TRIẾT LÝ NHÀ PHẬT
Đoàn Trung Còn biên soạn, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính
Tổ sư đời thứ hai mươi là ngài Xà-dạ-đa người miền Bắc Ấn Độ, trí huệ cao sâu, hóa độ được rất nhiều người.
Trong quuyển “Phật Tổ chánh tông đạo ảnh” có ghi lại rằng:
Khi gặp Tổ Cưu-ma-la-đa vào nước mình, ngài Xà-dạ-đa hỏi rằng:
“Cha mẹ tôi ở nhà thuở nay có lòng tin mộ Tam bảo, thế mà thường vướng phải tật bệnh luôn; còn hễ khuếch trương làm việc gì thì đều thất bại cả. Gần nhà tôi lại có một người chiên-đà-la mà thân thể được tráng kiện, làm việc chi cũng được toại ý. Chẳng biết kẻ ấy có phước chi và chúng tôi có tội gì?”
Ngài Cưu-ma-la-đa đáp rằng:
“Nhân quả thiện ác vay trả trong ba đời. Kẻ phàm phu chỉ thấy người nhân từ chết yểu, kẻ ác sống thọ, hoặc kẻ vô ân gặp may mắn, người có nghĩa phải hoạn nạn, bèn cho là không có nhân quả, tội phước. Họ có biết đâu ảnh hưởng của việc thiện ác đeo mãi theo mình, dẫu cho đến muôn kiếp cũng không tan mất.”
Nghe xong, Xà-dạ-đa liền dứt sự nghi ngờ. Tổ Cưu-ma-la-đa lại giảng thêm rằng:
“Tuy ngươi đã tin nghiệp báo trong ba đời, nhưng mà chưa rõ rằng nghiệp quả cũng là theo nơi chỗ mê lầm mà ra. Nhân nơi thức mà lầm, thức tùy theo chỗ không giác ngộ, chỗ không giác ngộ tùy theo nơi tâm. Mà bổn tánh của tâm thì thanh tịnh, không sanh diệt, không tạo tác, không báo ứng, không hơn thua, tịch nhiên, linh nhiên. Nếu ngươi nhập diệu pháp môn ấy thì ngươi với chư Phật đâu có khác gì? Khi ấy các sự thiện ác, vô vi, hữu vi đều là mộng huyễn cả.”
Liền đó, Xà-dạ-đa phát khởi túc huệ, thọ pháp với Tổ sư và sau được truyền làm Tổ đời thứ 20.
Tổ là người trí huệ sâu rộng, hóa đạo được vô số đệ tử và tín đồ. Ngài đến thành La-phiệt, xiển dương giáo lý Đại thừa. Trong hàng đệ tử, có một vị biện luận cao tài hơn hết tên là Bà-tu-bàn-đầu. Người này hỏi rằng: “Tự ngài đã đắc pháp Vô não hay chưa?”
Tổ Xà-dạ-đa đáp: “Ta nhớ rằng đã bảy kiếp rồi, ta thường sanh nơi An lạc quốc. Mỗi khi ta nghe lời ác, dường như gió thoảng, tiếng dội, không động được ta. Huống chi nay ta được uống nước cam lộ vô thượng, thì làm sao còn sanh nhiệt não được nữa?”
Bà-tu-bàn-đầu thưa: “Xin đấng đại bi đem diệu đạo mà truyền dạy cho con.”
Tổ sư nói:
“Ngươi đã trồng cội lành từ lâu, sẽ là người tiếp nối ta mà truyền mối đạo. Hãy nghe bài kệ này:
Ngôn hạ hiệp vô sanh,
Đồng ư pháp giới tánh.
Nhược năng như thị giải,
Thông đạt sự lý cánh.
言下合無生
同於法界性
若能如是解
通達事理竟。
Dịch nghĩa
Nghe giảng, hiểu lẽ vô sanh,
Tánh linh cõi pháp với mình như nhau.
Lẽ như vậy nếu hiểu làu,
Đạt thông sự lý cạn sâu đủ rồi.
