Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

1. Saanen, 28 tháng bảy 1964

09/07/201100:31(Xem: 4087)
1. Saanen, 28 tháng bảy 1964

J. KRISHNAMURTI
BÀN VỀ SỐNG VÀ CHẾT (ON LIVING and DYING)
Lời dịch: Ông Không 2009

Saanen, 28 tháng bảy 1964

Tôi muốn nói về cái gì đó mà bao gồm tổng thể của sống, cái gì đó không tách lìa nhưng một tiếp cận tổng thể đến toàn sự tồn tại của con người. Muốn thâm nhập nó thật sâu thẳm, đối với tôi dường như người ta phải không còn bị trói buộc trong những lý thuyết, những niềm tin, những giáo điều. Hầu hết chúng ta liên tục cày bừa mảnh đất của cái trí, nhưng có vẻ chúng ta không bao giờ gieo hạt. Chúng ta phân tích, bàn luận, xé vụn những sự việc thành từng mảnh, nhưng chúng ta không hiểu rõ toàn chuyển động của sống.

Lúc này tôi nghĩ có ba vấn đề chúng ta phải thấu triệt nếu chúng ta muốn hiểu rõ toàn chuyển động của sống. Chúng là thời gian, đau khổ và chết. Để hiểu rõ thời gian, để thấu triệt ý nghĩa đầy đủ của đau khổ, và để sống cùng chết – tất cả việc này cần đến tánh rõ ràng của tình yêu. Tình yêu không là một lý thuyết, nó cũng không là một lý tưởng. Hoặc bạn thương yêu, hoặc bạn không thương yêu. Nó không thể được dạy dỗ. Bạn không thể có những bài học làm thế nào để thương yêu, cũng không có một phương pháp rèn luyện hàng ngày để bạn có thể biết tình yêu là gì. Nhưng tôi nghĩ người ta thâm nhập tình yêu thật tự nhiên, thật dễ dàng, thật thanh thoát, khi người ta thực sự hiểu rõ ý nghĩa của thời gian, chiều sâu lạ thường của đau khổ và sự tinh khiết theo cùng chết. Vậy là có lẽ chúng ta có thể suy xét – thực tế, không lý thuyết hay trừu tượng – bản chất của thời gian, chất lượng hay cấu trúc của đau khổ, và sự việc lạ thường mà chúng ta gọi là chết. Ba việc này không tách rời. Nếu chúng ta hiểu rõ thời gian, chúng ta sẽ hiểu rõ chết là gì, và chúng ta cũng sẽ hiểu rõ đau khổ là gì. Nhưng nếu chúng ta coi trọng thời gian như cái gì đó tách rời đau khổ và chết, và cố gắng đối xử với nó tách rời, vậy thì tiếp cận của chúng ta sẽ là tách rời, và do đó chúng ta sẽ không bao giờ hiểu rõ vẻ đẹp lẫn sức sống lạ thường của tình yêu.

Chúng ta sẽ bàn về thời gian, không như một trừu tượng nhưng như một thực tế – thời gian là thời kỳ kéo dài, sự liên tục của tồn tại. Có thời gian tuần tự, những tiếng đồng hồ và những ngày tháng kéo dài thành hàng triệu năm; và chính thời gian tuần tự đã tạo ra cái trí mà chúng ta vận hành. Cái trí là một kết quả của thời gian như sự tiếp tục của tồn tại, và sự hoàn thiện hay đánh bóng cái trí qua sự tiếp tục đó được gọi là tiến bộ. Thời gian cũng là thời kỳ thuộc tâm lý mà tư tưởng đã tạo ra như một phương tiện của thành tựu. Chúng ta sử dụng thời gian để tiến bộ, để đạt được, để trở thành, để mang lại một kết quả nào đó. Với hầu hết chúng ta, thời gian là một giai đoạn hướng tới sự hoàn thành điều gì đó to tát hơn; tới sự phát triển những khả năng nào đó; tới sự hoàn thiện một kỹ thuật đặc biệt; tới sự đạt được một mục tiêu, một mục đích, dù xứng đáng hay không; vì vậy chúng ta tưởng rằng thời gian là cần thiết để hiểu rõ cái gì là sự thật, cái gì là Thượng đế, cái gì vượt khỏi mọi lao dịch của con người.

