Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Vua A Xà Thế quy y Phật

27/03/201322:10(Xem: 3831)
Vua A Xà Thế quy y Phật

VUA A XÀ THẾ QUY Y PHẬT
Toàn Không
(Tăng Nhất A Hàm, quyển 3 từ trang 182)

1)- NHÂN DUYÊN

Một thời đức Phật ngự tại vườn xoài Kỳ Bà Già thuộc thành La Duyệt, nước Ma Kiệt cùng với 1250 đệ tử đều là bậc thánh, ngoại trừ Tôn giả A Nan Đà Thị giả của Ngài. Bấy giờ, nhằm ngày rằm tháng bảy trăng tròn sáng, Vua A Xà Thế bảo Phu nhân:

- Nay là ngày trăng tròn sáng, ta nên làm gì?

Phu Nhân thưa:

- Nay ngày rằm là ngày thuyết giới, nên tổ chức đàn ca múa hát vui chơi.

Nghe rồi không hài lòng, Vua hỏi Thái tử Ưu Đà Gia:

- Còn con, ta nên làm gì?

Thái tử thưa:

- Đêm trăng sáng tỏ, nên tập hợp 4 binh chủngđi đến nước nào không hàng phục chinh phục họ.

Nghe những lời ấy, Vua không vừa ý, lại hỏi Hoàng tử Vô Úy như thế, Hoàng tử thưa:

- Nay có Phạm Chí Bạt Lan Ca Diếp giỏi toánsố, thông thiên văn địa lý, mọi người đều tôn trọng kính ngưỡng, nên đến hỏi,Phạm Chí vì Phụ Vương sẽ nói lý nhiệm màu.

Nghe những lời ấy, Vua cũng không vừa ý, quay qua hỏi đại Thần Tu Ni Ma:

- Đêm nay trăng sáng đẹp, ta nên làm gì?

Đại Thần Tu Ni Ma thưa:

- Có Thầy A Di Chuyên thấy rộng biết nhiều,cúi xin Đại Vương đến hỏi điều nghi.

Vua nghe đại Thần nói lời ấy, cũng không vừa lòng, lại hỏi Bà La Môn BàSa như trên. Đại Thần Bà Sa tâu:

- Có Thầy Cù Da Lâu ở gần đây, cúi xin ĐạiVương đến hỏi Thầy ấy.

Vua nghe nói vậy cũng không hợp ý, bèn hỏi Phạm Chí Ma Đặc giống nhưthế, Phạm Chí Ma Đặc thưa:

- Như đêm nay trăng sáng tỏ, Đại Vương nênbiết, Thầy Bỉ Hưu Ca Diên là người tài giỏi, xin Đại Vương đến hỏi ý Thầy.

Nghe lời ấy, Vua cũng không hợp ý, bèn hỏi Đại tướng Sách Ma:

- Đại tướng cho biết, đêm nay trăng sáng, tanên làm gì?

Đại tướng tâu:

- Có Thầy Tiên Tất Lư Trì giỏi rành toánthuật, Đại Vương có thể đến hỏi ý kiến.

Nghe Đại tướng nói thế, Vua cũng không vừa ý, bèn hỏi đại Thần Tối Thắnggiống như thế, đại Thần tâu:

- Đại Vương nên đến chỗ Ni Kiền Tử đọc nhiềuKinh sách, là bậc tối thượng trong các bậc Thầy, ở gần đây, xin Đại Vương đếnđó hỏi.

Nghe rồi cũng không hợp ý, Vua lại nghĩ: “Những người này đều si mê,không phân biệt chân ngụy. Bấy giờ Vua nhìn quanh, thấy còn Vương tử Kỳ Bà Giàđứng đằng xa chưa hỏi, liền hỏi:

- Còn Vương tử Kỳ Bà Già nghĩ sao, hôm naytrăng tròn sáng, ta nên làm gì?

Vương tử bèn đến trước Vua, quỳ tâu:

- Hôm nay trăng sáng, đức Như Lai đang ngựtrong vườn của thần cùng với 1250 đệ tử Tỳ Kheo, cúi xin Đại Vương đến hỏinghĩa này. Bởi vì Như Lai là bậc giác ngộ, sáng suốt, không có gì không thôngsuốt rõ thấu, biết việc trong ba đời, Ngài sẽ giải tỏa tất cả những thắc mắcnghi ngờ cho Đại Vương.

