TRIẾT LÝ NHÀ PHẬT
Đoàn Trung Còn biên soạn, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính
Thân tùng vô tướng trung thụ sanh,
Du như huyễn do chư hình tượng.
Huyễn nhân tâm thức bổn lai vô,
Tội phúc giai không vô sở trụ.
身 從 無 相 中 受 生
猶 如 幻 由 諸 形 象
幻 人 心 識 本 來 無
罪 福 皆 空 無所 住 。
Dịch nghĩa
Thân thọ sanh từ nơi không tướng,
Như giấc mơ do tượng hình ra.
Người mơ tâm thức đâu mà?
Trụ đâu tội phước đều là thành không.
Kinh Trường-A-Hàm chép rằng: Thuở đời người ta hưởng thọ tám muôn tuổi đức Phật này ra đời, dòng Sát-lỵ, họ Câu-lỵ-nhã, cha là Bàn-đầu, mẹ là Bàn-đầu Bà-đề. Ngài ở thành Bàn-đầu Bà-đề, ngồi dưới cây Ba-ba-la, thuyết Pháp ba hội, độ cho người ta được 348.000 người. Ngài có hai phép thần túc đặc biệt: phép thứ nhất tên là Khiên-trà, phép thứ hai tên là Đề-xá. Thị giả là ngài Vô-ưu-tử Phương Ưng.
Khởi chư thiện pháp bổn thị huyễn;
Tạo chư ác nghiệp diệc thị huyễn.
Thân như tụ mạt, tâm như phong,
Huyễn xuất vô căn vô thật tánh.
起 諸 善 法 本 是 幻
造 諸 悪 業 亦 是 幻
身 如 聚 沫 心 如 凨
幻 出 無 根 無 實 性。
Dịch nghĩa
Pháp lành khởi, vốn xưa là huyễn;
Nghiệp dữ gây, cũng huyễn mà ra.
Mình bọt đậu, lòng gió qua,
Không căn, không thật, tánh là huyễn thôi!
Kinh Trường-A-Hàm chép rằng: Thuở đời người ta hưởng thọ bảy muôn tuổi đức Phật này ra đời, dòng Sát-lỵ, họ Câu-lỵ-nhã, cha là Minh Tướng, mẹ là Quang Diệu. Ngài ở thành Quang Tướng, ngồi dưới cây Phân-đà-lỵ, thuyết Pháp ba hội, độ cho người ta được 250.000 người. Ngài có hai phép thần túc đặc biệt: phép thứ nhất tên là A-tỳ-phù, phép thứ nhì tên là Bà-bà. Thị giả là ngài Nhẫn-hạnh-tử Vô Lượng.
Giả tá tứ đại dĩ vi thân,
Tâm bổn vô sanh, nhân cảnh hữu.
Tiền cảnh nhược vô, tâm diệc vô,
Tội, phước như huyễn, khởi diệc diệt.
假 佐 四 大 以 為 身
心 本 無 生 因 境 有
前 境 若 無 心 亦 無
罪 福 如 幻 起 亦 滅。
Dịch nghĩa
Bốn vật lớn mượn làm thân đó,
Tâm không sanh, nhân cảnh mà sanh.
Cảnh không, tâm cũng không thành,
Đôi đàng tội phước như hình huyễn thôi!
Kinh Trường-A-Hàm chép rằng: Thuở đời người ta hưởng thọ bảy muôn tuổi đức Phật này ra đời, dòng Sát-lỵ, họ Câu-lỵ-nhã, cha là Thiện Đăng; mẹ là Xương Giới. Ngài ở thành Vô Dụ, ngồi dưới cây Bà-la, thuyết Pháp hai hội, độ cho người ta được 113.000 người. Ngài có hai phép thần túc đặc biệt: phép thứ nhất tên là Phù-du, phép thứ nhì tên là Uất-đa-ma. Thị giả là ngài Tịch-diệt-tử Diệu Giác.
Kiến thân vô thật thị Phật thân.
Liễu tâm như huyễn thị Phật huyễn,
Liễu đắc thân, tâm bổn tánh không.
Tư nhân dữ Phật hà thù biệt?