Chúng ta xem thời gian như thời kỳ giữa khoảnh khắc hiện tại và khoảnh khắc nào đó trong tương lai, và chúng ta sử dụng thời gian đó để vun quén tính cách, để loại bỏ một thói quen nào đó, để nảy nở một cơ bắp hay phát triển một tầm nhìn. Suốt hai ngàn năm cái trí Thiên chúa giáo đã bị quy định để tin tưởng một Đấng Cứu rỗi, địa ngục, thiên đàng; và ở phương Đông một tình trạng bị quy định tương tự của cái trí đã được sản sinh qua một thời kỳ dài hơn. Chúng ta nghĩ rằng thời gian là cần thiết cho mọi thứ mà chúng ta phải thực hiện hay hiểu rõ. Vì vậy thời gian trở thành một gánh nặng; nó trở thành một rào cản cho sự trực nhận thực sự; nó ngăn cản chúng ta không thấy ngay tức khắc sự thật của cái gì đó bởi vì chúng ta nghĩ rằng chúng ta phải cần thời gian cho nó. Chúng ta nói, “Ngày mai, hay trong vài năm nữa, tôi sẽ hiểu rõ sự việc này bằng tánh rõ ràng lạ thường.” Khoảnh khắc chúng ta chấp nhận thời gian chúng ta đang nuôi dưỡng sự biếng nhác, trạng thái lười biếng kỳ lạ đó mà ngăn cản chúng ta không thấy ngay tức khắc sự việc như nó thực sự là.

Chúng ta nghĩ chúng ta cần thời gian để phá vỡ tình trạng bị quy định mà xã hội – với tôn giáo có tổ chức của nó, những nguyên tắc đạo đức của nó, những tín điều của nó, sự ngạo mạn của nó, và tinh thần ganh đua của nó – đã áp đặt vào cái trí. Chúng ta suy nghĩ dựa vào thời gian bởi vì tư tưởng thuộc về thời gian. Tư tưởng là phản ứng của ký ức – ký ức là bối cảnh đã được tích lũy, được kế thừa, được lượm lặt bởi chủng tộc, bởi cộng đồng, bởi nhóm người, bởi gia đình, và bởi cá nhân. Bối cảnh này là kết quả thuộc qui trình thêm vào của cái trí, và sự tích lũy này cần thời gian. Với hầu hết chúng ta cái trí là ký ức, và bất kỳ khi nào có một thách thức, một yêu cầu, chính là ký ức mà đáp lại. Nó giống như đáp án của máy tính, mà vận hành nhờ vào sự kết hợp. Tư tưởng là phản ứng của ký ức, trong ngay bản chất nó là sản phẩm của thời gian và vật tạo tác thời gian.

Làm ơn, điều gì tôi đang nói không là một lý thuyết; nó là điều gì đó mà bạn phải suy nghĩ. Bạn không phải suy nghĩ về nó nhưng trái lại phải thấy nó, bởi vì nó là như thế. Tôi sẽ trình bày tất cả những chi tiết phức tạp, nhưng tôi đã nêu rõ những yếu tố cốt lõi, và hoặc bạn thấy chúng, hoặc bạn không thấy chúng. Nếu bạn đang theo sát điều gì đang được nói, không phải bằng lời nói, bằng từ ngữ, bằng phân tích, nhưng nếu bạn thực sự thấy nó là như thế, bạn sẽ nhận ra thời gian lừa dối như thế nào. Và tiếp theo câu hỏi là liệu thời gian có thể kết thúc. Nếu chúng ta có thể thấy toàn tiến hành thuộc hoạt động riêng của chúng ta – thấy chiều sâu của nó, nông cạn của nó, vẻ đẹp của nó, xấu xa của nó – không phải ngày mai, nhưng tức khắc, vậy thì ngay trực nhận đó là hành động mà triệt tiêu thời gian.

Nếu không hiểu rõ thời gian, chúng ta không thể hiểu rõ đau khổ. Chúng không là hai sự việc khác biệt như chúng ta cố gắng khẳng định. Đi làm việc, ở cùng gia đình, có con cái – đây không là những sự việc tách rời, phân chia. Trái lại, chúng có liên quan mật thiết và sâu đậm với nhau, và chúng ta không thể thấy sự mật thiết lạ thường này của liên hệ nếu không có tánh nhạy cảm do tình yêu mang lại.