Nghe lời Vương tử Kỳ Bà Già nói xong, Vua a Xà Thế vui mừng, thiện tâmphát sinh, liền khen:

- Lành thay Vương tử! Nói lời rất đáng ưa, vìthân tâm ta rất nóng bức bồn chồn không yên, vô cớ giết Phụ Vương. Lâu nay, tathường suy nghĩ: “Có ai hiểu được tâm ta?” Nay những điều Vương tử nói chính làtrúng ý ta, rất lạ kỳ! Nghe đến Như Lai, tự nhiên ta tỉnh ngộ, rồi Vua nói kệ:

Đêm nay trăng trònsáng,

Tâm ý không được yên,

Các Ông mỗi ngườinói,

Nên đến hỏi nghĩa ai?

Bất Lan A Di Chuyên,

Thầy Tiên, Ni Kiền,Phạm,

Không nương nhữngThầy ấy,

Sao thể tế độ ta?

Đêm nay trăng rấtsáng,

Trăng tròn không chỗkhuyết,

Vương tử Kỳ Bà Già,

Nên đến hỏi nghĩa ai?

Vương tử nói kệ đáp:

Nghe âm thanh nhunhuyễn,

Được thoát cả MaKiệt,

Xin đúng thời đếnPhật,

Chỗ vĩnh viễn khôngsợ.

Vualại nói kệ:

Việc làm xưa của ta,

Với Phật không lợiích,

Hại Phật tử của Ngài,

Tên là Tần Bà Sa.

Nay rất là hổ thẹn,

Không dám tới gặpmặt,

Vì sao nay Ông bảo,

Khiến ta đến gặpNgài?

Vương tử lại nói kệ đáp:

Chư Phật không bỉthử,

Các kết đã diệt trừ,

Tâm bình đẳng khônghai,

Đấy là nghĩa PhậtPháp.

Như thương con LaVân,

Một hơi thở khônghai,

Tâm ấy đối Đề Bà,

oán thân không hềkhác.

Cúi xin Đại Vương đi,

Đến gặp đức Như Lai,

Sẽ dứt mối nghi ngờ,

Không có gì trở ngại.

Khi ấy, Vua liền bảo Vương tử:

- Ông hãy mau ra lệnh chuẩn bị 500 voi đực,500 voi cái, 500 cây đèn, để đến chỗ Như lai.

Vương tử tâu:

- Thưa vâng Đại Vương.

Vương tử Kỳ Bà Già liền ra lệnh cho sửa soạn chuẩn bị đầy đủ nhanhchóng, khi xong thưa Vua mọi việc đã sẵn sàng. Bấy giờ Vua đem quần Thần đitheo đến vườn xoài của Vương tử. Khi gần tới nơi, nhà Vua bỗng thấy sợ hãi,liền hỏi Kỳ Bà Già:

- Nay ta không bị gạt chứ, Ông không đưa tatới chỗ oan gia chứ?

Vường tử tâu:

- Thật không có chuyện ấy, xin Đại Vương tiếptục đi, không nên nghi ngờ.

Điđược một đoạn nữa, Vua cũng còn sợ hãi, lại nói:

- Chẳng lẽ ta bị Ông gạt sao, đã nghe nói NhưLai với 1250 đệ tử, như vậy đông lắm, làm sao mà ta không nghe tiếng động gì?

Vương tử thưa:

- Đệ tử Phật thường hành thiền định, không cóồn ào, đã tới nơi rồi, xin Đại Vương xuống xe đi bộ, không nên làm ồn náo NhưLai.

Vua A Xà Thế liền xuống xe đi bộ vào trước cửa giảng đường, đứng im lặngquan sát, rồi hỏi Vương tử:

- Đức Như Lai hiện giờ ở đâu?

Bấy giờ, trong Thánh chúng có vị Tỳ Kheo nhập Hỏa quang Tam muội, tronggiảng đường không có đèn mà sáng trưng.

