Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Công Trình Phiên Dịch Đại Tạng Kinh Việt Nam

22/12/202413:25(Xem: 53)
Công Trình Phiên Dịch Đại Tạng Kinh Việt Nam


dai hoi hoang phap

CÔNG TRÌNH
PHIÊN DỊCH ĐẠI TẠNG KINH VIỆT NAM
Sa Môn Thích Bảo Lạc

Zoom Meeting on 18/12/24




Lễ giới thiệu thành tựu sơ bộ công trình phiên dịch Đại Tạng Kinh Việt Nam trên hệ thống Zoom toàn cầu ngày 17 tháng 7 năm 2022 mà Tăng Ni, Phật tử và mọi giới trực tiếp hoặc gián tiếp tham dự Phật sự quan trọng này. Đại hội lần này chúng ta vắng bóng HT Thích Tuệ Sỹ, Chủ tịch Hội Đồng phiên dịch hơn một năm qua, công việc Ban Thường vụ, các Hội Đồng … vẫn tiến hành, nhưng tâm cảm chúng ta như mất mát một vật báu vô giá khó có thể tìm lại. Mặc dù thân huyễn Ngài đã trả lại tứ đại, nhưng Pháp thân vẫn tồn tại cùng thân lâm phó hội và gia trì Hội Đồng Phiên Dịch Tam Tạng Lâm Thời (HĐPDTTLT) theo di chúc của Hòa Thượng tiếp tục Công trình phiên dịch Đại Tạng kinh Việt Nam.


 l - Kế thừa Hội Đồng Phiên Dịch Tam Tạng năm 1973 và HĐPDTTLT (2021).

            Đặt kế hoạch y cứ trên 2 nguyên tắc khế lý và khế cơ thành lập HĐPDTTTL. Thánh điển phiên dịch dưới sự chỉ đạo của Viện Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất (GHPGVNTN) được tổ chức qua hội thảo của Chư tôn Trưởng lão Viện đại học Vạn Hạnh từ 20-23/7/1973. Trải qua 35 năm(1973-2008) với tâm nguyện hoàn thành công trình phiên dịch Đại Tạng Kinh Việt Nam, hai vị học giả hàng đầu là giáo sư Trí Siêu- Lê Mạnh Thát và HT Thích Tuệ Sỹ đề khởi dự án tiếp tục công trình PDTT qua tâm thư 2008 như lời mở đầu. Trước khi nhập Niết Bàn, Đức Phật có di giáo tối hậu cho các chúng đệ tử  "Pháp và Luật mà ta đã thuyết và quy định là đạo sư cũa các ngươi khi ta nhập diệt". Hai vị thuyết trình viên nhận thấy rõ trong thời điểm hiện tại, công cuộc phiên dịch Phật điển chúng ta chưa đủ tiêu chuẩn dù nỗ lực tới đâu, nhưng vì hoàn cảnh nhiễu nhương của đất nước nên thành tựu rất khiêm nhường. Bởi lẽ, các thành tựu có được cũng chưa đủ điều kiện và biên tập theo tiêu chuẩn nghiên cứu và phiên dịch Phật điển trong trình độ nghiên cứu Phật giáo hiện đại của thế giới, do đó cũng chưa thể dự phần trong sự nghiệp phiên dịch và nghiên cứu Phật học trên qui mô quốc tế như là cống hiến của Phật giáo Việt Nam cho cộng đồng nhân loại trong sự nghiệp hoằng dương Chánh pháp của toàn thể Phật tử  thế giới.

            Do vậy, tâm thư khẩn thiết rằng trên nương nhờ uy thần nhiếp thọ của chư Phật và Thánh Tăng, cùng với sự tán trợ của chư vị Trưởng lão hiện tiền trong hàng tăng bảo, kêu gọi sự hỗ trợ cống hiến bằng tất cả tâm nguyện và trí lực của bốn chúng đệ tử Phật, để sự nghiệp hoằng Pháp đệ nhất tối thắng này được tiến hành vững chắc liên tục từ thế hệ này cho đến nhiều thế hệ tiếp theo, duy trì ngọn đèn Chánh Pháp tồn tại lâu dài trong thế gian vì lợi ích và an lạc của hết thảy chúng sanh.

            (Trí Siêu và Tuệ Sỹ cẩn bạch- PĐ2552, Mậu Tý, 2008).

