Bài thơ dưới đây là của ngài Tu-bồ-đề để lại. Ngài quê quán ở thành Xá-vệ, là con của một quan đại thần tên Xu-ma-na, cháu của nhà thương gia Cấp Cô Độc, người đã mua khu vườn Kỳ thọ mà cúng dường cho Phật và giáo hội. Ngài có tham dự trong việc mua vườn và xây dựng tinh xá lúc ấy. Cũng vào dịp đó, ngài xuất gia theo Phật. Chẳng bao lâu, ngài siêng năng học hỏi rất nhiều, nên được lên một địa vị khá cao trong hàng đệ tử Phật.
Một hôm, ngài đến thành Vương-xá, vua Tần-bà-sa-la có hứa chọn một cái tịnh thất cúng dường cho ngài, nhưng rồi lại quên. Ngài phải ở ngoài trời. Lúc ấy, do oai đức của ngài, vì không muốn cho ngài phải bị ướt lạnh nên trời không chịu mưa xuống, thành ra nắng hạn kéo dài làm dân chúng hoảng sợ. Họ bèn kéo nhau đến tâu với vua, vua hiểu tại sao xảy ra chuyện ấy, liền tức thời dựng cho ngài một cái am cỏ. Ngài vừa vào trong am, thì phía ngoài mưa đổ xuống như trút nước. người ta truyền rằng cái thảo am vua ban cho ngài rất đơn sơ, nhưng ngài cũng hài lòng. Ngài cảm việc ấy, có đọc bài thơ rằng:
Nương nơi am cỏ lúc sớm trưa,
Lửa lòng đã tắt, dục tâm chừa.
Nguyện lực vững bền, tâm chẳng thối,
Trời muốn đổ mưa thì cứ mưa.
Ngài Cốt-thi-ta sanh tại xứ Xá-vệ, thuộc dòng tộc Bà-la-môn. Nghe Phật thuyết pháp mà được cảm hóa, ngài quy y thọ giới xuất gia và được Phật yêu trọng lắm. Ngài có làm bài thơ này:
Quý thay là kẻ thoát trần,
Khỏi vòng danh lợi, nợ nần chi chi.
Nghiêm trang đằm thắm ai bì,
Mà lòng đạo đức vậy thì cao siêu.
Tâm tình đã dứt tánh kiêu,
Chẳng còn xao xác, chẳng điều lo toan,
Khác nào như lá rừng hoang,
Gặp cơn gió thổi rụng vàng khắp nơi!
Ngài Ban-na-ma-xa là con một người Bà-la-môn ở xứ Xá-vệ. Sau khi bà vợ sanh ra được một trai, ngài bỏ việc trần mà đi tu. Bà vợ hết sức cản ngăn, nhưng không được. Bà trang điểm rất xinh đẹp, rồi tìm đến chỗ ngài đang ngụ để cầu xin ngài trở về. Ngài đáp với vợ cũ bằng một bài kệ rằng:
Đã toan lánh khỏi bụi hồng,
Sự đời đã tắt lửa lòng từ đây.
Đạo mầu cần luyện cho hay,
Tâm thần chủ định, sắc này mà chi?
Mắt trông thấy biển xanh rì,
Khi trồi, khi sụp, sóng thì lao xao,
Cuộc đời đâu có khác nào!
Sanh ra tại xứ Tỳ-xá-ly, Câu-tỷ-huy-hà-ranh thuộc về dòng hoàng phái. Ông thân của ngài là một nhà vua ở đất Hoa-di.
Có một lúc, trong xứ phải cơn nắng hạn và bệnh truyền nhiễm, dân chúng lấy làm ta thán, may nhờ có Phật cứu độ mà làm cho có mưa và hết bệnh độc. Ngài thấy vậy, bèn quy y Tam bảo.
Ngài sống trong một cái am tranh cũ rách và chuyên lo học đạo lý. Một hôm, ngài có ý cất một cái thất mới, nhưng có một vị thiên tử cõi trời hiện xuống, đọc một bài kệ làm cho ngài bỏ ý muốn ấy đi và khuyến khích cho ngài tinh cần học đạo hơn nữa. Về sau ngài rất thường đọc lại bài kệ ấy:
Người ơi, “chùa rách, Phật vàng”
Sao người lại muốn phụ phàng cảnh xưa?
Am dù nóc cũ, vách thưa,
Nhưng còn che nắng, che mưa lắm ngày.
Nay người cất lại chi đây?
Vì ngôi thất mới thêm rày mối lo.