Vương tử chỉ đức Phật và nói:

- Như Lai ngồi chính giữa đó, Ngài ngồi ở chínhgiữa đại chúng Tỳ Kheo.

Vua bảo Vương tử:

- Thật kỳ lạ, thật đặc biệt! Tất cả ngồi yênkhông cử động! Do nhân duyên gì, bên trong không có đèn mà có ánh sáng?

Vương tử thưa:

- Do sức Tam muội nên phóng ánh sáng.

Vua lại nói:

- Như nay ta quan sát Thánh chúng Tỳ Kheo rấtlà yên lặng, mong cho Thái tử Ưu Đà Da cũng được yên lặng vô vi như thế này.

LỜI BÀN:

Khởi đầu bài Kinh, Vua A Xà Thế nhân đêm trăng sáng hỏi Phu nhân nên làmgì, Hoàng Hậu tâu: “Hôm nay ngày rằmtrăng tròn ngàythuyết giới...”.

Ngàythuyết giới là ngày gì?Ngày thuyết giới là ngày đức Phật nói các giới luật, nóigiới đức cho các đệ tử theo đó tu hành. Như vậy Hoàng Hậu cũng đã là Phật tử,nên mới biết ngày rằm là ngày thuyết giới, nhưng rồi lại nói tiếp: “... nên tổ chức đàn ca múa hát vui chơi”, đểlàm đẹp lòng Vua chăng?

Sau khi 8 người cho ý kiến, Vua đều không hài lòng, Vua nói bài kệ đầu ýnói Vua đã từng gặp và không thấy lợi ích gì đối với những người mà bảy ngườinêu ra.

Vương tử Kỳ Bà Già đề nghị Vua nên đến chỗ Phật và nói bài kệ: “Nghe âm thanh nhu nhuyễn, được thoát cả MaKiệt, xin đúng thời đến Phật, chỗ vĩnh viễn không sợ”, bốn câu kệ này có ýnghĩa như thế nào? Đại ý là chỗ đức Phật, sẽ được nghe những lời hay ý đẹp, cólợi ích vô cùng, nếu đến gặp Phật sẽ giúp cho nước Ma Kiệt thoát mọi hiểm nạn,vì sao? Vì Vua A Xà Thế gốc vốn người có tâm ác hay sinh sự gây chiến tranh làmcho nhân dân lầm than vì chiến trận, Vương tử khuyên Vua nên đúng thời đến gặpPhật, chỗ không có sự sợ hãi nào cả, nhưng Vua còn tỏ ra nghi ngờ vì Vua đã làmviệc ác đối với Vua Cha là đệ tử của Phật bằng bài kệ thứ hai, Vua e ngại khôngdám gặp Phật.

Vương tử tâu bằng kệ rằng: “ChưPhật khôngbỉ thử, các kết đã diệt trừ” là sao? Bỉ thử là này kia, tức là chư Phật khôngcó phân biệt này nọ, kia khác, mà chỉ có một tâm bình đẳng.

Các kếtđã diệt trừ là sao?Kết gồm có năm thứ, đó là: 1- Tham lam keo kiết về đủ thứ (Tham). 2- Sân hậngiận hờn tật đố ghen tị (Sân). 3- Không vui, uể oải, lười biếng, ngủ nghỉ (Hôntrầm thùy miên). 4- Lo âu, hối tiếc, chao động, ghiền nghiện (Trạo cử phóngtúng). 5- Nghi mình, nghi người, nghi đủ thứ (Nghi). Năm thứ nêu trên gọi lànăm kết, Chư Phật đã dứt sạch năm sự ràng buộc trên.

Bàikệ của Vương tử còn nói: “Như thương conLa Vân, một hơi thở không hai” làsao? Chư Phật yêu thương mọi chúng sinh như thương yêu con ruột La Vân, La Vânlà người con độc nhất của Thái Tử Sĩ Đạt Ta khi chưa thành Phật, La Vân cũngtheo Ngài tu hành từ lúc mới có 7 tuổi, sau cũng đắc quả A La Hán.