見 身 無 實 是 佛 身
了 心 如 幻 是 佛 幻
了 得 身 心 本 性 空
斯 人 與 佛 何 殊 別。
Dịch nghĩa
Thân không thật, thấy là thân Phật;
Rõ được tâm không, Phật cũng không.
Thân, tâm, tánh ấy vốn không,
Người ta với Phật cũng đồng như nhau.
Kinh Trường-A-Hàm chép rằng: Thuở đời người ta hưởng thọ bốn muôn tuổi, đức Phật này ra đời, dòng Bà-la-môn, họ Ca Diếp. Cha tên là Lễ Đắc, mẹ là Thiện Chi. Ngài ở thành An Hòa, ngồi dưới cây Thi-lỵ-sa, thuyết Pháp một hội, độ cho người ta được 40.000 người. Ngài có hai phép thần túc đặc biệt: phép thứ nhất tên là Tát-ni, phép thứ hai tên là Tỳ-lâu. Thị giả là ngài Thiện-giác-tử Thượng Thắng.
Phật bất kiến thân, tri thị Phật,
Nhược thật hữu tri, biệt vô Phật.
Trí giả năng tri tội tánh không,
Thản nhiên bất bố ư sanh tử.
佛 不 見 身 知 是 佛
若 實 有 知 別 無 佛
智 者 能 知 罪 性 空
坦 然 不 怖 於 生 死。
Dịch nghĩa
Thân chẳng thấy, biết là thân Phật,
Nếu biết rồi, thì Phật là không.
Người khôn biết tội tánh không,
Thản nhiên chẳng sợ trong vòng tử sanh.
Kinh Trường-A-Hàm chép rằng: Thuở đời người ta hưởng thọ ba muôn tuổi, đức Phật này ra đời, dòng Bà-la-môn, họ Ca Diếp. Cha tên Đại Đức, mẹ là Thiện Thắng. Ngài ở thành Thanh Tịnh, ngồi dưới cây Ô-tàm Bà-la-môn, thuyết Pháp một hội, độ cho người ta được 30.000 người. Ngài có hai phép thần túc đặc biệt: phép thứ nhất tên là Thư-hàm-na, phép thứ nhì là Uất-đa-lâu. Thị giả là ngài An-hòa-tử Đạo Sư.
Nhất thiết chúng sanh tánh thanh tịnh,
Tòng bổn vô sanh, vô khả diệt.
Tức thử thân, tâm thị huyễn sanh,
Huyễn hóa chi trung vô tội, phước.
一 切 衆 生 性 清 淨
從 本 來 生 無 可 滅
即 此 身 心 是 幻 生
幻 化 之 中 無 罪 褔。
Dịch nghĩa
Tánh chúng sanh thảy thanh tịnh hết,
Do không sanh, không diệt mà ra.
Thân, tâm là huyễn thôi mà,
Huyễn thì tội, phước hóa là đều không.
Kinh Trường-A-Hàm chép rằng: Thuở đời người ta hưởng thọ hai muôn tuổi, đức Phật này ra đời, dòng Bà-la-môn, họ Ca Diếp. Cha là Phạm Đức, mẹ là Tài Chủ. Ngài ở thành Ba-la-nại, ngồi dưới cây Ni-câu-luật, thuyết Pháp một hội, độ được người ta 20.000 người. Ngài có hai phép thần túc đặc biệt: phép thứ nhất tên là Đề-xá, phép thứ nhì là Bà-la-bà. Thị giả ngài là Thiện-hữu-tử Lập Quân.
Pháp bổn pháp vô pháp,
Vô pháp, pháp diệc pháp.
Kim phó vô pháp thì,
Pháp pháp hà tằng pháp.
法 本 法 無 法
無 法 法 亦 法
今 付 無 法 時
法 法 何 曾 法。
Dịch nghĩa
Pháp là pháp, vốn xưa không pháp,
Không pháp mà cũng pháp đó đây.
Ta trao không pháp hôm nay,
Pháp nào pháp nấy, nào hay pháp nào.