Muốn hiểu rõ đau khổ chúng ta phải thực sự hiểu rõ bản chất của thời gian và cấu trúc của tư tưởng. Thời gian phải kết thúc; nếu không, chúng ta chỉ đang lặp lại thông tin mà chúng ta đã tích lũy, giống như một máy tính. Nếu không có một kết thúc cho thời gian – mà có nghĩa một kết thúc cho tư tưởng – chỉ có sự lặp lại, sự điều chỉnh, một bổ sung liên tục. Không bao giờ có điều gì mới mẻ. Chúng ta là những cái máy tính được tôn vinh – một chút xíu độc lập hơn, có lẽ, nhưng vẫn còn giống như cái máy trong cách chúng ta vận hành.

Muốn hiểu rõ bản chất của đau khổ và sự chấm dứt của đau khổ, người ta phải hiểu rõ thời gian, và hiểu rõ thời gian là hiểu rõ tư tưởng. Hai việc này không tách lìa. Trong hiểu rõ thời gian, người ta bất chợt bắt gặp tư tưởng; và sự hiểu rõ của tư tưởng là sự kết thúc của thời gian, và thế là sự kết thúc của đau khổ. Nếu điều đó rất rõ ràng, vậy thì chúng ta có thể nhìn vào đau khổ và không tôn thờ nó như những người Thiên chúa giáo tôn thờ. Điều gì chúng ta không hiểu rõ, chúng ta hoặc tôn thờ hoặc phỉ báng. Chúng ta đặt nó trong một nhà thờ, trong một ngôi đền, hay trong một góc kín đáo của cái trí, và chúng ta sợ hãi nó; hay chúng ta chống cự nó, tống khứ nó; hay chúng ta chạy trốn nó. Nhưng ở đây chúng ta không đang làm bất kỳ những việc đó. Chúng ta thấy rằng trong hàng ngàn năm con người đã đấu tranh với vấn đề đau khổ này, và con người đã không thể giải quyết nó; vì vậy con người đã trở nên chai lì, con người đã chấp nhận nó, nói rằng nó là một phần không tránh khỏi của sống.

Chỉ chấp nhận đau khổ không những là ngu xuẩn mà còn tạo ra một cái trí tối tăm. Nó khiến cho cái trí vô cảm, hung tợn, hời hợt, và thế là sống trở thành rất tầm thường, một tiến hành của thuần túy làm việc và vui thú. Người ta sống một tồn tại bị tách rời như một người kinh doanh, một người khoa học, một họa sĩ, một người tình cảm, một người tạm gọi là tôn giáo, và vân vân. Nhưng muốn hiểu rõ và được tự do khỏi đau khổ, bạn phải hiểu rõ thời gian và nhờ vậy hiểu rõ tư tưởng. Bạn không thể chối từ đau khổ, hay tẩu thoát, chạy trốn nó qua giải trí, qua những nhà thờ, qua những niềm tin có tổ chức; bạn cũng không thể chấp nhận và tôn thờ nó; và muốn không làm bất kỳ những việc này cần đến nhiều chú ý, đó là năng lượng.

Đau khổ được bám rễ trong tự-thương xót, và muốn hiểu rõ đau khổ trước hết phải có một cuộc giải phẫu không thương tiếc vào tất cả những trạng thái tự-thương xót. Tôi không biết liệu bạn đã từng quan sát và thấy rằng bạn đã trở nên thương xót cho chính bạn biết chừng nào, ví dụ, khi bạn nói, “Tôi bị cô độc.” Khoảnh khắc có tự-thương xót bạn đã cung cấp đất màu cho đau khổ bám rễ. Bạn có lẽ bào chữa tự-thương xót của bạn, viện lý lẽ cho nó, làm thanh tao nó, bao bọc nó bằng những ý tưởng nhiều đến chừng nào chăng nữa, nó vẫn còn đó, đang day dứt thẳm sâu trong bạn. Vì vậy một con người muốn hiểu rõ đau khổ phải khởi sự bằng cách được tự do khỏi sự tầm thường của ích kỷ, tự cho mình là trung tâm, thú tính mà là tự-thương xót này. Bạn có lẽ cảm thấy tự-thương xót bởi vì bạn có một căn bệnh, hay bởi vì bạn có một người thân thiết bị chết, hay bởi vì bạn không thành tựu được cho chính bạn và vì vậy bị thất vọng, chán nản; nhưng dù bất kỳ nguyên nhân của nó là gì, tự-thương xót là gốc rễ của đau khổ. Và khi một lần bạn được tự do khỏi tự-thương xót, bạn có thể nhìn ngắm đau khổ mà không tôn thờ nó, hay chạy trốn nó, hay cho nó một ý nghĩa về tinh thần, cao cả, như nói rằng bạn phải trải qua đau khổ để tìm được Thượng đế – mà hoàn toàn vô lý. Chỉ có một cái trí ngu dốt, đờ đẫn mới dung thứ đau khổ. Vì vậy phải không có sự chấp nhận đau khổ thuộc bất kỳ loại nào, và không phủ nhận nó. Khi bạn được tự do khỏi tự-thương xót, bạn đã xóa sạch tất cả ủy mị, tất cả đa cảm mà nảy sinh từ tự-thương xót, khỏi đau khổ. Vậy là bạn có thể nhìn ngắm đau khổ bằng chú ý tổng thể.