              Tâm thư kêu gọi tha thiết của giáo sư Trí Siêu và HT Tuệ Sỹ mãi tới năm 2021 được đầy đủ nhân duyên thành lập Hội Đồng Phiên Dịch Lâm Thời: Cố vấn giáo sư Trí siêu- Lê Mạnh Thát (VN), Chủ tịch HT Thích Tuệ Sỹ (VN), nhưng trước khi về hầu Phật, HT Tuệ Sỹ chính thức công cử HT Chánh thư ký  Thích Như Điển (Đức Quốc), kiêm nhiệm Chủ tịch HĐPDTTLT, Phó thư ký quốc nội HT Thích Thái Hòa (VN), Phó thư ký hải ngoại HT Thích Nguyễn Siêu (Hoa kỳ).

             Với trách nhiệm giáo sư Cố vấn và HT cựu Chủ tịch  vẫn lưu tâm  Hội Đồng phiên dịch:

            Ngày nay do sự phát hiện nhiều bản kinh luận quan trọng bằng tiếng Sanskrit, cũng như sự phổ biến ngôn ngữ Tây Tạng mà phần lớn kinh điển Sanskrit được phiên dịch, nên nhiều công trình chỉnh lý được thực hiện cho các bản dịch Phạn, Hán. Thêm vào đó, do sự phổ biến ngôn ngữ Pali, vốn được xem là ngôn ngữ Thánh điển gần với nguyên thuyết nhất, một số sai lầm trong bản dịch A Hàm cũng được chỉnh lý và tỷ giảo, khiến cho lời dạy của Đức Thế Tôn được thọ trì một cách trong sáng hơn.


 Il- Đại Tạng Kinh Việt Nam.

             Khi hoàn thành bộ Tam Tạng Việt ngữ làm sở y cho bốn chúng đệ tử tu học bằng ngôn ngữ, văn cú chuẩn mực hàn lâm qua bản dịch Việt ngữ, có thể tìm thấy những tinh hoa giáo nghĩa, gợi cảm hứng cho công trình nghiên cứu của các nhà nghiên cứu, các học giả trong các lãnh vực khoa học, văn hóa, giáo dục, kinh tế, xã hội v.v...

             Nhờ những dấu mốc định hướng giúp ta tìm về cội nguồn dân tộc cũng như đạo Phật Việt, cho nên nghiên cứu lịch sử (theo lời giới thiệu lịch sử PGVN của giáo sư Lê Mạnh Thát) không thể không nghiên cứu lịch sử Phật giáo. Lịch sử Phật giáo VN đã trở thành một bộ môn  của lịch sử dân tộc.

             Đại tạng kinh chữ Hán không phải chỉ một bản mà có trên 20 bản, Đại tạng kinh Việt Nam chọn Đại Chánh tạng làm đế bản, phiên dịch tất cả tác phẩm được ấn hành trong đó theo phàm lệ quy định, gồm 100 tập, được biên tập khởi đầu từ niên hiệu Đại chánh (Taisho) thứ 11 (TL 1922) cho đến niên hiệu Chiêu Hòa (Showa) thứ 9 (TL 1934) tập hợp trên 100 nhà nghiên cứu Phật học hàng đầu của Nhật Bản, dưới sự chủ trì của Cao Nam Thuận Thứ lang (Takakusu Junjiro) và Độ Biên Hải Húc (Watanabe Kaigyoku). Đế bản sử dụng là bản in của chùa Hải Ấn, Triều Tiên, được gọi là bản Cao Lệ. Công trình chỉnh lý văn bản căn cứ các khắc bản Tống, Nguyên, Minh, cùng một số khắc bản và thủ bản tại Hoa và Nhật khác như bản Thiên Bình, bản Liêu của Cung nội sảnh, Triệu Thành Kim tạng, Phổ Ninh tạng, Hoằng pháp tạng, Long tạng, Vạn Chánh tạng kinh, Vạn Tục tạng kinh, Đại Chánh tạng.

