Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Công Trình Phiên Dịch Đại Tạng Kinh Việt Nam

22/12/202413:25(Xem: 52)
Công Trình Phiên Dịch Đại Tạng Kinh Việt Nam


dai hoi hoang phap

CÔNG TRÌNH
PHIÊN DỊCH ĐẠI TẠNG KINH VIỆT NAM
Sa Môn Thích Bảo Lạc

Zoom Meeting on 18/12/24




Lễ giới thiệu thành tựu sơ bộ công trình phiên dịch Đại Tạng Kinh Việt Nam trên hệ thống Zoom toàn cầu ngày 17 tháng 7 năm 2022 mà Tăng Ni, Phật tử và mọi giới trực tiếp hoặc gián tiếp tham dự Phật sự quan trọng này. Đại hội lần này chúng ta vắng bóng HT Thích Tuệ Sỹ, Chủ tịch Hội Đồng phiên dịch hơn một năm qua, công việc Ban Thường vụ, các Hội Đồng … vẫn tiến hành, nhưng tâm cảm chúng ta như mất mát một vật báu vô giá khó có thể tìm lại. Mặc dù thân huyễn Ngài đã trả lại tứ đại, nhưng Pháp thân vẫn tồn tại cùng thân lâm phó hội và gia trì Hội Đồng Phiên Dịch Tam Tạng Lâm Thời (HĐPDTTLT) theo di chúc của Hòa Thượng tiếp tục Công trình phiên dịch Đại Tạng kinh Việt Nam.


 l - Kế thừa Hội Đồng Phiên Dịch Tam Tạng năm 1973 và HĐPDTTLT (2021).

            Đặt kế hoạch y cứ trên 2 nguyên tắc khế lý và khế cơ thành lập HĐPDTTTL. Thánh điển phiên dịch dưới sự chỉ đạo của Viện Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất (GHPGVNTN) được tổ chức qua hội thảo của Chư tôn Trưởng lão Viện đại học Vạn Hạnh từ 20-23/7/1973. Trải qua 35 năm(1973-2008) với tâm nguyện hoàn thành công trình phiên dịch Đại Tạng Kinh Việt Nam, hai vị học giả hàng đầu là giáo sư Trí Siêu- Lê Mạnh Thát và HT Thích Tuệ Sỹ đề khởi dự án tiếp tục công trình PDTT qua tâm thư 2008 như lời mở đầu. Trước khi nhập Niết Bàn, Đức Phật có di giáo tối hậu cho các chúng đệ tử  "Pháp và Luật mà ta đã thuyết và quy định là đạo sư cũa các ngươi khi ta nhập diệt". Hai vị thuyết trình viên nhận thấy rõ trong thời điểm hiện tại, công cuộc phiên dịch Phật điển chúng ta chưa đủ tiêu chuẩn dù nỗ lực tới đâu, nhưng vì hoàn cảnh nhiễu nhương của đất nước nên thành tựu rất khiêm nhường. Bởi lẽ, các thành tựu có được cũng chưa đủ điều kiện và biên tập theo tiêu chuẩn nghiên cứu và phiên dịch Phật điển trong trình độ nghiên cứu Phật giáo hiện đại của thế giới, do đó cũng chưa thể dự phần trong sự nghiệp phiên dịch và nghiên cứu Phật học trên qui mô quốc tế như là cống hiến của Phật giáo Việt Nam cho cộng đồng nhân loại trong sự nghiệp hoằng dương Chánh pháp của toàn thể Phật tử  thế giới.

            Do vậy, tâm thư khẩn thiết rằng trên nương nhờ uy thần nhiếp thọ của chư Phật và Thánh Tăng, cùng với sự tán trợ của chư vị Trưởng lão hiện tiền trong hàng tăng bảo, kêu gọi sự hỗ trợ cống hiến bằng tất cả tâm nguyện và trí lực của bốn chúng đệ tử Phật, để sự nghiệp hoằng Pháp đệ nhất tối thắng này được tiến hành vững chắc liên tục từ thế hệ này cho đến nhiều thế hệ tiếp theo, duy trì ngọn đèn Chánh Pháp tồn tại lâu dài trong thế gian vì lợi ích và an lạc của hết thảy chúng sanh.