Ngài giáng sanh trong dòng nhà vua Sát-lỵ, phóng đại quang minh; dưới đất nảy lên hoa sen vàng. Ngài đi ngang bảy bước, đưa tay ra chỉ trời, chỉ đất, dùng tiếng Sư tử hống mà nói rằng: Trên trời, dưới đất, chỉ có một mình ta là tôn quý! Thuở đó, tức là ngày mùng 8 tháng 4 năm Giáp Dần (trước dương lịch 563 năm) đời vua Chiêu Vương nhà Châu, ngài giáng sanh; 29 tuổi xuất gia, 35 tuổi thành Phật. Chuyển Pháp Luân Tứ Diệu Đế, thuyết Diệu Pháp Tam Tạng, hành đạo 49 năm.
Sau Ngài phán với đệ tử là Ca-diếp rằng:
“Ta đem Pháp Nhãn, diệu tâm Niết-bàn phó cho nhà ngươi.”
Nói rồi Ngài thuyết bài kệ trên.
Ngài thuyết kệ xong rồi, ngồi ngay thẳng, lặng thinh nhập tịch ở dưới cây Sa-la. Các đệ tử liền lấy củi thơm thiêu hóa. Khi ấy cỗ quan tài vàng do chỗ ngồi khởi lên, cao thẳng bảy cây Sa-la, qua lại ở trong không, hóa ra lửa Tam muội, giây lát được 8 hộc 4 đấu xá-lỵ. Thuở đó, tức là năm Nhâm Thân đời vua Mục Vương nhà Chu. Phật trụ thế 83 năm, thị giả của Ngài là A-nan.
Đoàn Trung Còn biên soạn, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính
IV. Kệ truyền của chư Phật
1. ĐỨC PHẬT TỲ-BÀ-THI
(Đức Thế-tôn thứ 998 về Quá khứ Trang Nghiêm Kiếp)Thân tùng vô tướng trung thụ sanh,
Du như huyễn do chư hình tượng.
Huyễn nhân tâm thức bổn lai vô,
Tội phúc giai không vô sở trụ.
身 從 無 相 中 受 生
猶 如 幻 由 諸 形 象
幻 人 心 識 本 來 無
罪 福 皆 空 無所 住 。
Dịch nghĩa
Thân thọ sanh từ nơi không tướng,
Như giấc mơ do tượng hình ra.
Người mơ tâm thức đâu mà?
Trụ đâu tội phước đều là thành không.
Kinh Trường-A-Hàm chép rằng: Thuở đời người ta hưởng thọ tám muôn tuổi đức Phật này ra đời, dòng Sát-lỵ, họ Câu-lỵ-nhã, cha là Bàn-đầu, mẹ là Bàn-đầu Bà-đề. Ngài ở thành Bàn-đầu Bà-đề, ngồi dưới cây Ba-ba-la, thuyết Pháp ba hội, độ cho người ta được 348.000 người. Ngài có hai phép thần túc đặc biệt: phép thứ nhất tên là Khiên-trà, phép thứ hai tên là Đề-xá. Thị giả là ngài Vô-ưu-tử Phương Ưng.
2. ĐỨC PHẬT THI-KHÍ
(Đức Thế-tôn thứ 999 về Trang Nghiêm Kiếp)Khởi chư thiện pháp bổn thị huyễn;
Tạo chư ác nghiệp diệc thị huyễn.
Thân như tụ mạt, tâm như phong,
Huyễn xuất vô căn vô thật tánh.
起 諸 善 法 本 是 幻
造 諸 悪 業 亦 是 幻
身 如 聚 沫 心 如 凨
幻 出 無 根 無 實 性。
Dịch nghĩa
Pháp lành khởi, vốn xưa là huyễn;
Nghiệp dữ gây, cũng huyễn mà ra.
Mình bọt đậu, lòng gió qua,
Không căn, không thật, tánh là huyễn thôi!