            Hòa Thượng Tuệ Sỹ Chủ tịch HĐPD tâm nguyện công trình phiên dịch Đại Tạng kinh là đệ nhất tối thượng, Người dồn hết tâm lực vào đây cho tới giờ phút cuối. Trong bức tâm thư gởi đến tăng ni trẻ, Ôn nhắn nhủ, gởi gấm với những lời tha thiết: "Hy vọng mong manh là một số ít các thầy cô trẻ, những vị chưa bị mê hoặc bởi các giá trị thế tục, chưa bi ô nhiễm bởi địa vị vinh quang được thế quyền phong tặng, những vị mà sơ tâm xuất gia chưa biến thành đồng ruộng hoang hóa, tạm đủ là ruộng phước cho nhiều người, những vị ấy sẽ bằng nghị lực tinh tấn, tự ý thức sứ mệnh của người xuất gia, cùng một thầy học, cùng hòa hiệp như nước với sữa, kế thừa những gì Thầy Tổ tâm nguyện mà chưa hoàn thành, giữ sáng ngọn đuốc Chánh pháp trong đêm trường sanh tử tối tăm, giữ sáng và thắp sáng ngọn đuốc bao dung, nhân ái để trao truyền cho các thế hệ tiếp nối. Vì sự thanh bình phúc lạc của dân tộc, vì sự hạnh phúc an lạc của nhiều người, củà muôn sinh".


 lIl- Khái quát phiên dịch Đại Tạng Kinh Việt Nam

            Hòa Thượng Tuệ Sỹ phân tích hai chữ thanh văn, dịch sát nghĩa chữ Phạn là Sràvaka. Nếu tạm gát chữ thanh qua một bên trước thì có nghĩa là "người nghe", truyền thống ở Ấn Độ khi họ học về kinh điển Vệ Đà được cho là "Thánh ngôn", không có người nói, vô thủy vô chung- không biết từ vô thủy vô chung thời nào đã có những Thánh ngôn đó ẩn tàng trong vũ trụ. Các nhà Rsị (Rishi)- gọi là những tiên nhân-nghe được rồi phát biểu ra. Do vậy, đối với người Ấn Độ thì những  thánh ngôn ấy, không thể chép thành lời. Văn minh cổ Ấn Độ không phải không sáng tạo được chữ viết, nhưng họ không cho phép được chép ra, chỉ truyền khẩu coi như giữa "thầy và trò". Nếu đọc kinh sẽ gặp thường xuyên chữ này. Khi nói về phẩm đức của Tăng thì gọi là Sanghaguna (Pali: Sapatipanno balagavato sàvakasangho). Tất cả các cộng đồng tôn giáo dưới thời Đức Phật đều được gọi là tăng già. Khi Phật giáo qua Trung Quốc thì chữ Sràvaka được dịch là đệ tử. Vì chữ Sràvaka nghĩa đúng là những người nghe, tức những người ngồi quanh dưới chân thầy để nghe thầy giảng dạy. Ta cần phân biệt chữ Sràvaka ấy khi nói bình thường thì gọi là đệ tử, khi muốn nhấn mạnh ý nghĩa tôn trọng thì người ta lại dịch là Thanh văn: Gọi là Thanh văn tăng hay là chúng đệ tử của Đức Thế Tôn chỉ cho đệ tử Phật mà thôi. Những vị này thật ra bao hàm hết tất cả, không phân biệt Đại thừa hay Tiểu thừa. Những vị ghi chép lại lời dạy của Phật đúc kết lại thành Tam tạng thánh giáo cũng thường được gọi là 3 kho tàng. Thanh văn tạng có nghĩa là kho tàng thánh điển mà chính các đệ tử của Đức Phật đã trực tiếp ghi chép lại những lời giảng của Thế Tôn. Về sau các vị Thánh Tăng tiếp theo xuất hiện và đã diễn dịch và giảng giải những lời dạy của Đức Phật. Ngoài vấn đề ngôn ngữ và thời đại xa xôi, còn có những ý nghĩa sâu sắc của Thánh giáo không thể hiểu hết được nên bắt buộc phải được giảng giải. Các Ngài đã tập hợp tất cả kinh, luật, và luận gọi là Tam tạng Thánh giáo.

            Vậy tại sao gọi là Thanh văn tạng?

            Đại tạng không phân chia theo Tiểu, Đại thừa nữa mà phân chia theo lịch sử phát triển Phật giáo.

            Kinh: Đầu tiên tất nhiên là bộ A Hàm. Kế tiếp là Bát Nhã, Hoa Nghiêm, và Pháp Hoa.