Tôi hy vọng bạn thực sự đang thực hiện việc này cùng tôi khi chúng ta tiếp tục và không chỉ đang chấp nhận bằng từ ngữ điều gì đang được nói. Hãy tỉnh thức được sự chấp nhận mù quáng riêng của bạn về đau khổ, về viện dẫn lý lẽ của bạn, những bào chữa của bạn, tự-thương xót của bạn, ủy mị của bạn, thái độ đa cảm của bạn đối với đau khổ, bởi vì tất cả việc đó là một lãng phí của năng lượng. Muốn hiểu rõ đau khổ, bạn phải trao chú ý tổng thể của bạn cho nó, và trong chú ý đó không có nơi chỗ cho những bào chữa, cho đa cảm, cho lý lẽ, không có nơi chỗ cho tự-thương xót thuộc bất kỳ loại nào.

Tôi hy vọng tôi đang giải thích rõ ràng khi tôi nói về hành động trao chú ý tổng thể của người ta cho đau khổ. Trong chú ý đó không có nỗ lực để giải quyết hay hiểu rõ đau khổ. Người ta chỉ đang quan sát, đang nhìn ngắm. Mọi nỗ lực để hiểu rõ, để lý luận, hay chạy trốn đau khổ phủ nhận trạng thái tiêu cực đó của chú ý tổng thể mà trong nó cái sự việc được gọi là đau khổ này có thể được hiểu rõ.

Chúng ta không đang phân tích, chúng ta không đang tìm hiểu tỉ mỉ đau khổ vì mục đích loại bỏ nó, bởi vì việc đó chỉ là một ranh mãnh khác của cái trí. Cái trí phân tích đau khổ rồi sau đó tưởng tượng rằng nó đã hiểu rõ và được tự do khỏi đau khổ – điều đó vô lý. Bạn có thể loại bỏ một hình thức đặc biệt của đau khổ, nhưng đau khổ sẽ xuất hiện lại trong một hình thức khác. Chúng ta đang nói về đau khổ như một sự việc tổng thể – về đau khổ trong ý nghĩa chính xác như thế – dù nó là đau khổ của bạn, hay đau khổ của tôi, hay đau khổ của bất kỳ người nào khác.

Muốn hiểu rõ đau khổ phải có hiểu rõ thời gian và tư tưởng. Phải có một tỉnh thức không chọn lựa được tất cả những tẩu thoát, được tất cả tự-thương xót, được tất cả những lý lẽ thuộc từ ngữ, để cho cái trí trở nên hoàn toàn yên lặng trước điều gì đó cần phải được hiểu rõ. Vậy là không có sự phân chia giữa người quan sát và vật được quan sát. Không phải rằng bạn, người quan sát, người suy nghĩ, đang bị đau khổ và đang nhìn ngắm đau khổ đó, nhưng chỉ có trạng thái của đau khổ. Trạng thái của đau khổ không bị phân chia đó là cần thiết, bởi vì khi bạn quan sát đau khổ như một người quan sát bạn tạo ra xung đột, mà làm đờ đẫn cái trí và lãng phí năng lượng, và do đó không có chú ý.