Mộthơi thở không hai là không phân chia bên này bên kia, vì khi thở vào bằng hailỗ mũi, nhưng đó là cùng một hơi thở, khi vào trong chung cùng một buồng phổi.Nghĩa là chư Phật cư xử đối với mọi người đều bình đẳng không thiên vị.

Bài kệ của Vương tử còn nói: “Tâmấy đối Đề Bà, oán thân không hề khác”. Đề Bà là Đề Bà Đạt Đa, là người emcon Ông chú của Thái tử Sĩ Đạt Ta. Đề Bà Đạt Đa đã từng cùng bè ác đảng với AXà Thế, và đã từng mưu ám hại Phật.

Tâm chư Phật đối với người ác như Đề Bà Đạt Đa là kẻ oán không hề khácvới người thương yêu như con ruột La Vân, tất cả đều bình đẳng không có gì khácnhau vậy.

Câu: “Trong chúng có vị Tỳ Kheonhập Hỏa quang Tam muội”.

Thế nàolà Hỏa Quang Tam Muội?Hỏa quang là lửa sáng, Tam muội là định tĩnh sâu kín, làthanh tịnh tuyệt đỉnh. Hỏa quang Tam muội là do một loại Thiền định phát lửasáng rực (không cho nóng cháy).

Câu Vua nói: “- Như nay ta quansát Thánh chúng Tỳ Kheo rất là yên lặng, mong cho Thái tử Ưu Đà Da cũng đượcyên lặng vô vi như thế này”. Câu nói này chứng tỏ rằng Thái tử và Hoàng Hậuđều đã biết Phật Pháp, nghĩa là vợ con của Vua A Xà Thế đã là Phật tử thuầnthành, và Thái tử Ưu Đà La cũng đã học Thiền rồi, chỉ trừ có Vua là chưa hề gặpPhật mà thôi, tại sao thế? Vì vụ giết Vua cha nên Vua A Xà Thế đã không đám đếngặp Phật trên 20 năm, Lúc ấy cố tạo cơ hội để Vương tử Kỳ Bà Già thỉnh mời điyết kiến Phật, và cũng là đúng lúc vậy.

2)- VUA QUY Y PHẬT:

Bấy giờ Vua A Xà Thế chắp hai tay tự xưng tên rồi nói:

- Cúi xin Như Lai cho con được gặp mặt.

Bên trong, đức Phật bảo:

- Đại Vương hãy đến đây.

Vua nghe tiếng của Phật, lòng rất vui mừng, Đức Phật thấy nhà Vua đangđi vào, bèn gọi Vương hiệu, khi đó Vua A Xà Thế đến chỗ Phật năm vóc gieo sátđất, hai bàn tay chạm chân Phật và nói:

- Cúi xin Như Lai rủ lòng từ mẫn nhận sự hốilỗi của con, Phụ Vương vô tội mà đem giết hại. Cúi xin Như lai nhận lòng ănnăn, sau không tái phạm, tự hối lỗi trước, sửa tâm về sau.

Đức Phật bảo:

- Nay chính phải thời, đúng lúc cải hối, đừngđể mất cơ hội, người đời có lỗi, tự mình sửa đổi, đó gọi là thượng nhân, đúngthời sám hối, ở trong giáo pháp của ta rất là quảng đại.

Khi Vua lễ dưới chân Phật và nói sám hối xong ngồi qua một bên và thưa:

- Con có việc muốn hỏi, Thế Tôn cho phép conmới dám hỏi.

Đức Phật bảo:

- Có nghi nan, hợp thời cứ hỏi.

Vua Bạch:

- Đời này tạo phúc, được thọ báo hiện đờichăng?

Đức Phật nói:

- Từ xưa đến giờ Đại Vương đã đem lời này hỏiai chưa?

Vua thưa:

- Xưa con từng đem lời này hỏi nhiều ngườikhác rồi, con xin trình bày:

Con đến hỏi Phạm Chí Bất Lan Ca Diếp: “Thưa Thầy, đời này làm phúc đượcquả báo hiện đời chăng?” Bất Lan Ca Diếp đáp rằng: “Không phước, không bố thí,không quả báo thiện ác đời này đời sau, đời không có người thành tựu A La Hán.”

