Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

12. Tổ A-na-bồ-đề

12/03/201102:44(Xem: 4526)
12. Tổ A-na-bồ-đề

TRIẾT LÝ NHÀ PHẬT
Đoàn Trung Còn biên soạn, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính

V. Chư Tổ sư Tây Thiên

12.

TỔ A-NA BỒ-ĐỀ

阿那菩提祖

Tổ sư sanh ra ở xứ Ba-la-nại, thuộc dòng tộc Bà-la-môn. Ngài vốn là một học giả rất uyên thâm về văn chương, triết lý và mỹ thuật, thường được nhiều người biết đến hơn với danh hiệu là Bồ-tát Mã Minh. Ngài từng làm chức Đạo sư, cố vấn tinh thần ở triều Đại đế Ca-nhị-sắc-ca. Lúc ấy là khoảng đầu thế kỷ thứ hai Dương lịch, công nghiệp của ngài đã rực rỡ lắm rồi. Trong nền văn chương Phật giáo Đại thừa, tên tuổi ngài nổi bật lên trên hết. Ngài là người học Phật, mà vua Ca-nhị-sắc-ca, người bạn tinh thần của ngài, lại cũng là một người hâm mộ Phật giáo, nên ngài có nhiều điều kiện để khảo cứu kinh sách và truyền bá tư tưởng cho chúng dân.

Hai con người kiệt xuất ấy cùng hiệp sức mà làm cho triều vua Ca-nhị-sắc-ca trở thành ra một thời kỳ vẻ vang về Phật học. Hai thế kỷ trước, đã có nhà vua Ménandre hộ trì tăng chúng. Lúc này lại có vua Ca-nhị-sắc-ca là một nhà vua trọng đạo kính tăng. Lại nhờ có ngài Mã Minh xiển dương chánh giáo, nên nhà vua làm được rất nhiều điều công ích. Vua cho xây dựng nhiều tháp thờ dấu tích của Phật, xây dựng chùa ở các địa phương cho tăng chúng có chỗ tu học, tụng niệm. Vua còn cho đúc tượng Phật và khi đúc tiền còn cho in hình Phật lên đó nữa.

Kinh sách do Mã Minh Đại sĩ viết, về sau người ta in bằng chữ Phạn đến nay thất lạc rất nhiều, một số chỉ còn những bản đã dịch sang chữ Hán mà thôi. Trong số đó có bộ Phật sở hành tán được viết theo lối ca kệ, đến nay vẫn còn. Trong sách ấy kể rõ lịch sử đức Phật Thích-ca từ khi đản sanh cho đến khi thành Chánh giác. Đây là bộ Phật sử sớm nhất bằng Phạn ngữ, chỉ tiếc là nguyên tác Phạn ngữ không còn nữa. Tương truyền rằng bộ Đại thừa khởi tín luận cũng là do ngài soạn, mặc dù có nhiều học giả cho rằng bộ ấy xuất hiện quá xa về sau này nên có thể là tác phẩm của Phật giáo Trung Quốc.

Ngài Mã Minh có soạn bộ Sutrlamkra là một bộ sách đã có dịch ra chữ Hán và bản Phạn ngữ cũng vẫn còn. Vào đầu thế kỷ thứ hai mà soạn bộ Sutrlamkra quả thật là một công trình vĩ đại, cũng là dấu hiệu cho thấy rằng Phật giáo Đại thừa sắp đến giai đoạn thịnh hành vậy. Dưới đây xin trích dịch một số bài trong bộ sách này để giới thiệu cùng quý độc giả.

MỰC TRUNG

Ta nhờ trí huệ trau dồi,

Nên đường lầm lạc tránh rồi nẻo xa.

Làm người biết rõ chánh tà,

Cần gì hành xác mới là chân tu.



Muốn cho thấu đạt huệ mầu,

Trước là giữ Giới, kế sau Định thần.

Ta đây sống ở cõi trần,

Đã toan thoát nạn thì cần dưỡng tâm.



Phải nên ăn uống vừa tầm,

Áo quần đủ ấm, giường nằm thảnh thơi,

Nhưng mà không lấy làm chơi,

Không ham no ấm, nghỉ ngơi quá đà.



