TRIẾT LÝ NHÀ PHẬT
Đoàn Trung Còn biên soạn, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính
Tổ sư thứ hai mươi bốn là Sư-tử Bồ-đề, người xứ Ca-bì-xa, miền Trung Ấn Độ, thuộc dòng tộc Bà-la-môn.
Khi thầy của ngài là Tổ sư thứ hai mươi ba, Hạc-lặc-na, truyền pháp cho ngài xong, có nói trước rằng: “Sau khi ta tịch năm mươi lăm, sẽ có nạn lớn đến cho thân ngươi”.
Về sau, quả nhiên có hai kẻ ngoại đạo là Ma-mục-đa và Đô-lạc-già có học tà thuật, muốn hại vua mà cướp ngôi. Họ giả làm tỳ-kheo, làm việc thích khách vua. Việc không thành, vua bắt được liền nghi cho các tỳ-kheo âm mưu tạo phản, giận dữ nói rằng: “Từ trước tới nay, chính vì ta kính tin Tam bảo cho nên mới gặp phải tai họa này.”
Vua bèn ra lệnh hủy phá chùa chiền, giết tăng chúng. Vua đích thân mang gươm đến trước mặt Tổ Sư-tử Bồ-đề, hỏi rằng:
“Thầy đã chứng được pháp Uẩn không chăng?”
Tổ sư đáp: “Đã chứng.”
“Vậy có lìa khỏisanh tử chăng?”
“Đã lìa khỏi.”
“Đã lìa khỏi sanh tử, xin thí cho tôi cái đầu.”
“Thân này còn chẳng phải của ta, có tiếc chi cái đầu.”
Vua liền vung gươm chặt đầu Tổ sư. Đầu rơi xuống đất, chỉ thấy chất sữa trắng phun ra. Ngay lúc ấy, cánh tay mặt của vua cũng tự rơi rụng xuống đất. Vua sanh bệnh, bảy ngày sau thì băng hà.
Tổ sư đã sớm biết việc ấy, nên trước đó đã trao y bát và truyền pháp cho ngài Bà-xá Tư-đa và dạy phải lánh ra khỏi nước để tránh nạn này. khi truyền pháp, ngài có bài kệ rằng:
Chánh thuyết tri kiến thì,
Tri kiến câu thị tâm.
Đương tâm tức tri kiến,
Tri kiến tức vu kim.
正說知見時
知見俱是心
當心即知見
知見即于今。
Dịch nghĩa
Mọi tri kiến lúc thuyết ra,
Hiển nhiên tri kiến đều là tự tâm.
Tâm là tri kiến phát âm,
Những tri kiến tức đương lâm trình bày.
Đoàn Trung Còn biên soạn, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính
V. Chư Tổ sư Tây Thiên
23.TỔ SƯ-TỬ BỒ-ĐỀ
師子菩提祖Tổ sư thứ hai mươi bốn là Sư-tử Bồ-đề, người xứ Ca-bì-xa, miền Trung Ấn Độ, thuộc dòng tộc Bà-la-môn.
Khi thầy của ngài là Tổ sư thứ hai mươi ba, Hạc-lặc-na, truyền pháp cho ngài xong, có nói trước rằng: “Sau khi ta tịch năm mươi lăm, sẽ có nạn lớn đến cho thân ngươi”.
Về sau, quả nhiên có hai kẻ ngoại đạo là Ma-mục-đa và Đô-lạc-già có học tà thuật, muốn hại vua mà cướp ngôi. Họ giả làm tỳ-kheo, làm việc thích khách vua. Việc không thành, vua bắt được liền nghi cho các tỳ-kheo âm mưu tạo phản, giận dữ nói rằng: “Từ trước tới nay, chính vì ta kính tin Tam bảo cho nên mới gặp phải tai họa này.”
Vua bèn ra lệnh hủy phá chùa chiền, giết tăng chúng. Vua đích thân mang gươm đến trước mặt Tổ Sư-tử Bồ-đề, hỏi rằng:
“Thầy đã chứng được pháp Uẩn không chăng?”
Tổ sư đáp: “Đã chứng.”
“Vậy có lìa khỏisanh tử chăng?”
“Đã lìa khỏi.”
“Đã lìa khỏi sanh tử, xin thí cho tôi cái đầu.”
“Thân này còn chẳng phải của ta, có tiếc chi cái đầu.”
Vua liền vung gươm chặt đầu Tổ sư. Đầu rơi xuống đất, chỉ thấy chất sữa trắng phun ra. Ngay lúc ấy, cánh tay mặt của vua cũng tự rơi rụng xuống đất. Vua sanh bệnh, bảy ngày sau thì băng hà.
Tổ sư đã sớm biết việc ấy, nên trước đó đã trao y bát và truyền pháp cho ngài Bà-xá Tư-đa và dạy phải lánh ra khỏi nước để tránh nạn này. khi truyền pháp, ngài có bài kệ rằng:
Chánh thuyết tri kiến thì,
Tri kiến câu thị tâm.
Đương tâm tức tri kiến,
Tri kiến tức vu kim.
正說知見時
知見俱是心
當心即知見
知見即于今。
Dịch nghĩa
Mọi tri kiến lúc thuyết ra,
Hiển nhiên tri kiến đều là tự tâm.
Tâm là tri kiến phát âm,
Những tri kiến tức đương lâm trình bày.
Gửi ý kiến của bạn