Ngài Ma-na-hoa sanh tại xứ Xá-vệ. Khi lên bảy tuổi, ngài mới lần đầu thấy một người già, một người bệnh và một người chết. Ngài lấy làm lo sợ lắm, bèn chuyên về Phật học và nhập đạo làm một vị tăng. Các bạn thấy ngài còn trẻ tuổi thì lấy làm lạ. Ngài bèn nói lên suy nghĩ của mình bằng một bài kệ rằng:
Thấy người chịu khổ ta lo thay:
Kẻ già, kẻ bệnh, kẻ chết rày.
Sự thế chẳng qua là bể khổ,
Nên ta lìa tục, lánh vui say,
Ngài A-su-na sanh tại xứ Xá-vệ, bỏ nhà đi tu từ lúc nhỏ, nhưng theo phái ngoại đạo Se-na. Ngài không lấy làm thỏa mãn với giáo lý do đạo này truyền bá. Ngài bèn bỏ đạo ấy mà quy y Phật pháp, dự hàng tăng chúng. Sau khi gặp Phật ngài đọc lên bài thơ rằng:
Duyên lành được gặp Thế Tôn,
Từ nay mới đặng tâm hồn vững cho.
Từ nay ta hết sầu lo,
Qua biển sanh tử, đến bờ bên kia.
Không còn sợ sóng trần lao,
Nhờ pháp Tứ đế, thanh cao soi đường.
Ngài Ê-răn-nã-cá-ni là con của vị thượng quan trong triều vua nước Câu-tát-la. Ông thân ngài về hưu, lẽ ra ngài lên thay thế giữ chức quan ấy. Nhưng ngài muốn xuất gia theo Phật, nên nhường chức tước lại cho người em. Ngài có viết bài kệ sau này mà gởi cho em, khuyên hãy từ bỏ đường công danh mà theo tu tập. Người em nghe lời và được Phật nhận cho xuất gia.
Thời giờ thấm thoát như bay,
Đã qua, qua mất, khôn tày đón ngăn.
Đêm thâu ngày lụn mấy lần,
Mà cơn sóng tạm đã gần muốn lui.
Một phen nắm đất lấp vùi,
Bấy giờ đời mộng phủi rồi sự dương.
Kiếp người khác thể nước nguồn,
Trên non đổ xuống chảy luôn biển hồ.
Nhưng mà lắm kẻ hồ đồ,
Mãi gây nghiệp ác, tội vô thêm dày,
Ở đời có trả bởi vay,
Bão càng ghê gớm, trước gây tại mình.
Đại đức Tỳ-ma-la sanh tại xứ Ba-la-nại, con một nhà Bà-la-môn. Ngài nghe đức A-mật-ta luận về giáo pháp của Phật, rất ham mộ, liền xuất gia nhập đạo. Ngài có làm bài kệ sau này:
Làm người khó chọn bạn lành,
Hiền từ thì ít, dữ ganh thì nhiều.
May mà gặp được người yêu,
Lời vàng bạn ngọc mến chìu mới nên.
Một lòng ngay thật vững bền,
Ở cho có đức là nền phước cao.
Gặp cơn biển cả ba đào,
Mà đeo ván mỏng, thế nào khỏi nguy?
Như người tánh nết nhu mì
Theo cùng đứa ác lắm khi cũng chìm.
Vậy nên kết bạn khéo tìm,
Lánh phường biếng nhác,
bất nghiêm, dở dàng.
Hãy gần những bậc đoan trang,
Những nhà hiền đức,
những trang thoát trần,
Gần người cầu đạo xả thân,
Gần ai là đấng cứu nhân độ đời.
Gần người trí hóa rạng ngời,
Tham thiền đại định cõi trời tới lui.
Ngài Bu-ta là con một vị quan tòa xứ Xá-kê-ta. Nhân một hôm nghe Phật thuyết pháp, ngài bèn xin nhập đạo, dự hàng Tỳ-kheo. Ngài ở trong động đá gần bên khe vắng. Một hôm ngài về thăm, cha mẹ ân cần lưu giữ ngài ở lại nhà, nhưng ngài từ chối và đọc bài kệ sau này, cho thấy ngài mộ cảnh thanh vắng trong hang động hơn:
Trong khi mây kéo tối mù,
Bầu trời u ám mưa to xối đầy,
Ngồi trong cửa động một thầy,
Tham thiền, định trí thích rày biết bao!
Bên khe nước chảy rì rào,
Dưới thì hoa cỏ, trên cao núi rừng.