Tránh xa hai mức vượt phần,

Chớ ưa nóng nảy, chớ cầu lạnh thân,

Đừng gần với lửa cháy rần,

Cũng đừng ở chỗ tuyết vây quanh mình.



Ai mà biết cách dưỡng sinh,

Cuộc đời được khỏi gập ghềnh, lao xao.



SỰ BỐ THÍ



Con người chẳng hiểu làm doan,

Hễ nghe bố thí thì toan cho liền,

Nhưng trong cách giúp của tiền,

Ai mà biết giúp, phước hiền mới cao.



Ta từng để mắt trông vào,

Thấy cha cùng mẹ, đồng bào giúp nhau.

Mọi người cố ý về sau,

Mong chờ món nợ trả vào tận nơi.



Nếu mình biết thí lâu dài,

Ở đời tránh khỏi nạn tai dập dồn.

Lòng lành bố thí luôn luôn,

Thì phần phước lại như luồn bóng theo.



Đi đâu cũng khỏi hiểm nghèo,

Dẫu cho cảnh khó, lái lèo cũng yên.

Gió, mưa, tuyết, lạnh liên miên,

Nhưng nhờ bố thí mà yên ổn lòng,



Nhằm khi phải bước xa trông,

Có đồ vật dụng là lòng thương yêu,

Trong cơn mệt nhọc buồn hiu,

Mình mà bố thí đỡ nhiều phần suy.



Giữa khi đường sá hiểm nguy,

Tấm lòng bố đức, bạn đi với mình.

Rủi cơn nạn khổ thình lình,

Lòng từ bố thí sức lành cứu cho.



Hoặc xa giặc nghịch, cường đồ,

Làm doan là có gươm to đỡ liền.

Phải cơn bịnh hoạn chẳng hiền

Đức lành là món thuốc tiên cứu thường.



Đến khi qua nẻo hố hang,

Lòng nhân là gậy đỡ đàng vững chân.





HAI NGƯỜI ĐÀN BÀ ĂN XOÀI



Hai người đàn bà kia, mỗi người được mấy trái xoài.

Một người ăn trái rồi vất bỏ hạt, còn người kia ăn xong lại giữ hạt. Người sau này thấy xoài ăn rất ngon, mới đem hạt ra trồng ngoài chỗ đất tốt. Người trông nom và năng tưới cây. Về sau được rất nhiều trái ngon.

Ở đời cũng thế, có nhiều biết người gieo giống tốt. Họ gieo được nhiều nhân tốt thì về sau họ có quả tốt và được hưởng quả ngon. Còn người đàn bà ăn trái mà không giữ hạt giống, có khác nào những người không hiểu nghiệp quả là gì, nên không lo gieo cấy quả lành, đến sau hối hận thì đã muộn rồi.

Nên có bài kệ rằng:

Kìa người được hưởng quả ngon,

Ăn rồi liệng hột, chẳng khôn đâu là.

Đến sau nhìn thấy người ta,

Hưởng nhiều quả tốt, lòng mà tiếc than.

Còn người gieo hạt chứa chan,

Quả ngon là phước lo toan bởi mình.

Vui thay kẻ chứa đức lành!





SỰ GIẢI THOÁT



Phật rằng có ái, có ly,

Đã thương thì sớm muộn gì cũng xa.

Vô thường, số mạng người ta

Cùng trong muôn vật chịu là luật chung.



Xem qua, ta luống hãi hùng,

Khắp trong Tam giới cháy bùng như than.

Người yêu ta đến số ngàn,

Người mà ta mến cũng tràn khắp nơi.



Nhưng ta có thể tách rời,

Cam lòng ly biệt những người yêu thương.

Cõi đời là chốn ngục đường,

Là nơi u ám, là trường nạn nguy.



Con người chẳng biết nghĩ suy,

Cứ ham thương mến, dứt đi không đành,

Chết kia nào có vị tình,

Lại mong đánh đổ, tranh giành, cướp đi.



Yêu nhau ví chẳng biệt ly,

Cần chi giải thoát tu trì nữa chăng?

Càng nhiều âu yếm lăng xăng,

Thì giờ vĩnh quyết lại càng đến mau.



Hiền nhân là đấng chí cao,

Tìm đường giải thoát, chẳng cầu trí ai.



