sư quay qua đám đông hỏi lớn :
- Còn ai muốn hỏi điều gì nữa không ?
Một người bước ra nói :
- Kính thưa chư thần, hôm qua con bị mất cái xe đạp, liệu con có thể tìm lại được nó không ?
Dường như có một cái gì xui khiến, tôi quát lớn :
- Cái gì ? Xe đạp của người ư ? Nó đã bị tháo gỡ ra thành nhiều mảnh để mang bán chợ trời rồi.
Khi miệng tôi thốt ra những câu đó thì trong biển ánh sáng kỳ lạ trước mặt tôi bỗng hiện ra chiếc xe đạp đang bị tháo gỡ như thế nào.
- Trời ơi, chiếc xe đó rất đắt tiền, tôi phải dành dụm mãi mới mua được. Thưa chư thần, kẻ cắp đó là ai vậy ?
- Đó là một người cùng xóm với ông.
- Nhưng kẻ đó là ai ? Tôi phải tìm ra... Nó là người thế nào?
- Trong hai tuần lễ nữa sẽ có một kẻ bị ngã què chân, đó chính là tên đã lấy xe đạp của ông.
Tôi không hiểu sao mình lại liên tiếp nói như một cái máy. Các hình ảnh này tự nhiên hiện ra rất rõ ràng trong cái biển ánh sáng kỳ lạ kia. Tuần tự hết người này đến người khác lên tiếng đặt câu hỏi và tôi trả lời họ một cách liên tục, không một chút do dự. Buổi lễ chấm dứt với những nghi thức hết sức trang nghiêm long trọng mà tôi thấy không cần phải viết ra đây. Chiều hôm đó, khi nghe lão sư kể lại những điều này, tôi không biết có nên tin hay không. Không lẽ tôi lại sở hữu được cái quyền năng mầu nhiệm như vậy hay sao? Tôi gật đầu cám ơn lão sư đã dạy dỗ rồi chờ đến lúc tĩnh tọa một mình trong phòng, vận dụng định lực để quán xét lại xem sự việc này xảy ra như thế nào. Lạ lùng làm sao, chỉ cần dụng công một chút, tôi đã thấy trước mặt hiện ra một biển ánh sáng chói lọi và mọi câu hỏi đều được kiểm chứng một cách rõ rệt. Quả nhiên tôi đã phát triển được quyền năng của một người đồng (Miko), đúng như lời lão sư đã nói, tôi đã thành công.
Hôm sau tôi khăn gói lên đường trở về Hokkaido. Lão sư tiễn tôi ra tận trạm xe lửa. Tuy là người điềm đạm ung dung nhưng lần này ông đã bùi ngùi nói:
- Tuy con đã sở hữu được một quyền năng rất đặc biệt
nhưng con phải nhớ kỹ những môn quy mà ta đã truyền cho
con. Trong bất kỳ hoàn cảnh nào, con phải giữ gìn nghiêm
cẩn những điều này, không được vi phạm. Quyền năng không
phải là thứ mà ai cũng có thể sở hữu mà đó là do ý muốn
của chư thần. Dù bất kỳ chuyện gì xảy ra, con phải luôn
luôn biết ơn các ngài đã ban cho con cái quyền năng này. Đó
là điều cuối cùng ta muốn nhắn riêng với con. Ta đã truyền
cho con những điều mà từ trước đến nay ta chưa hề dạy
ai và chưa chắc ta sẽ dạy cho ai nữa. Con là một người
đặc biệt trong hàng trăm, hằng ngàn đệ tử của ta. Ta chúc
con tìm được điều con muốn tìm.