            Luận: Bắt đầu các bộ phái, Theravada có 7 bộ luận. Bắc tông cũng có 7 bộ luận theo thứ tự A Tỳ Đàm, Trung Quán và Du Già.

            Luật cũng vậy, chia ra luật Thanh văn (chứ không gọi Tiểu thừa) và luật Bồ Tát. Thanh văn gồm có 5 bộ luật chính. Sau đó luật Bồ Tát như Phạm Võng Bồ Tát giới, và Du Già Bồ Tát giới.

            Bây giờ phiên dịch từ A Hàm trở đi chúng ta không làm nổi. Vì thứ nhất giáo lý quá cao siêu phức tạp thành ra phải có một cơ bản trước, mà cơ bản ấy chính là nằm trong Thanh văn tạng. Tất cả giáo lý cao siêu đều nằm trong Thanh văn tạng, tức là khai triển những lời Phật dạy từ trong A Hàm mà ra. Cho nên ta bắt đầu từ các tạng Thanh văn, và kinh luật luận trong A Tỳ Đàm trước. Chủ yếu là A Tỳ Đàm tại vì trong A Tỳ Đàm trích kinh điển trong A Hàm để giảng giải và từ đó phát triển ra thành Đại thừa.

            Do điều kiện lịch sử mỗi dân tộc có tiếng nói riêng biệt của mình, mang bản sắc cá biệt của dân tộc mình. Khi có sự tiếp xúc giữa hai dân tộc bên này muốn tìm hiểu bên kia, hiểu để sống chung hòa hiệp, phân phối đồng đều tài nguyên thiên nhiên, và trao đổi hữu ích các thành quả Iao động, điều trước tiên cần làm là học ngôn ngữ.

            Cũng như muốn hiểu một dân tộc với tất cả tình cảm, tư duy, phong tục, tập quán...., thì điều kiện tất yếu phải hiểu được ngôn ngữ của dân tộc ấy, như là điều chắc chắn không sai.

            Ngôn ngữ là yếu tố quan trọng trong công trình phiên dịch Đại tạng kinh phải liên tục, trường kỳ từ đời này qua đời khác, kiếp hiện tại kiếp tới và vô số kiếp sau. Ấy là chúng ta theo mô phạm trên dưới Phật- Tổ-Thầy dẫn dắt, khai sáng đệ tử, môn phong pháp phái … duy trì Pháp bảo của đấng cha lành, là bậc thầy của trời người mà bốn chúng đệ tử Phật duy trì theo dòng lịch sử hơn hai nghìn sáu trăm năm qua. Bước sang thế kỷ 21, nhân loại chuyển mình đổi mới tiến theo đà văn minh vật chất, cá nhân chủ nghĩa, những phát minh mới về công cụ, kỹ thuật, gia tăng hiệu quả lao động. Bởi lẽ, môi trường thiên nhiên có ảnh hưởng nhất định lên tình cảm và tư duy của từng cá nhân.

       …Cũng vậy, trong quá trình phát triển cộng đồng, ngôn ngữ với những quy định cá biệt trong nội bộ cộng đồng dần dần trở thành biểu hiệu cá tính hay ý thức cộng đồng, mà ở mức độ bình thường ta gọi là tinh thần cộng đồng, hay tinh thần xã hội. Khi cộng đồng ấy phát triển lớn mạnh thành một nước, thành một dân tộc, tinh thần ấy trở thành điều mà chúng ta gọi là tinh thần dân tộc. Ngôn ngữ bấy giờ không chỉ là công cụ chuyển tải thông tin, mà đích thực là tín hiệu hay biểu hiện bản sắc của một cộng đồng hay lớn hơn của một dân tộc.

            Chẳng hạn, những người thuộc bộ lạc nguyên thủy châu Phi kết bầy đi săn, dùng ngôn ngữ bàn tay để biểu hiện động vật, đó là cách trao đổi tín hiệu với những người cùng săn. Nếu nói rằng ngôn ngữ bàn tay thay thế cái miệng liệu có ổn?

            Còn so với những ngôn ngữ phát triển như Anh ngữ, Hán ngữ, Đức ngữ, Nhật ngữ, các ngôn ngữ nguyên thủy đơn giản này có thể nào biểu đạt được những sự vật trừu tượng, phức tạp, và tinh tế? Nó cũng chẳng khác nào thầy giáo hướng dẫn người câm học ngôn ngữ qua bàn tay thì không cách chi người học nắm bắt được những điều tinh tế? Cũng như người ta nói "Biết người, biết măt, dễ biết lòng sao?"