BÌNH ĐẲNG TRƯỚC PHẬT PHÁP



Thế tôn là đấng Đại bi,

Sang giàu, nghèo khó chẳng vì chẳng phân.

Phái môn, giai cấp chẳng cần,

Chỉ coi theo nghiệp kiếp trần đã qua.



Ai gây tội lỗi gian tà,

Khó trông giải thoát đặng ra cõi ngoài.

Sanh, già, bệnh, chết, bi ai,

Cùng là vui, khổ chung vai ở đời.



Bà-la-môn được thảnh thơi,

Còn người các cấp sao thời lại không?

Bà-la-môn học rất thông,

Còn người các cấp cũng trông biết nhiều.



Qua sông, chỗ cạn thuận chiều,

Bà-la-môn, các cấp đều được đi.

Bà-la-môn động tác chi,

Người trong các cấp cũng bì dự lây.



Qui y theo Phật từ đây,

Vì chưng Phật pháp chẳng tây vị gì.

Công bình với các tăng, ni,

Giúp trong dân chúng, hộ trì các nơi.



Chẳng như ngoại đạo dối đời,

Lạc lầm, tăm tối, chia rời chúng sanh.

Lấy lòng bác ái công minh,

Chẳng hề thóa mạ, ghét khinh ai nào.



Đến khi thuyết giáo thanh cao,

Đem điều công lý chỉ vào tận nơi.

Đạo ta ngay thẳng, rạng ngời,

Ấy là đường chánh giúp đời, giúp dân.



Chợ đông bán đủ thứ cần,

Đạo ta cũng cả ngàn phần món mua.

Ta không so tính phân bua,

Không chia giai cấp, hơn, thua, hèn, hào.



Đạo ta chẳng khác suối trào,

Nước trong lại ngọt, cấp nào cũng tôn:

Sát-đế-lỵ, Bà-la-môn,

Thủ-đà, Phệ-xá ôn tồn uống theo.



Lựa là nhân loại bấy nhiêu,

Chúng sanh tất cả cũng đều uống đa.

Chẳng riêng nam, nữ xuất gia,

Đạo ta là để giúp qua toàn cầu,



Tiên, phàm chi khỏi khổ đau,

Ta cho linh dược về sau thì lành.





Tổ Mã Minh trong khi đi giáo hóa có gặp một nhà đạo trưởng trong phái ngoại đạo tên là Ca-tỳ-ma-la. Người này dùng tà thuật hóa ra một con rồng vàng lớn, làm chấn động cả vùng, muốn làm cho Tổ phải sợ sệt. Tổ ngồi điềm nhiên, rồng chẳng làm hại chi được. Ca-tỳ-ma-la lại dở ra nhiều tà thuật nữa, nhưng đều bị Tổ hàng phục. Cuối cùng ông này liền chịu phục, lễ bái Tổ mà cầu xin được xuất gia theo học Phật.

Về sau, Tổ phó chúc lại cho Ca-tỳ-ma-la nối tiếp mà làm Tổ đời thứ mười ba. Có bài kệ truyền pháp rằng:

Ẩn, hiển tức bổn pháp,

Minh, ám nguyên bất nhị.

Kim phó ngộ liễu pháp,

Phi thủ diệc phi ly.



Dịch nghĩa

Ẩn hiện đều là gốc pháp,

Sáng tối vốn thật chẳng hai.