            (Trí Siêu và Tuệ Sỹ cẩn bạch- PĐ2552, Mậu Tý, 2008).

              Tâm thư kêu gọi tha thiết của giáo sư Trí Siêu và HT Tuệ Sỹ mãi tới năm 2021 được đầy đủ nhân duyên thành lập Hội Đồng Phiên Dịch Lâm Thời: Cố vấn giáo sư Trí siêu- Lê Mạnh Thát (VN), Chủ tịch HT Thích Tuệ Sỹ (VN), nhưng trước khi về hầu Phật, HT Tuệ Sỹ chính thức công cử HT Chánh thư ký  Thích Như Điển (Đức Quốc), kiêm nhiệm Chủ tịch HĐPDTTLT, Phó thư ký quốc nội HT Thích Thái Hòa (VN), Phó thư ký hải ngoại HT Thích Nguyễn Siêu (Hoa kỳ).

             Với trách nhiệm giáo sư Cố vấn và HT cựu Chủ tịch  vẫn lưu tâm  Hội Đồng phiên dịch:

            Ngày nay do sự phát hiện nhiều bản kinh luận quan trọng bằng tiếng Sanskrit, cũng như sự phổ biến ngôn ngữ Tây Tạng mà phần lớn kinh điển Sanskrit được phiên dịch, nên nhiều công trình chỉnh lý được thực hiện cho các bản dịch Phạn, Hán. Thêm vào đó, do sự phổ biến ngôn ngữ Pali, vốn được xem là ngôn ngữ Thánh điển gần với nguyên thuyết nhất, một số sai lầm trong bản dịch A Hàm cũng được chỉnh lý và tỷ giảo, khiến cho lời dạy của Đức Thế Tôn được thọ trì một cách trong sáng hơn.


 Il- Đại Tạng Kinh Việt Nam.

             Khi hoàn thành bộ Tam Tạng Việt ngữ làm sở y cho bốn chúng đệ tử tu học bằng ngôn ngữ, văn cú chuẩn mực hàn lâm qua bản dịch Việt ngữ, có thể tìm thấy những tinh hoa giáo nghĩa, gợi cảm hứng cho công trình nghiên cứu của các nhà nghiên cứu, các học giả trong các lãnh vực khoa học, văn hóa, giáo dục, kinh tế, xã hội v.v...

             Nhờ những dấu mốc định hướng giúp ta tìm về cội nguồn dân tộc cũng như đạo Phật Việt, cho nên nghiên cứu lịch sử (theo lời giới thiệu lịch sử PGVN của giáo sư Lê Mạnh Thát) không thể không nghiên cứu lịch sử Phật giáo. Lịch sử Phật giáo VN đã trở thành một bộ môn  của lịch sử dân tộc.

             Đại tạng kinh chữ Hán không phải chỉ một bản mà có trên 20 bản, Đại tạng kinh Việt Nam chọn Đại Chánh tạng làm đế bản, phiên dịch tất cả tác phẩm được ấn hành trong đó theo phàm lệ quy định, gồm 100 tập, được biên tập khởi đầu từ niên hiệu Đại chánh (Taisho) thứ 11 (TL 1922) cho đến niên hiệu Chiêu Hòa (Showa) thứ 9 (TL 1934) tập hợp trên 100 nhà nghiên cứu Phật học hàng đầu của Nhật Bản, dưới sự chủ trì của Cao Nam Thuận Thứ lang (Takakusu Junjiro) và Độ Biên Hải Húc (Watanabe Kaigyoku). Đế bản sử dụng là bản in của chùa Hải Ấn, Triều Tiên, được gọi là bản Cao Lệ. Công trình chỉnh lý văn bản căn cứ các khắc bản Tống, Nguyên, Minh, cùng một số khắc bản và thủ bản tại Hoa và Nhật khác như bản Thiên Bình, bản Liêu của Cung nội sảnh, Triệu Thành Kim tạng, Phổ Ninh tạng, Hoằng pháp tạng, Long tạng, Vạn Chánh tạng kinh, Vạn Tục tạng kinh, Đại Chánh tạng.