Khi cái trí hiểu rõ bản chất của thời gian và tư tưởng, khi nó đã nhổ bật gốc rễ của tự-thương xót, ủy mị, đa cảm, và mọi việc như thế, vậy thì tư tưởng – mà đã tạo ra tất cả phức tạp này – kết thúc, và không còn thời gian; vậy là bạn đã tiếp xúc mật thiết và trực tiếp với sự việc mà bạn gọi là đau khổ đó. Đau khổ được duy trì chỉ khi nào có một tẩu thoát khỏi đau khổ, một ham muốn chạy trốn nó, giải quyết nó, hay tôn thờ nó. Nhưng khi không còn tất cả việc đó bởi vì cái trí trực tiếp tiếp xúc cùng đau khổ, và do đó hoàn toàn yên lặng không dính dấp đến đau khổ, vậy là bạn sẽ tự khám phá cho chính bạn rằng cái trí không còn đau khổ gì cả. Khoảnh khắc cái trí của người ta trọn vẹn tiếp xúc cùng sự kiện đau khổ, chính sự kiện đó tự giải quyết tất cả những chất lượng sinh ra đau khổ của thời gian và tư tưởng. Vậy là có sự kết thúc của đau khổ.

Bây giờ làm thế nào chúng ta sẽ hiểu rõ sự việc chúng ta gọi là chết mà chúng ta quá sợ hãi này? Con người đã tạo ra nhiều phương cách quanh co để giải quyết chết – bằng tôn thờ nó, phủ nhận nó, bám vào vô vàn niềm tin, và vân vân. Nhưng muốn hiểu rõ chết, chắc chắn bạn phải tiếp cận nó mới mẻ lại; bởi vì bạn thực sự không biết bất kỳ điều gì về chết cả, phải không? Bạn có lẽ đã trông thấy người ta chết, và bạn đã quan sát trong chính bạn hay trong những người khác sự phát triển của tuổi già bởi sự thoái hóa của nó. Bạn biết có sự chấm dứt của sự sống thuộc thân thể bởi tuổi già, bởi tai nạn, bởi bệnh tật, bởi sát nhân hay tự tử, nhưng bạn không biết chết như bạn biết ái ân, đói khát, độc ác, tàn bạo. Bạn thực sự không biết chết có nghĩa gì, và đến khi bạn biết, chết chẳng còn ý nghĩa gì cả. Điều gì bạn sợ hãi là một trừu tượng, điều gì đó mà bạn không biết. Bởi vì không biết sự phong phú của chết, hay những hàm ý của nó là gì, cái trí sợ hãi nó – sợ hãi về sự suy nghĩ, không phải về sự kiện, mà nó không biết.

Làm ơn hãy cùng tôi tìm hiểu một chút xíu. Nếu bạn chết tức khắc, sẽ không có thời gian để suy nghĩ về chết và sợ hãi nó. Nhưng có một khoảng trống giữa lúc này và khoảnh khắc khi chết sẽ đến, và trong suốt khoảng trống đó bạn có nhiều thời gian để lo âu, để lý lẽ. Bạn muốn mang sang đời kế tiếp – nếu có một đời kế tiếp – tất cả lo âu, ham muốn, hiểu biết mà bạn đã tích lũy, vì vậy bạn sáng chế những lý thuyết, hay bạn tin tưởng hình thức nào đó của vĩnh cửu. Đối với bạn chết là cái gì đó tách lìa khỏi sống. Chết ở đó, trong khi bạn ở đây, bận rộn bởi sống – lái một chiếc xe hơi, trải qua ái ân, cảm giác đói khát, đi làm việc, tích lũy hiểu biết, và vân vân. Bạn không muốn chết bởi vì bạn vẫn chưa viết xong quyển sách của bạn, hay bạn vẫn chưa biết cách đánh đàn vĩ cầm giỏi. Vì vậy bạn tách rời chết khỏi sống, và bạn nói, “Tôi sẽ hiểu rõ sống bây giờ, rồi sau đó tôi sẽ hiểu rõ chết.” Nhưng sống chết không tách lìa – và đó là việc đầu tiên phải hiểu rõ. Sống và chết là một, chúng liên quan mật thiết, và bạn không thể tách sống chết ra để cố gắng hiểu rõ một vấn đề riêng biệt. Nhưng hầu hết chúng ta đều làm việc đó. Chúng ta tách rời sống thành những cái ngăn kín mít không liên quan với nhau. Nếu bạn là một người kinh tế, vậy thì kinh tế là tất cả mà bạn quan tâm, và bạn chẳng còn biết bất kỳ điều gì khác. Nếu bạn là một bác sĩ chuyên về mũi họng, hay về tim, bạn sống trong lãnh vực giới hạn của hiểu biết đó suốt bốn mươi năm, và đó là thiên đàng của bạn sau khi bạn chết.