Kinh Trường-A-Hàm chép rằng: Thuở đời người ta hưởng thọ bảy muôn tuổi đức Phật này ra đời, dòng Sát-lỵ, họ Câu-lỵ-nhã, cha là Minh Tướng, mẹ là Quang Diệu. Ngài ở thành Quang Tướng, ngồi dưới cây Phân-đà-lỵ, thuyết Pháp ba hội, độ cho người ta được 250.000 người. Ngài có hai phép thần túc đặc biệt: phép thứ nhất tên là A-tỳ-phù, phép thứ nhì tên là Bà-bà. Thị giả là ngài Nhẫn-hạnh-tử Vô Lượng.
3. ĐỨC PHẬT TỲ-XÁ-PHÙ
(Đức Thế-tôn thứ 1.000 về Trang Nghiêm Kiếp)Giả tá tứ đại dĩ vi thân,
Tâm bổn vô sanh, nhân cảnh hữu.
Tiền cảnh nhược vô, tâm diệc vô,
Tội, phước như huyễn, khởi diệc diệt.
假 佐 四 大 以 為 身
心 本 無 生 因 境 有
前 境 若 無 心 亦 無
罪 福 如 幻 起 亦 滅。
Dịch nghĩa
Bốn vật lớn mượn làm thân đó,
Tâm không sanh, nhân cảnh mà sanh.
Cảnh không, tâm cũng không thành,
Đôi đàng tội phước như hình huyễn thôi!
Kinh Trường-A-Hàm chép rằng: Thuở đời người ta hưởng thọ bảy muôn tuổi đức Phật này ra đời, dòng Sát-lỵ, họ Câu-lỵ-nhã, cha là Thiện Đăng; mẹ là Xương Giới. Ngài ở thành Vô Dụ, ngồi dưới cây Bà-la, thuyết Pháp hai hội, độ cho người ta được 113.000 người. Ngài có hai phép thần túc đặc biệt: phép thứ nhất tên là Phù-du, phép thứ nhì tên là Uất-đa-ma. Thị giả là ngài Tịch-diệt-tử Diệu Giác.
4. ĐỨC PHẬT CÂU-LƯU-TÔN
(Đức Thế-tôn thứ nhất về Hiện tại Hiền Kiếp)Kiến thân vô thật thị Phật thân.
Liễu tâm như huyễn thị Phật huyễn,
Liễu đắc thân, tâm bổn tánh không.
Tư nhân dữ Phật hà thù biệt?
見 身 無 實 是 佛 身
了 心 如 幻 是 佛 幻
了 得 身 心 本 性 空
斯 人 與 佛 何 殊 別。
Dịch nghĩa
Thân không thật, thấy là thân Phật;
Rõ được tâm không, Phật cũng không.
Thân, tâm, tánh ấy vốn không,
Người ta với Phật cũng đồng như nhau.
Kinh Trường-A-Hàm chép rằng: Thuở đời người ta hưởng thọ bốn muôn tuổi, đức Phật này ra đời, dòng Bà-la-môn, họ Ca Diếp. Cha tên là Lễ Đắc, mẹ là Thiện Chi. Ngài ở thành An Hòa, ngồi dưới cây Thi-lỵ-sa, thuyết Pháp một hội, độ cho người ta được 40.000 người. Ngài có hai phép thần túc đặc biệt: phép thứ nhất tên là Tát-ni, phép thứ hai tên là Tỳ-lâu. Thị giả là ngài Thiện-giác-tử Thượng Thắng.
5. ĐỨC PHẬT CÂU-NA-HÀM MÂU-NI
(Đức Thế-tôn thứ 2 về Hiền Kiếp)Phật bất kiến thân, tri thị Phật,
Nhược thật hữu tri, biệt vô Phật.
Trí giả năng tri tội tánh không,
Thản nhiên bất bố ư sanh tử.
佛 不 見 身 知 是 佛
若 實 有 知 別 無 佛
智 者 能 知 罪 性 空
坦 然 不 怖 於 生 死。
Dịch nghĩa
Thân chẳng thấy, biết là thân Phật,
Nếu biết rồi, thì Phật là không.
Người khôn biết tội tánh không,
Thản nhiên chẳng sợ trong vòng tử sanh.