Đang khi con hỏi về thụ nhận quả báo, thầy ấy trả lời không, ví như cóngười hỏi dưa đem dừa ra đáp, thầy ấy cũng vậy. Lúc ấy con nghĩ: “Thầy Phạm ChíNày không giải được nghĩa của bậc hào tộc dòng vua chúa hỏi, nên dẫn giảichuyện khác để trả lời”. Thưa đức Thế Tôn, lúc ấy con muốn chặt đầu thầy ấy,không chấp nhận lời nói ấy con liền bỏ đi.

Rồi, con đến chỗ Phạm Chí A Di Chuyên, cũng hỏi như thế. A Di Chuyênđáp: “Nếu ở bờ sông bên trái giết hại chúng sanh tạo tội vô lượng, cũng khôngcó tội, cũng không có quả báo ác”. Thế Tôn, lúc đó con lại nghĩ: “Ta hỏi vềnghĩa thọ báo hiện đời, người này đem việc sát hại trả lời, cũng như có ngườihỏi lê đem táo đáp”. Con liền bỏ đi.

Con đến chỗ Cù Da Lâu cũng hỏi nghĩa này. Ông ấy đáp: “Ở bên phải sônglàm công đức không thể tính kể, trong đó cũng không có quả báo lành.” Bấy giờcon nghĩ: “Điều ta hỏi rút cuộc không trả lời về lý ấy.” Con lại bỏ đi.

Một hôm, con đến chỗ Bỉ Lưu Ca Diên hỏi cũng như thế, ông ta nói: “Chỉcó một người ra đời, một người sanh tử, một người qua lại chịu khổ vui.” Lúc ấycon nghĩ: “Hỏi về quả báo lại đem chuyện sinh tử là nói.” Con lại bỏ đi.

Con lại đến chỗ Tiên Tỷ Lưu Trì hỏi cùng một câu hỏi. Ông ta trả lời:“Đời quá khứ diệt không tái sanh lại. Tương lai chưa đến cũng lại không có,hiện tại chẳng dừng trụ, dừng trụ tức biến đổi”, khi ấy con lại nghĩ: “Nay hỏivề hiện đời, lại đem việc ba đời ra đáp.” Con lại bỏ đi.

Rồi con lại đi nữa, đến chỗ Ni Kiền Tử hỏi: “Thế nào Ni Kiền Tử, đời nàylàm phúc có được quả báo hiện đời không?” Ông ấy trả lời: “Không nhân duyênchúng sanh trói buộc, cũng không nhân, cũng không duyên chúng sanh dính mắctrói buộc, không nhân không duyên chúng sanh thanh tịnh.” Khi ấy con nghĩ:“Những Phạm Chí này đều là người ngu si mê muội, không biết phân biệt chân giả,như người mù không mắt như người điếc không tai, không trả lời được nghĩa ta đãhỏi, như đùa cợt với dòng dõi vua Chuyển Luân.” Con liền bỏ đi.

Thưa Thế Tôn! Nay con xin hỏi về nghĩa ấy: “Đời này tạo phúc, hiện đờithụ báo chăng?”, cúi xin Thế Tôn giảng rộng nghĩa này.

Bấy giờ đức Phật bảo:

- Nay Ta hỏi nghĩa Đại Vương tùy chỗ ưa thíchmà trả lời, Đại Vương có đem sách vở, rượu ngon, nhà cửa, quan chức để banthưởng cho kẻ tôi tớ hầu cận chăng?

Vua thưa:

- Dạ có.

Đức Phật bảo:

- Nếu như người tôi tớ ấy làm việc nhọc nhằnqua thời gian lâu, Đại Vương có ban thưởng cho họ không?

Vua bạch:

- Tùy theo công lao, ban cấp cho đồ vật,không để cho có sự oán trách.

Đức Phật bảo:

- Do đó mà biết rằng đời này làm phước đượcquả báo hiện tại. Thế nào Đại Vương, người đó có địa vị cao lại chu đáo vớidân, lễ độ, có ban thưởng chăng?