Đối xử với sống một cách phân chia là sống trong hỗn loạn, xung đột, đau khổ triền miên. Bạn phải thấy tổng thể của sống, và bạn có thể thấy tổng thể của nó chỉ khi nào có thương yêu, chỉ khi nào có tình yêu. Tình yêu là cách mạng duy nhất mà sẽ tạo ra trật tự. Chẳng tốt lành gì khi thâu lượm mỗi lúc một nhiều hiểu biết về toán học, về y khoa, về lịch sử, về kinh tế, và sau đó sắp xếp tất cả những mảnh vào cùng nhau; việc đó sẽ hoàn toàn vô ích. Nếu không có tình yêu, cách mạng chỉ dẫn đến sự tôn sùng chính thể, hay sự tôn sùng một hình ảnh, hay vô vàn thoái hóa bởi độc tài, và sự hủy diệt con người. Tương tự như thế, khi cái trí, bởi vì nó bị sợ hãi, đẩy chết ra thật xa và tách lìa nó khỏi đang sống hằng ngày, sự tách lìa đó chỉ nuôi dưỡng nhiều sợ hãi hơn, nhiều lo âu hơn, và vô số những lý thuyết về chết. Muốn hiểu rõ chết, bạn phải hiểu rõ sống. Nhưng sống không là sự tiếp tục của tư tưởng; chính sự tiếp tục này đã nuôi dưỡng tất cả đau khổ của chúng ta.

Vì vậy liệu cái trí có thể mang chết từ thật xa đến ngay lúc này? Bạn theo sát chứ? Thực ra chết không ở nơi nào đó thật xa; nó ở đây và tức khắc. Nó ở đây khi bạn đang nói chuyện, khi bạn đang vui vẻ, khi bạn đang lắng nghe, khi bạn đang đi làm. Nó ở đây mỗi giây phút của sống, giống như tình yêu. Nếu một lần bạn trực nhận sự kiện này, vậy thì bạn sẽ phát giác rằng không có sợ hãi chết gì cả. Người ta không sợ hãi cái không biết được nhưng sợ hãi mất đi cái đã được biết. Bạn sợ hãi mất đi gia đình của bạn, sợ hãi bị bỏ lại một mình, không còn bạn đồng hành; bạn sợ hãi sự đau khổ của cô độc, sợ hãi sống không có những trải nghiệm, những sở hữu mà bạn đã thâu lượm. Chính là cái đã được biết mà bạn sợ hãi buông bỏ nó đi. Cái đã được biết là ký ức, và cái trí bám vào ký ức đó. Nhưng ký ức chỉ là một vật máy móc – mà những cái máy vi tính đang thể hiện rất giỏi.