Đoàn Trung Còn biên soạn, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính
V. Chư Tổ sư Tây Thiên
19.TỔ XÀ-DẠ-ĐA
闍夜多祖Tổ sư đời thứ hai mươi là ngài Xà-dạ-đa người miền Bắc Ấn Độ, trí huệ cao sâu, hóa độ được rất nhiều người.
Trong quuyển “Phật Tổ chánh tông đạo ảnh” có ghi lại rằng:
Khi gặp Tổ Cưu-ma-la-đa vào nước mình, ngài Xà-dạ-đa hỏi rằng:
“Cha mẹ tôi ở nhà thuở nay có lòng tin mộ Tam bảo, thế mà thường vướng phải tật bệnh luôn; còn hễ khuếch trương làm việc gì thì đều thất bại cả. Gần nhà tôi lại có một người chiên-đà-la mà thân thể được tráng kiện, làm việc chi cũng được toại ý. Chẳng biết kẻ ấy có phước chi và chúng tôi có tội gì?”
Ngài Cưu-ma-la-đa đáp rằng:
“Nhân quả thiện ác vay trả trong ba đời. Kẻ phàm phu chỉ thấy người nhân từ chết yểu, kẻ ác sống thọ, hoặc kẻ vô ân gặp may mắn, người có nghĩa phải hoạn nạn, bèn cho là không có nhân quả, tội phước. Họ có biết đâu ảnh hưởng của việc thiện ác đeo mãi theo mình, dẫu cho đến muôn kiếp cũng không tan mất.”
Nghe xong, Xà-dạ-đa liền dứt sự nghi ngờ. Tổ Cưu-ma-la-đa lại giảng thêm rằng:
“Tuy ngươi đã tin nghiệp báo trong ba đời, nhưng mà chưa rõ rằng nghiệp quả cũng là theo nơi chỗ mê lầm mà ra. Nhân nơi thức mà lầm, thức tùy theo chỗ không giác ngộ, chỗ không giác ngộ tùy theo nơi tâm. Mà bổn tánh của tâm thì thanh tịnh, không sanh diệt, không tạo tác, không báo ứng, không hơn thua, tịch nhiên, linh nhiên. Nếu ngươi nhập diệu pháp môn ấy thì ngươi với chư Phật đâu có khác gì? Khi ấy các sự thiện ác, vô vi, hữu vi đều là mộng huyễn cả.”
Liền đó, Xà-dạ-đa phát khởi túc huệ, thọ pháp với Tổ sư và sau được truyền làm Tổ đời thứ 20.
Tổ là người trí huệ sâu rộng, hóa đạo được vô số đệ tử và tín đồ. Ngài đến thành La-phiệt, xiển dương giáo lý Đại thừa. Trong hàng đệ tử, có một vị biện luận cao tài hơn hết tên là Bà-tu-bàn-đầu. Người này hỏi rằng: “Tự ngài đã đắc pháp Vô não hay chưa?”
Tổ Xà-dạ-đa đáp: “Ta nhớ rằng đã bảy kiếp rồi, ta thường sanh nơi An lạc quốc. Mỗi khi ta nghe lời ác, dường như gió thoảng, tiếng dội, không động được ta. Huống chi nay ta được uống nước cam lộ vô thượng, thì làm sao còn sanh nhiệt não được nữa?”
Bà-tu-bàn-đầu thưa: “Xin đấng đại bi đem diệu đạo mà truyền dạy cho con.”
Tổ sư nói:
“Ngươi đã trồng cội lành từ lâu, sẽ là người tiếp nối ta mà truyền mối đạo. Hãy nghe bài kệ này:
Ngôn hạ hiệp vô sanh,
Đồng ư pháp giới tánh.
Nhược năng như thị giải,
Thông đạt sự lý cánh.
言下合無生
同於法界性
若能如是解
通達事理竟。
Dịch nghĩa
Nghe giảng, hiểu lẽ vô sanh,
Tánh linh cõi pháp với mình như nhau.
Lẽ như vậy nếu hiểu làu,
Đạt thông sự lý cạn sâu đủ rồi.
Gửi ý kiến của bạn