Một mình ý định, tâm ngưng,
Thấy lòng khoan khoái, càng mừng, càng ưa.
Ngài Ê-cá-huy-hà-ri-da khi chưa nhập đạo chính là hoàng tử Tích-xa, em vua A-dục.
Một hôm ngài đi săn, thấy một vị tỳ-kheo ngồi dưới gốc cây, phong thái uy nghi, ngài lấy làm cảm phục, bèn nhất định bỏ trần tục mà vào tu trong rừng núi. Ngài đem ý kiến mình mà nói lại với người anh là vua A-dục bằng một bài kệ như sau này:
Trên rừng bốn phía lặng yên,
Trước sau chẳng thấy
thoáng ngang bóng người.
Cảnh tình vui thích thảnh thơi,
Đi đi lại lại tươi cười mình ta.
Phật ngài vốn thích rừng già,
Cùng là sư đạo muốn xa cõi đời.
Tới đây ý chí liệu bài,
Dốc lòng an dưỡng ở nơi rừng thiền.
Nương mình trong chốn động tiên
Ngày ngày tu luyện cho hiền tánh tâm.
Một mình ở giữa sơn lâm,
Hết khi tưởng đạo lại tầm xem hoa.
Bao giờ tới mục đích ta?
Bao giờ tự tại thoát ra lưới phiền?
Đức Ta-la-bu-ta vốn là chủ nhân một gánh hát. Chính ngài cũng là một kép hát. Một hôm, khi đi hát bên thành Vương-xá, ngài gặp Phật, bèn hỏi về số kiếp của gánh hát về đời sau. Phật giải đáp rằng: Kẻ nào dùng những tình tự lả lơi mà khêu gợi lòng dục của người khác, thì đời sau sẽ phải chịu cảnh nghèo hèn khổ sở. Đức Ta-la-bu-ta được tỉnh ngộ, bèn nhập hàng đệ tử xuất gia.
Về sau, ngài tu tập tiến bộ rất nhiều. Muốn nói lên tấm lòng trong sạch của mình, ngài có làm một bài kệ như dưới đây:
Cuộc đời thay đổi không chừng.
Hết cơn giàu thịnh, đến lần gian nguy.
Chi bằng bỏ hết một khi,
Náu nương động đá trụ trì am mây.
Nâu sòng sơ sịa mà hay,
Chẳng tham vì của, chẳng say vì tình.
Chẳng còn ham chuộng lợi danh,
Chẳng thương, chẳng ghét,
chẳng ganh làm gì.
Dốc lòng giữ đạo từ bi,
Thì nhìn thân thể là bì xấu xa;
Chứa nhiều tội báo oan gia,
Lại mang nỗi bệnh, nỗi già, nỗi vong.
Chí nguyền dứt sự hải hùng,
Một mình một bóng thong dong giữa rừng.
Bao giờ cho đạt chí mong?
Ni sư Đề-hi-ra là một vị rất cần chuyên cần phận sự và trau giồi đạo đức. Khi đã tu đắc đạo, bà có ngâm bài kệ dưới đây:
Tâm tình trau luyện bấy lâu nay,
Đạo đức cao siêu đã đủ đầy.
Còn một kiếp này mang lốt thịt,
Kìa kìa giặc quỷ đã xa bay.
Ni sư Tăng-già là một người đã dứt bỏ nhà cửa thân quyến mà đi tu. Bà có làm một bài kệ dưới đây bày tỏ sự đắc đạo:
Của tiền nhà cửa bỏ rồi.
Thân bằng cố hữu cũng thôi chẳng gần,
Con thơ đành hết quây quần,
Ông bà, cha mẹ, mộ phần đều xa.
Một phen giũ sạch lòng tà,
Dứt tình tham muốn, lìa mà nợ duyên.
Nhờ nương đạo đức làm đèn,
Tâm đà sáng rỡ, dục liền sạch tan.
Từ đây là cảnh an nhàn,
Trong lòng yên tịnh, Niết-bàn đâu xa!
Bà Sen-ta thuộc về hoàng phái họ Ly-sa. Một hôm, nghe Phật thuyết pháp, bà tỉnh ngộ, xin quy y theo Phật. Bà tiến bộ trên đường đạo đức rất nhanh và tinh thần trở nên cao thượng lắm. Sau bà có làm bài kệ dưới đây:
Gắng công tu luyện theo thầy,
Nhờ ơn chỉ giáo giải bày bấy lâu.