Kinh Trường-A-Hàm chép rằng: Thuở đời người ta hưởng thọ ba muôn tuổi, đức Phật này ra đời, dòng Bà-la-môn, họ Ca Diếp. Cha tên Đại Đức, mẹ là Thiện Thắng. Ngài ở thành Thanh Tịnh, ngồi dưới cây Ô-tàm Bà-la-môn, thuyết Pháp một hội, độ cho người ta được 30.000 người. Ngài có hai phép thần túc đặc biệt: phép thứ nhất tên là Thư-hàm-na, phép thứ nhì là Uất-đa-lâu. Thị giả là ngài An-hòa-tử Đạo Sư.
6. ĐỨC PHẬT CA-DIẾP
(Đức Thế-tôn thứ 3 về Hiền Kiếp)Nhất thiết chúng sanh tánh thanh tịnh,
Tòng bổn vô sanh, vô khả diệt.
Tức thử thân, tâm thị huyễn sanh,
Huyễn hóa chi trung vô tội, phước.
一 切 衆 生 性 清 淨
從 本 來 生 無 可 滅
即 此 身 心 是 幻 生
幻 化 之 中 無 罪 褔。
Dịch nghĩa
Tánh chúng sanh thảy thanh tịnh hết,
Do không sanh, không diệt mà ra.
Thân, tâm là huyễn thôi mà,
Huyễn thì tội, phước hóa là đều không.
Kinh Trường-A-Hàm chép rằng: Thuở đời người ta hưởng thọ hai muôn tuổi, đức Phật này ra đời, dòng Bà-la-môn, họ Ca Diếp. Cha là Phạm Đức, mẹ là Tài Chủ. Ngài ở thành Ba-la-nại, ngồi dưới cây Ni-câu-luật, thuyết Pháp một hội, độ được người ta 20.000 người. Ngài có hai phép thần túc đặc biệt: phép thứ nhất tên là Đề-xá, phép thứ nhì là Bà-la-bà. Thị giả ngài là Thiện-hữu-tử Lập Quân.
7. ĐỨC PHẬT THÍCH-CA MÂU-NI
(Đức Thế-tôn thứ 4 về Hiền Kiếp)Pháp bổn pháp vô pháp,
Vô pháp, pháp diệc pháp.
Kim phó vô pháp thì,
Pháp pháp hà tằng pháp.
法 本 法 無 法
無 法 法 亦 法
今 付 無 法 時
法 法 何 曾 法。
Dịch nghĩa
Pháp là pháp, vốn xưa không pháp,
Không pháp mà cũng pháp đó đây.
Ta trao không pháp hôm nay,
Pháp nào pháp nấy, nào hay pháp nào.
Ngài giáng sanh trong dòng nhà vua Sát-lỵ, phóng đại quang minh; dưới đất nảy lên hoa sen vàng. Ngài đi ngang bảy bước, đưa tay ra chỉ trời, chỉ đất, dùng tiếng Sư tử hống mà nói rằng: Trên trời, dưới đất, chỉ có một mình ta là tôn quý! Thuở đó, tức là ngày mùng 8 tháng 4 năm Giáp Dần (trước dương lịch 563 năm) đời vua Chiêu Vương nhà Châu, ngài giáng sanh; 29 tuổi xuất gia, 35 tuổi thành Phật. Chuyển Pháp Luân Tứ Diệu Đế, thuyết Diệu Pháp Tam Tạng, hành đạo 49 năm.
Sau Ngài phán với đệ tử là Ca-diếp rằng:
“Ta đem Pháp Nhãn, diệu tâm Niết-bàn phó cho nhà ngươi.”
Nói rồi Ngài thuyết bài kệ trên.
Ngài thuyết kệ xong rồi, ngồi ngay thẳng, lặng thinh nhập tịch ở dưới cây Sa-la. Các đệ tử liền lấy củi thơm thiêu hóa. Khi ấy cỗ quan tài vàng do chỗ ngồi khởi lên, cao thẳng bảy cây Sa-la, qua lại ở trong không, hóa ra lửa Tam muội, giây lát được 8 hộc 4 đấu xá-lỵ. Thuở đó, tức là năm Nhâm Thân đời vua Mục Vương nhà Chu. Phật trụ thế 83 năm, thị giả của Ngài là A-nan.
Gửi ý kiến của bạn