            Nói cách khác, giáo pháp của Phật là pháp vô ngôn. Được phô diễn thành lời đã là sự lạ rồi, mà nay lại được dịch từ lời đó ra lời khác, thì thật đáng lạ hơn nữa. Đây là điểm mà các nhà phiên dịch kinh Phật cũng như các nhà nghiên cứu Phật học Trung Hoa đều luôn luôn cảnh giác. Bởi vì tình trạng tam sao thất bản, nhầm lẫn từ này với từ kia, ý nghĩ này với ý nghĩ khác, xãy ra không phải hiếm.


 IV- Thuật Phiên Dịch
.

            Ý dịch có từ rất sớm do Ngài Đạo An chủ trương từ thế kỷ thứ 4 Tây lịch và trực dịch bởi Ngài Phật Niệm, vẫn tiếp tục trong lịch sử phiên dịch Phật điển tại Trung Hoa, mà cao điểm đối lập của hai chủ trương này là Ngài Cưu Ma La Thập, ý dịch  và Ngài Huyền Trang, trực dịch (đời Đường).

            Ba điều không dễ trong việc phiên dịch của Ngài Đạo An, đề cập đến nội dung chuyển tải, điều khó thứ nhất, tâm của bậc đại trí tam minh, lời của đấng Giác ngộ đã khuất, những gì Thánh nói tất tùy thời. Thời gian, phong tục tất có đổi khác, mà nay muốn chuyển dịch những điều cao nhã cổ xưa sao cho phù hợp với thời nay, đây là điều  không dễ.

            Ngu và trí cách nhau trời vực. Thánh nhân há có thềm bậc, mà muốn đem lời ẩn ảo trên nghìn năm trước truyền cho phù hợp với lịch đại đế vương xuống đến hạng mạc tục. đây là điều không dễ thứ hai.

            A Nan đọc lại kinh, cách Phật không xa, thế mà Đại-Ca-Diếp còn yêu cầu năm trăm A- La-Hán lục thông thay nhau thẩm định lại. Huống hồ cách đây cả nghìn năm rồi, lấy ý gần của mình mà đắn đo, các vị La Hán còn thận trọng như thế, thì những con người trong vòng sinh tử bình phàm như thế này há lại không biết rằng sự thấu hiểu Pháp là quan trọng hay sao? Đó là điều không dễ thứ ba.

            Về mặt hình thức, do vấn đề ngữ pháp, người dịch thường gặp phải trường hợp gọi là mất gốc. Bản dịch có nhiều khi phản bội lại bản gốc là điều không thể tránh khỏi.

            Như trên khái lược Kinh, Luận bây giờ về Luật, lời giới thiệu luật Tứ phần, tái bản lần thứ nhì, bản Việt dịch của HT Thích Đổng Minh năm 2005, Ôn Tuệ Sỹ trân trọng ngưỡng phục bậc thầy mô phạm trong chốn thiền môn.” HT là một trong số rất ít trong các Tỳ kheo trì luật của tăng già Việt Nam kể từ khi Phật giáo được trùng hưng, tăng già được chấn chỉnh và khôi phục. Thế hệ thứ nhất trong phả hệ truyền thừa luật tạng của tăng già Việt Nam thời trùng hưng hiện đại bao gồm bóng mờ của nhiều bậc Thượng tôn Trưởng lão, uy nghi đĩnh đạc, nhưng khó hình dung rõ nét đối với các thế hệ tiếp bước theo sau. Các Ngài xứng đáng là các bậc Long Tượng trong chốn tòng lâm, mà đời sống phạm hạnh nghiêm túc, phản chiếu giới đức sáng ngời, tịnh như băng tuyết, mãi mãi ghi dấu trên các nẻo đường hành cước, tham phương hoằng truyền Chánh pháp".