Tâm thần hiểu thấu phép mầu:
Bảy phần giác ý cao sâu, thâm trầm.
Bảy điều ấy khéo suy tầm
Thi hành cho chánh, đủ làm Phật tiên.
Nghĩ mình có lắm phần duyên,
Bây giờ mới thấy nhãn tiền Thế Tôn.
Hay là mình hết sanh tồn,
Đời này đời chót còn dồn lại đây.
Thoát vòng sanh tử từ nay.
Chẳng còn lăn lộn, loay hoay cõi trần,
Niết-bàn nhàn lạc thân tâm!
Theo trong kinh sách ghi lại, bà Đăng-ti-ca hồi đời quá khứ là một vị thủy thần miền sông Săn-đa-bá-da. Một hôm, bà thấy một đức Phật ngồi yên tịnh tại một cội cây, bà đến lạy chào và dâng hoa cho Phật. Nhờ công đức ấy, sau bà sanh ra làm tiên và làm người sang trọng. Sau rốt, đến đời Phật hiện tại, bà đầu thai vào nhà một người Bà-la-môn ở thành Xá-vệ làm quốc sư. Nhờ có bà Ma-ha Ba-xà-ba-đề, dì của đức Phật giới thiệu, bà được nhập hàng tỳ-kheo ni. Một hôm bà đến thành Vương-xá, nhân lúc đi núi, bà ngâm một bài kệ dưới đây:
Trên non vừa tỉnh giấc trưa,
Thấy con voi lớn cũng vừa tắm xong.
Voi liền ra khỏi bờ sông,
Bỗng đâu có kẻ chạy xông lại gần.
Tay quơ chỉa, miệng la rân,
Thét voi bởi phải quị chân co giò.
Voi nghe có tiếng quát to,
Bèn vâng lời dạy mà co chân liền.
Kẻ kia ngồi vững trên yên,
Mặc tình sai khiến, chẳng thiên vị gì,
Bấy giờ mắt thấy việc ni,
Vật chi cứng cỏi lắm khi cũng mềm!
Voi to, chủ lại khéo kềm,
Hết ngày la thét thì đêm dỗ dành.
Ta bèn đi khắp rừng xanh,
Trong lòng vẫn nhớ rành rành không nguôi.
Tâm tình chẳng phải dễ duôi,
Cần trau luyện kỹ mới xuôi theo mình.
Ngài Phật-đà-gô-sa là một vị đại tổ sư, từng làm vẻ vang cho Phật giáo Tích Lan. Ngài sanh ở Thiên Trúc, gần xứ Già-da, vào thế kỷ thứ tư Dương lịch. Ngài vốn thuộc dòng tộc Bà-la-môn, sau bỏ đạo Bà-la-môn mà theo đạo Phật và đến đảo Tích lan nhằm đời vua Ma-ha-nả-mân. Ngài tu ở ngôi Đại tinh xá, là cảnh chùa nổi tiếng hơn hết về Phật học tại đảo quốc này.
Ngài ở đó mà soạn bộ Huy-sử-đi-mã-ga, là một bộ sách rất dày công nghiên cứu, nói về lý đạo. Và ngài có giải thích nhiều đoạn trong ba tạng kinh điển. Khi gần tịch, ngài trở về Ấn Độ. Có sách còn nói rằng ngài sang Miến Điện mà truyền bá đạo Phật.
Công nghiệp ngài to lớn lắm, và Phật giáo Tiểu thừa khắp cõi Đông dương đều thờ kính ngài, xem ngài như một Đại giáo sư, một vị Tổ sư rất đáng kính phục.
Tổ Phật-đà-gô-sa có luận về tánh nóng giận rằng:
“Anh ơi, anh đã xuất gia lánh tục mà anh còn giận người kia, anh hãy nói cho tôi biết anh giận chỗ nào? Có phải anh giận tóc, giận lông, giận móng tay, móng chân... chăng? Hay anh giận chất đất ở trong tóc, hay anh giận chất nước, chất lửa, chất khí trong đó? Hay anh giận năm phần trong người, sáu trần, sáu thức?
“Hay anh giận hình thể? Hay anh giận tất cả những cái sắc, tưởng, thọ, hành, thức? Hay anh giận một cái quan, một cái trần, hay một cái thức nào?
“Một người đã biết phân tách ra như vậy thì không thấy chỗ nào chứa sự giận, cũng không thấy chỗ nào để hột cải trên đầu một mũi kim, cũng không thấy hình dạng gì trên trời.”