Nay truyền trao pháp liễu ngộ,

Chẳng giữ, cũng chẳng lìa bỏ.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
04/06/2024(Xem: 2725)
Cùng toàn thể giới tử thọ trì Bát quan trai giới một ngày một đêm tại trú xứ Tăng già-lam Phước duyên, thành phố Huế, hiện diện quý mến. Một ngày một đêm quý vị ở trong Tịnh giới với niềm tin thanh tịnh, kiên cố, bất hoại đối với Tam bảo. Nhờ niềm tin này mà quý vị không để cho Giới pháp của mình bị sứt mẻ ở trong đi, ở trong đứng, ở trong nằm, ở trong ngồi, ở trong sự nói năng, giao tiếp. Quý vị có được niềm tin này là nhờ quý vị nuôi lớn sáu tính chất của Tam bảo, khiến cho ba nghiệp của quý vị được an tịnh, an tịnh về thân hành, an tịnh về ngữ hành, an tịnh về ý hành. Sáu tính chất của Tam bảo, quý vị phải thường quán chiếu sâu sắc, để thể nhập và tạo ra chất liệu cho chính mình, ngay đời này và đời sau. Sáu tính chất của Tam bảo gồm:
27/05/2024(Xem: 709)
Theo quan niệm của Phật giáo, Khổ (zh. 苦, sa. duḥkha, pi. dukkha) là cơ sở quan trọng của Tứ Diệu Đế. Chúng ta thường nghe nói, “Đời Là Bể Khổ.” Phật Giáo phân loại Khổ rất luận lý khoa học: Tam Khổ (Khổ khổ [sa. duḥkha-duḥkha,] Hoại khổ [sa. vipariṇāma-duḥkha,] và Hành khổ [sa. saṃskāra-duḥkha.] Ngoài ra còn có Bát khổ. Sinh – Lão – Bệnh – Tử gọi là tứ khổ. Cộng thêm 4 cái khổ khác nữa là: Ái biệt ly khổ - 愛別離苦(あいべつりく): Yêu nhau mà chia lìa nhau là khổ vậy. Cầu bất đắc khổ - 求不得苦(ぐふとくく): Cầu mà không được chính là khổ vậy. Oán tắng hội khổ - 怨憎会苦(おんぞうえく): Ghét mà phải ra vào gặp mặt hàng ngày là khổ vậy. Ngũ ấm xí thạnh khổ - 五蘊 盛苦(ごうんじょう): No cơm ấm cật quá cũng khổ.
30/04/2024(Xem: 2274)
Những lời trích dẫn trên đây thật đanh thép và minh bạch, chữ vu khống trong câu trích dẫn trên đây trong bản gốc bằng tiếng Pali là chữ abbhācikkhanti (abhi + ā + cikkh + a), các tự điển tiếng Anh dịch chữ này là accusation, calumny, slander…, có nghĩa là kết án, phỉ báng, vu khống…. Thế nhưng trong khi viết lách hay thuyết giảng đôi khi chúng ta không nghĩ đến những lời cảnh giác trên đây của Đức Phật. Sau hơn hai mươi lăm thế kỷ quảng bá, xuyên qua nhiều vùng địa lý, hòa mình với nhiều nền văn minh và văn hóa khác nhau, nền Tư tưởng và Giáo huấn của Đức Phật đã phải trải qua nhiều thử thách, thích ứng với nhiều dân tộc, do đó thật khó tránh khỏi ít nhiều biến dạng và thêm thắt. Thế nhưng thực tế cho thấy trong suốt cuộc hành trình kỳ thú và vĩ đại đó – nếu có thể nói như vậy – nền Tư tưởng và Giáo huấn đó của Đức Phật vẫn đứng vững và đã góp phần không nhỏ trong công trình cải thiện xã hội, nâng cao trình độ văn hóa, tư tưởng và mang lại ít nhất là một chút gì đó lý tưởng hơn, cao đ
30/04/2024(Xem: 2500)
Con người thường hay thắc mắc tại sao mình có mặt ở cõi giới Ta Bà này để chịu khổ triền miên. Câu trả lời thường được nghe là: Để trả nghiệp. Nhưng nghiệp là gì? Và làm sao để thoát khỏi? Then chốt cho câu trả lời được gói ghém trong 2 câu: “Ái bất trọng, bất sanh Ta Bà Niệm bất nhất, bất sanh Tịnh Độ” Có nghĩa là: “Nghiệp ái luyến không nặng, sẽ không tái sanh ở cõi Ta Bà Niệm Phật không nhất tâm, sẽ không vãng sanh về Tịnh Độ”
18/02/2024(Xem: 3024)