            Trước sự phá sản của giá trị đạo đức truyền thống càng lúc càng trầm trọng diễn ra khiến các cộng đồng xã hội đang mất dần tính tự chủ, dễ bị tha hóa theo những giá trị vật chất,những tín điều đạo đức tôn giáo mới càng lúc càng trở thành tiêu chuẩn cho văn minh tiến bộ theo hướng vật dục và nuôi dưỡng tinh thần cuồng tín và kỳ thị. Sự phá sản tinh thần không chỉ xảy ra trong một phạm vi xã hội, mà nó lan dần đến cả trong sinh hoạt thiền môn. Thanh quy của Thlền môn chỉ còn là một lớp vỏ, mà lại là lớp vỏ rách nát không đủ che đậy những dấu hiệu thoái hóa. Tăng già đang trên chiều hướng tục hóa, có nguy cơ trở thành một cộng đồng ô hợp, tồn tại, chỉ vì quyền lợi vật chất thế gian. Trên những lối đi đầy gai góc của rừng Thiền bấy giờ, vẫn luôn luôn ảnh hiện những dấu chân Long Tượng dấn bước tìm lại lối mòn cổ đạo đồng thời thuận hướng với trào lưu lịch sử của đất nước và nhân loại. Đó là những bước đi tái khai phá, dò dẫm một cách thận trong"


 V- Phát hành Bồ Tát tạng.

            Số lượng ấn hành giới hạn vừa tiết kiệm ngân khoản,cũng như vừa góp phần hữu hiệu bảo vệ thiên nhiên,môi trường. Thiển nghĩ, độc giả nào cần bộ Đại Tạng tiếng Việt phải theo điều kiện Ban Phát hành quy đinh.

            Bởi lẽ, Trong hiện tại, số lượng sách báo giấy xuất bản đã giảm xuống còn chừng 30 phần trăm so với trước đây. Nếu cần nghiên cứu người đọc chỉ bấm vào các trang mạng liền hiện lên đầy đủ mọi lãnh vực muốn tìm, và nhanh gọn lại ít tốn thời gian.

            Công việc ấn hành đợt 2, Bồ Tát tạng mọi chi tiết để nhường lại Ban liên hệ  bổ túc thêm cho được đầy đủ.

            Ngưỡng nguyện thập phương chư Phật, Thánh hiền Tăng, Thầy Tổ thùy từ chứng minh Hội Đồng Phiên Dịch Tam Tạng Lâm Thời hoàn thành Việt Phật Đại Tang Kinh để lợi ích nhân loại và mọi loài chúng sanh.

 

Sa môn THÍCH BẢO LẠC

           


Hoi dong hoang phap (2)

           

                                                                                                                                     