Vua đáp:

- Thưa vâng, Thế Tôn, cho ăn cùng mâm vớicon, không để cho oán hận.

Đức Phật nói:

- Do phương tiện này, mà biết trước kia xuấtthân rất thấp, dần dần có nhiều công lao, đồng hưởng thú vui với Vua, do điềunày nên hiện đời làm phúc, được thọ quả báo hiện đời.

Người có công lao ấy, trải qua nhiều năm công lao, đến tâu với Vua rằng:“Hạ thần đã lập công lao, Bệ hạ biết rõ”, người ấy muốn xin Đại Vương được toạinguyện, Đại Vương có cho phép không?

Vua bạch:

- Tùy theo sở nguyện của người ấy, khôngtrái.

Đức Phật bảo:

- Người có công lao ấy muốn từ tạ Đại Vương,cạo bỏ râu tóc, mặc áo Cà sa xuất gia tu đạo, Vua có cho phép không?

Vua trả lời:

- Thưa vâng, cho phép.

Đức Phật lại hỏi:

- Nhà Vua thấy người ấy mặc áo Ca Sa xuất giahọc đạo ở bên cạnh Ta, giả dụ người có công lao với Vua, người ấy trì giới trọnvẹn, không trái phạm hạnh, nhà Vua làm gì?

Vua thưa:

- Con sẽ giúp đỡ, cúng dàng, tùy thời lễ bái.

Đức Phật nói:

- Do phương tiện này nên biết hiện đời làmphước, được thọ quả báo hiện tại. Giả dụ người ấy đã là Sa Môn, dứt hết xấu xa(ái tận), có tâm giải thoát, trí tuệ giải thoát, tự thân chứng đạo, tự biếtsinh tử đã dứt, khuôn phép (phạm hạnh) đã thành, việc làm đã xong, không cònthụ thân sau nữa, biết một cách như thật như thế, Đại Vương sẽ làm gì?

- Con sẽ cúng dàng suốt đời thức ăn áo mặc,thuốc men vật dụng đầy đủ, không để thiếu thốn.

Đức Phật bảo:

Dođó, nên biết đời này làm phúc được thọ báo trong hiện tại; giả dụ người ấy hếttuổi thọ, diệt độ nơi cảnh giới Vô Dư Niết Bàn, Đại Vương sẽ làm gì?

VuaBạch:

- Sẽ xây tháp lớn ở ngã tư đường, dùng hươnghoa, tấu nhạc, tràng phan bảo cái cung kính cúng dàng.

Đức Phật nói:

- Do phương tiện này nên biết đời này làmphước được hưởng thọ hiện báo.

Vua thưa Phật:

- Nay con do những thí dụ vừa rồi đã hiểu rõ.Hôm nay Thế Tôn nói nghĩa ấy, từ nay về sau con xin tin thọ nghĩa ấy, cúi xinThế Tôn nhận con làm đệ tử, con tự quy y Phật Pháp Tỳ Kheo.

Nay con lại sám hối đã ngu si, Phụ Vương không có lỗi mà đem sát hại,nay con đem thân mạng tự quy y. Cúi xin Thế Tôn trừ tội ấy, dẫn nói diệu phápkhiến con được an ổn lâu dài. Con đã biết làm tội ác không có căn lành.

Đức Phật bảo Vua:

- Trên đời có hai hạng người khi qua đời đượcsinh cõi Trời. Một là người không tạo gốc tội mà tu thiện, hai là người tạo gốctội mà sám hối việc đã làm, rồi Ngài liền nói kệ:

Người làm hạnh rấtác,

Hối lỗi chuyển sangnhẹ,

Luôn hối không lườinghỉ,

Gốc tội sẽ nhổ sạch.

Cho nên này Đại Vương, nên dùng chính pháp trị dân, chớ dùng phi pháp,người dùng chính pháp cai trị, khi qua đời sinh cõi Trời. Người ấy lại đượcngười đời truyền tụng: “Xưa kia có vị Vua như thế dùng chính pháp cai trị khôngcong vạy.” Lại được sống thọ không bị chết yểu, cho nên Đại Vương nên phát tâmhoan hỉ hướng về ba ngôi Phật Pháp Tăng (Tỳ Kheo), như thế, Đại Vương nên họcđiều này.