Bát Chánh Đạo là con đường thánh có tám chi nhánh: Chánh Tri Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm và Chánh Định. Đây là con đường trung đạo, là lộ trình kỳ diệu giúp cho bất kể ai hân hoan, tín thọ, pháp thọ trong việc ứng dụng, thời có thể chuyển hóa nỗi khổ, niềm đau thành an lạc, giải thoát, niết bàn. Bát Chánh Đạo là Chơn Pháp vi diệu, là con đường đưa đến khổ diệt, vượt thời gian, thiết thực trong hiện tại, được chư Phật quá khứ, Đức Phật hiện tại và chư Phật tương lai chứng ngộ, cung kính, tán thán và thuyết giảng cho bốn chúng đệ tử, cho loài người, loài trời để họ khai ngộ, đến để mà thấy, và tự mình giác hiểu.
07/02/2024(Xem: 5925)
Từ 1983 đến 1985 khi đang ở Singapore, bận bịu với chương trình nghiên cứu Phật giáo tại Viện Phát triển Giáo Trình, tôi được Tu viện Phật giáo Srilankaramaya và một số đạo hữu mời giảng bốn loạt bài pháp nói về một vài tông phái chính của Phật giáo. Các bài giảng được ưa thích, và nhờ các cố gắng của Ô. Yeo Eng Chen và một số bạn khác, chúng đã được ghi âm, chép tay và in ấn để phát miễn phí cho các học viên. Kể từ đó, các bài pháp khởi đi từ hình thức của các tập rời được ngưỡng mộ và cũng được tái bản. Sau đó, tôi nhận thấy có vẻ hay hơn nếu in ấn bốn phần ấy thành một quyển hợp nhất, và với vài lần nhuận sắc, xuất bản chúng để cho công chúng dùng chung.
20/01/2024(Xem: 2335)
Năm xưa khi Phật thuyết kinh, hoàn toàn dùng khẩu ngữ vì bấy giờ nhân loại chưa có chữ viết (xứ Ấn). Sau khi Phật diệt độ, các đệ tử Phật mới kết tập laị những gì Phật dạy để lưu truyền cho đời sau. Đạo Phật dần dần truyền sang các xứ khác, truyền đến đâu thì kinh điển cũng được phiên dịch sang ngôn ngữ của xứ ấy. Lúc ban đầu kinh Phật được ghi chép bằng tiếng Phạn ( Sancrit, Pali ) sau đó thì dịch sang tiếng: Sinhale, Pakistan, Afghanistan, tiếng Tàu, Thái, Nhật, Hàn, Việt… và sau nữa là tiếng Pháp, Anh, Tây Ban Nha…
20/12/2023(Xem: 2786)
Tiến sĩ Bạch Xuân Phẻ (Bạch X. Khỏe) định cư ở Hoa Kỳ từ năm 1991, hiện đang giảng dạy Hóa học và Hóa học danh dự cho Trường trung học Mira Loma tại thủ phủ Sacramento, CA. Ông quy y với Thiền sư Trừng Quang Thích Nhất Hạnh, có Pháp danh là Tâm Thường Định. Ông đã và đang giảng dạy về Lãnh đạo chánh niệm và phương thức mang chánh niệm vào học đường ở bang California từ năm 2014. Tiến sỹ Bạch cũng giảng dạy cho chương trình huấn luyện giáo viên. Ngoài ra, ông còn tham gia nhiều công việc xã hội trong cộng đồng. Tháng Ba 2023, TS Bạch Xuân Phẻ được Hiệp hội Giáo viên California (California Teachers Association) vinh danh vì những đóng góp giáo dục thực hành chánh niệm của ông. TS Bạch Xuân Phẻ cũng được trao Giải thưởng Nhân quyền người Mỹ gốc Á Thái Bình Dương năm 2023 của bang California (Human Right Awards).
19/12/2023(Xem: 8138)
Cách đây chừng 30 năm, Tổ Đình Viên Giác tại Hannover Đức Quốc chúng tôi có nhận được bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daizokyou) bằng Hán Văn gồm 100 tập do cố Hòa Thượng Thích Tịnh Hạnh từ Đài Loan giới thiệu để được tặng. Bộ Đại Tạng Kinh giá trị này do Phật Đà Giáo Dục Cơ Kim Hội xuất bản và gửi tặng đến các nơi có duyên. Phật Đà Giáo Dục Cơ Kim Hội dưới sự chứng minh và lãnh đạo tinh thần của cố Hòa Thượng Thích Tịnh Không đã làm được không biết bao nhiêu công đức truyền tải giáo lý Phật Đà qua việc xuất bản kinh điển và sách vở về Phật Giáo, với hình thức ấn tống bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau như: Hoa Ngữ, Anh Ngữ, Pháp Ngữ, Đức Ngữ, Việt Ngữ. Nhờ đó tôi có cơ hội để tham cứu Kinh điển rất thuận tiện.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com