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
26/03/2023(Xem: 1263)
Đế quốc Maurya là một thế lực hùng mạnh trên một diện tích rộng lớn vào thời Ấn Độ cổ đại, do vương triều Maurya cai trị từ năm 321 đến 185 trước TL, triều đại đầu tiên thống nhất miền bắc Ấn Độ, có liên hệ mật thiết với lịch sử Phật giáo. Đặc biệt, Đại đế Asoka thuộc thế hệ thứ ba vương triều Maurya do ông nội ông, Chandragupta, sáng lập. Hoàng đế Maurya Ashoka (trị vì từ năm 273 đến 232 trước TL), một trong những hoàng đế Ấn Độ kiệt xuất, Hoàng đế Maurya Ashoka toàn thắng trong một loạt các cuộc chinh phạt và đã cai trị phần lớn vùng Nam Á, từ Afghanistan cho đến Bengal hiện nay và đi sâu đến miền Nam tận Mysore.
23/03/2023(Xem: 1379)
Tiến sĩ Jeffery A. Martin, người sáng lập và Giám đốc Công nghệ số cộng đồng trong chuyển đổi số, một doanh nhân và nhà khoa học xã hội. Gần đây, ông đã tiếp cận với phóng viên báo Buddhadoor Global. Thảo luận của ông về cách thức như thế nào để chuyển đổi “tính ích kỷ” (selfish) trở nên hạnh phúc hơn đã trở thành một cuộc điều tra trên toàn thế giới về việc nâng cao hạnh phúc con người.
22/03/2023(Xem: 5494)
Năm 2011, chuyên mục này đã đưa ra một số chủ đề lớn, từ những phương pháp hay nhất, dành cho tăng đoàn Phật giáo với khoa học công nghệ best practices with technology for sanghas, đến việc khám phá các mối quan hệ giữa sự thật khoa học thần kinh và Phật pháp relationship between truth, neuroscience, and the Dharma. Sau đó, chúng tôi đề cập đến tính hai mặt dưới góc nhìn khoa học thần kinh duality in light of neuroscience, và bắt đầu chỉ ra những lợi ích của việc xây dựng một lý thuyết khoa học về sự văn minh a scientific theory of enlightenment. Bởi thắc mắc này đang đưa ra những chủ đề mới dịp đầu xuân này, có lẽ tôi nên nhấn mạnh điều gì đó.
20/03/2023(Xem: 1410)
Với đôi mắt có hồn tỏa ra thần thái thu hút, rạng ngời và chau mày với vẻ mặt trầm ngâm của vị Trưởng lão Hòa thượng Karmayōgī Kṛpāśaraṇa Mahāthērō (22, 6, 1865-30,4, 1927), ngay lập tức có thể nhận ra với bất kỳ người Bengali hoặc Bangladesh nào gần một thế kỷ sau khi Ngài thu thần viên tịch. Trưởng lão Hòa thượng Karmayōgī Kṛpāśaraṇa Mahāthērō, nhà từ thiện Phật giáo Nguyên thủy, nhà cải cách quan trọng của Phật giáo Ấn Độ vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20.
18/03/2023(Xem: 1133)
Sau khi Chính quyền Liên bang thông qua dự luật vào hôm thứ Sáu, ngày 17 tháng 3 năm 2023, Vương quốc Bỉ sẽ chính thức công nhận đạo Phật là tôn giáo, khai thông lộ trình cho đoàn thể tăng già Phật giáo thanh tịnh hòa hợp, Phật giáo đồ tiếp cận nguồn ngân sách Liên bang, kiến tạo trường học. . .
17/03/2023(Xem: 3075)
Phật tử Tích Lan cung nghinh HT Thông Hải với nghi thức trang trọng
05/03/2023(Xem: 1711)
Vào lúc 9 giờ sáng ngày 3 tháng 3 năm 2023 (11/2/Quý Mão) sẽ diễn ra buổi lễ Khai trương Văn phòng Phật giáo Won (Viên) tại Hà Nội, sự kiện được tổ chức tại địa chỉ Lô 101-TT4. KĐT Mỹ Đình Mễ Trì, quận Nam Từ Liêm, Tp. Hà Nội.
11/02/2023(Xem: 4098)
Đại Hội Huynh Trưởng GĐPTVN – UĐL lần thứ 11 đã được diễn ra từ ngày 25-27 tháng 12 năm 2022, nhằm mục đích củng cố nhân sự và phát triễn tổ chức giữa thời đại công nghệ mới. Qua 9 buổi Khoáng Đại, Đại Hội đã thành công viên mãn với kết quả là có 2 cơ chế song hành tại quản hạt Úc Đại Lợi:
10/12/2022(Xem: 1846)
Roberto Baggio sinh ngày 18/02/1967 tại Caldogno, Ý. Anh có biệt danh là “đuôi ngựa thần thánh” và được xem là một trong những tiền đạo vĩ đại nhất trong lịch sử bóng đá Ý. Danh thủ người Ý giành được cả 2 danh hiệu cao quý nhất của bóng đá thế giới khi còn thi đấu là Quả bóng vàng châu Âu (1993) và Cầu thủ xuất sắc nhất năm của FIFA (1993). Anh còn nổi tiếng khắp thế giới vì thực hiện không thành công loạt đá luân lưu của mình khiến đội tuyển Ý thất bại trước Brazil trong trận chung kết World Cup 1994. Đạo Phật đã thay đổi nhận thức của Baggio về cuộc đời và giúp anh vượt qua những chấn thương, thất bại, tìm được cuộc sống hạnh phúc như hiện tại
19/10/2022(Xem: 3695)
Thời gian thấm thoát trôi qua nhanh, đã bốn năm kể từ khi Sư bà Diệu Từ viên tịch. Hôm nay, ngày 08 tháng 10 năm 2022, quý Ni sư và Phật tử Chùa Diệu Quang, Sacramento, thủ phủ California, thành kính thiết lễ húy nhật lần thứ 2, lễ cắt băng khánh thành Đại Bảo Tháp Ân Sư, Lễ Nhập Cốt và An vị Tôn tượng Sư bà ân sư.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]