Bấy giờ Vua A Xà Thế từ chỗ ngồi đứng dậy, lễ lạy Phật, cáo từ lui ravề. Vua đi chưa xa, Phật bảo các Tỳ Kheo:

- Nếu Vua A Xà Thế không giết cha đã được Sơquả của bậc Sa Môn. Tuy vậy, ngày nay cũng được hạnh phúc lớn, được lòng tin vôcăn. Thế nên, Tỳ Kheo, người làm tội, nên tìm phương tiện thành tựu lòng tin vôcăn; trong hàng Ưu Bà Tắc (Cư sĩ Nam), người được lòng tin vô căn làA Xà Thế vậy.

LỜI BÀN:

Trước khi bàn về đoạn Kinh trên, chúng ta nên duyệt qua mấy danh từ cầnhiểu rõ:

Câu: “Khi đó Vua A Xà Thế đến chỗPhật năm vóc gieo sát đất, hai bàn tay chạm chân Phật

Thế nàolà năm vóc gieo sát đất?Là Vua vừa vào trước mặt Phật liền lễ lạy Phật với đầu,hai tay, hai chân sát đất, gọi là năm vóc gieo sát đất.

Câu: Đức Phật nói: “Giả dụ ngườiấy hết tuổi thọ, diệt độ nơi cảnh giới Vô Dư Niết Bàn

Vô DưNiết Bàn là gì?Là: dứt hết tâm dính mắc, diệt hết các xấu xa ô uế ở đời (dứt hữu lậu), tâmhoàn toàn vắng lặng thanh tịnh, ý giải thoát, tuệ giải thoát, biết như thậtsinh tử đã dứt không còn tái sinh nữa.

Khi Vua A Xà Thế thưa: “Nay conlại sám hối đã ngu si, Phụ Vương không có lỗi mà đem sát hại, nay con đem thânmạng tự quy y. Cúi xin Thế Tôn trừ tội ấy, dẫn nói diệu pháp khiến con được anổn lâu dài. Con đã biết làm tội ác không có căn lành”.

Câu nói: “Cúixin Thế Tôn trừ tội ấy”, thiết nghĩ lời nói này chung cho hầu hết chúngsanh khi phạm tội, biết tội, ăn năn sám hối mong cho khỏi bị tội. Thực ra chỉđược giảm tội thôi chứ không thể trừ hết tội được vì khi tạo tội là tạo nghiệp,nếu là nghiệp nhẹ còn có thể trừ hết được do sám hối và làm lành, còn tội nặngthuộc tội ngũ nghịch thì không sao trừ hết được; nhưng dù sao cũng có được giảmkhinh một phần chứ không phải là không được gì cả. Trong một lần khác về saunhân một dịp khác, đức Phật đã thọ ký cho Vua A Xà Thế sau khi chết sẽ đọa vàomột địa ngục nhẹ hơn địa ngục A Tỳ mà đáng lẽ ông ta phải bị đọa đến. Đó cũnglà kết quả của sám hối và làm biết bao nhiêu Phật sự trong suốt cuộc đời Vua AXà Thế từ lúc đó cho tới khi chết.

Cuối bài kinh, đức Phật khuyên Vua nên dùng chính pháp cai trị sẽ đượcdân khen được quả báo tốt, chứ không nên dùng phi pháp; điều này thì ai cũngbiết, ngoại trừ người cầm quyền nhiều khi say mê trong vinh hiển mà quên mấtlàm điều phải đạo.

Sau cùng, khi Vua về rồi đức Phật bảo đại chúng đệ tử: “- Nếu Vua A Xà Thế không giết cha đã được Sơquả của bậc Sa Môn. Tuy vậy, ngày nay cũng được hạnh phúc lớn, được lòng tin vôcăn.

Thế nàolà lòng tin vô căn? Ngườiác không có gốc thiện mà trở thành thiện, sám hối tội lỗi đã làm không hề quên,không còn hành ác nữa, tin tưởng việc lành và làm điều lành, đó là lòng tin vôcăn.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com