Muốn hiểu rõ bản chất lạ thường và vẻ đẹp của chết, phải có sự tự do khỏi cái đã được biết. Trong chết đi cái đã được biết là sự khởi đầu của hiểu rõ chết, bởi vì lúc đó cái trí được chuyển thành trong sáng, mới mẻ, và không có sợ hãi. Vì vậy người ta có thể thâm nhập vào trạng thái được gọi là chết đó. Con người thông minh hiểu rõ thời gian, tư tưởng, và đau khổ, và chỉ một mình anh ta có thể hiểu rõ chết. Cái trí đang chết đi mỗi giây phút, không bao giờ đang tích lũy, không bao giờ đang thâu lượm trải nghiệm, là hồn nhiên, và vậy là ở trong một trạng thái bất biến của tình yêu.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/11/2024(Xem: 243)
Quý Phật tử (bất bộ phái: theo Nam Tông, Phật Giáo Nguyên Thủy, theo Bắc Tông, hay Tịnh Độ Tông, Mật Tông vv) với lòng tin chân thành, nhất tâm hướng về Như Lai và Pháp của Như Lai, không một chút phân vân, không một chút nghi ngờ về Như Lai và Pháp của Như Lai, thời sẽ vui như hội trăng rằm quanh năm vì Chân Pháp của Thế Tôn là Pháp Quang, vượt xa ánh sáng mặt trời, mặt trăng, tỏa rạng khắp nơi, làm cho khai ngộ, mang lại niềm hỷ lạc cho bất kể hữu tình nào với tâm hân hoan tín thọ, và pháp thọ. Trong kho tàng Pháp Bảo đồ sộ của bậc Thiện Thệ, Bát Trai Giới thanh tịnh dù chỉ trong một ngày một đêm, sẽ mang lại công đức không thể luận bàn cho bất kể Quý Pháp hữu nào hân hoan tín thọ, vì với công đức chân thật này, sẽ tái sanh lên cõi trời, một trong sáu tầng trời dục giới, hoặc sẽ tái sanh về Tây Phương Cực Lạc tùy theo tâm nguyện của họ.
22/08/2024(Xem: 1064)
Khi thấy Đức A Di Đà Phật xuất hiện, Cụ Ông 80 tuổi, vào hai đêm trước ngày ra đi, mặc dù bị bệnh ung thư đại tràng giai đoạn cuối, vẫn mỉm cười niệm Nam Mô A Di Đà Phật; ngay trước giờ xả bỏ báo thân, Cụ Ông, lại một lần nữa, thấy Đức A Di Đà Phật hiện ra; và sau đó tỉnh táo, sáng suốt ra đi an lành. Tâm Tịnh và Hoa Chí cùng con cháu của Cụ có duyên lành hỗ trợ Cụ Niệm Phật suốt tám ngày và tám đêm, khai thị, khuyến khích, làm cho Cụ phấn chấn, đặc biệt, Tâm Tịnh đã tận mắt chứng kiến sự ra đi nhẹ nhàng của Cụ vào lúc 9.40 sáng ngày 11 tháng 07 Quý Mão (2023). Để kỷ niệm một năm giỗ đầu của Cụ, và như một lời hứa khả với quý đạo hữu Tịnh Độ, Tâm Tịnh xin hân hoan tường thuật lại những gì mắt thấy, tai nghe trong suốt thời gian trợ duyên Niệm Phật cùng với Cụ cho đến thời khắc ra đi, kể cả thời gian ban đầu khi nhập viện và thời gian hộ niệm sau khi tắt thở. Từ những gì diễn ra trong những ngày cùng Cụ Niệm Phật, có thể đúc kết thành 14 chỉ dấu sau đây, làm cơ sở cho niềm tin rằng Th
21/01/2024(Xem: 1738)
Tỉnh Thức Đối Diện với Bệnh tật và Cái Chết_Tỳ Kheo Analayo_Bình Anson dịch
06/06/2023(Xem: 7022)
Bất cứ trong một tôn giáo, một triết học nào, phần nhân sinh quan vẫn là quan trọng. Chúng ta theo một tôn giáo mà không biết quan niệm nhân sinh trong tôn giáo ấy như thế nào, thực là một khuyết điểm lớn lao. Ở đây, chúng ta chỉ riêng bàn về phần nhân sinh quan Phật giáo để tìm hiểu Phật giáo quan niệm về đời sống con người như thế nào ?
21/05/2023(Xem: 1944)
Con người thường sợ cái chết nên làm mọi cách để níu kéo sự sống, níu kéo bằng tiền bạc, bằng thuốc men, thức ăn, bằng các hoạt động thể chất. Việc giữ gìn, duy trì sự sống là một điều cơ bản mà bất cứ ai sống trên đời này cũng phải làm để mong mình sống lâu, sống thọ chứ không ai mong mình chết sớm, hay nói đúng hơn là ai cũng sợ cái chết bởi không có một loài động vật có máu huyết nào lại không sợ chết, nhưng sợ chết, không muốn chết thì con người vẫn không thể thoát được cái chết, cho nên thay vì sợ hãi thì chúng ta hãy tập đối diện với quy luật sinh tử như thế nào để vừa giữ được tinh thần lạc quan, vừa duy trì được sự sống của mình một cách trọn vẹn nhất.
22/03/2022(Xem: 3594)
Tôi không ngạc nhiên lắm khi biết dù tác phẩm Chết và Tái sinh ( Death & Rebirth ) đó TT Thích Nguyên Tạng soạn dịch ấn bản lần đầu tiên vào năm 2001 và được tái bản đến 9 lần rồi mà vẫn không đủ cung cấp, cho nên sắp tới Tu Viện Quảng Đức cho tái bản lần thứ 10 để cống hiến bạn đọc gần xa. May mắn thay trong thư viện tí hon của tôi có tác phẩm này được tái bản lần thứ bảy vào mùa Vu Lan báo Hiếu 2007 mà lời ngỏ của tác giả đã đánh động đến con tim của người đọc …qua câu chuyện Luật Sư Brendan Keilar sinh sống tại Melbourne / Australia đã bị bắn chết thật kinh hoàng khi tuổi mới 43 để trả giá cho hành động rất ngưỡng phục ( vì đã can thiệp cứu người).
02/12/2021(Xem: 19765)
Nam Mô A Di Đà Phật. Kính bạch Chư Tôn Thiền Đức, Kính thưa quý đồng hương Phật tử thân mến, Kể từ ngày 12/04/2020, nước Úc của chúng ta cũng như các nước khác trên toàn thế giới đã bắt đầu bị đại dịch Covid hoành hành và lây lan một cách nhanh chóng. Hai năm qua toàn thế giới đã phải chịu ảnh hưởng về mặt kinh tế, chính trị, xã hội, thương trường. Ngay cả đời sống tinh thần của mọi người dân cũng bị ảnh hưởng không ít, nhất là đối với những gia đình đã phải nhìn thấy người thân ra đi trong sự cô đơn lạnh lẽo, không người đưa tiễn. Biết bao hoàn cảnh đau thương... Tính đến hôm nay nước Úc của chúng ta đã được ổn định phần nào, trên 80% người dân đã được tiêm ngừa theo quy định của chính phủ, cũng như việc không còn phải lockdown, người dân được đi lại tự do giữa các tiểu bang cũng như được hội họp, sinh hoạt hội đoàn và tôn giáo. Trong đại dịch, 2 năm qua nước Úc số người bị nhiễm Covid lên đến 113,411 người và số người không may mắn đã ra đi vĩnh viễn là 1,346 người.
01/08/2021(Xem: 12445)
Chuông mõ gia trì là 2 pháp khí rất quan trọng trong nghi thức hành trì và tu tập mỗi ngày đối với người đệ tử Phật. Tiếng chuông, tiếng mõ rất là quen thuộc gần gũi trong sự hành trì tu tập hằng ngày của người Phật tử, nhất là Phật tử theo truyền thống Bắc tông. Phật tử theo truyền thống Nam tông trước kia thì không có gõ mõ, thỉnh chuông khi tụng kinh, nhưng bây giờ đã có chuông rồi, còn bên Bắc tông thì chuông mõ đã có từ ngàn xưa.
26/06/2021(Xem: 15161)
LỜI GIỚI THIỆU “Chết đi về đâu” là tuyển tập các bài pháp thoại của thầy Nhật Từ tại Hoa Kỳ, Úc châu và Việt Nam. Dựa vào kinh điển Phật giáo thuộc các truyền thống khác nhau, thầy Nhật Từ đã phân tích những trở ngại về tâm lí trước cái chết thường làm cho cái chết diễn ra sớm hơn và đau đớn hơn. Nếu chết được hiểu là tiến trình tự nhiên mà mỗi hữu thể đều phải trải qua thì nỗi sợ hãi về cái chết sẽ trở thành nỗi ám ảnh, trước nhất là từ hữu thức sau đó là từ vô thức, làm cho cuộc sống con người trở nên tẻ nhạt và đáng sợ.
01/11/2020(Xem: 19362)
1/Đệ nhất đại nguyện: quốc vô ác đạo. Đại nguyện thứ nhất: Cõi Cực-lạc không có các đường ác. Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy) 2/Đệ nhị đại nguyện: bất đọa ác đạo. Đại nguyện thứ hai: Chúng sinh ở cõi Cực-lạc không đọa vào các đường ác. Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy 3/ Đệ tam đại nguyện: thân chơn kim sắc. Đại nguyện thứ ba: Thân của chúng sinh ở cõi Cực-lạc đều có sắc vàng. Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy 4/ Đệ tứ đại nguyện: hình sắc tương đồng. Đại nguyện thứ tư: Hình sắc của chúng sinh ở cõi Cực-lạc đều bình đẳng, không đẹp xấu khác nhau. Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy 5/Đệ ngũ đại nguyện: túc mạng trí thông. Đại nguyện thứ năm: Chúng sinh ở cõi Cực-lạc đều có túc mạng thông, biết rõ các kiếp quá khứ. Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy)
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com