            Hòa Thượng Tuệ Sỹ Chủ tịch HĐPD tâm nguyện công trình phiên dịch Đại Tạng kinh là đệ nhất tối thượng, Người dồn hết tâm lực vào đây cho tới giờ phút cuối. Trong bức tâm thư gởi đến tăng ni trẻ, Ôn nhắn nhủ, gởi gấm với những lời tha thiết: "Hy vọng mong manh là một số ít các thầy cô trẻ, những vị chưa bị mê hoặc bởi các giá trị thế tục, chưa bi ô nhiễm bởi địa vị vinh quang được thế quyền phong tặng, những vị mà sơ tâm xuất gia chưa biến thành đồng ruộng hoang hóa, tạm đủ là ruộng phước cho nhiều người, những vị ấy sẽ bằng nghị lực tinh tấn, tự ý thức sứ mệnh của người xuất gia, cùng một thầy học, cùng hòa hiệp như nước với sữa, kế thừa những gì Thầy Tổ tâm nguyện mà chưa hoàn thành, giữ sáng ngọn đuốc Chánh pháp trong đêm trường sanh tử tối tăm, giữ sáng và thắp sáng ngọn đuốc bao dung, nhân ái để trao truyền cho các thế hệ tiếp nối. Vì sự thanh bình phúc lạc của dân tộc, vì sự hạnh phúc an lạc của nhiều người, củà muôn sinh".


 lIl- Khái quát phiên dịch Đại Tạng Kinh Việt Nam

            Hòa Thượng Tuệ Sỹ phân tích hai chữ thanh văn, dịch sát nghĩa chữ Phạn là Sràvaka. Nếu tạm gát chữ thanh qua một bên trước thì có nghĩa là "người nghe", truyền thống ở Ấn Độ khi họ học về kinh điển Vệ Đà được cho là "Thánh ngôn", không có người nói, vô thủy vô chung- không biết từ vô thủy vô chung thời nào đã có những Thánh ngôn đó ẩn tàng trong vũ trụ. Các nhà Rsị (Rishi)- gọi là những tiên nhân-nghe được rồi phát biểu ra. Do vậy, đối với người Ấn Độ thì những  thánh ngôn ấy, không thể chép thành lời. Văn minh cổ Ấn Độ không phải không sáng tạo được chữ viết, nhưng họ không cho phép được chép ra, chỉ truyền khẩu coi như giữa "thầy và trò". Nếu đọc kinh sẽ gặp thường xuyên chữ này. Khi nói về phẩm đức của Tăng thì gọi là Sanghaguna (Pali: Sapatipanno balagavato sàvakasangho). Tất cả các cộng đồng tôn giáo dưới thời Đức Phật đều được gọi là tăng già. Khi Phật giáo qua Trung Quốc thì chữ Sràvaka được dịch là đệ tử. Vì chữ Sràvaka nghĩa đúng là những người nghe, tức những người ngồi quanh dưới chân thầy để nghe thầy giảng dạy. Ta cần phân biệt chữ Sràvaka ấy khi nói bình thường thì gọi là đệ tử, khi muốn nhấn mạnh ý nghĩa tôn trọng thì người ta lại dịch là Thanh văn: Gọi là Thanh văn tăng hay là chúng đệ tử của Đức Thế Tôn chỉ cho đệ tử Phật mà thôi. Những vị này thật ra bao hàm hết tất cả, không phân biệt Đại thừa hay Tiểu thừa. Những vị ghi chép lại lời dạy của Phật đúc kết lại thành Tam tạng thánh giáo cũng thường được gọi là 3 kho tàng. Thanh văn tạng có nghĩa là kho tàng thánh điển mà chính các đệ tử của Đức Phật đã trực tiếp ghi chép lại những lời giảng của Thế Tôn. Về sau các vị Thánh Tăng tiếp theo xuất hiện và đã diễn dịch và giảng giải những lời dạy của Đức Phật. Ngoài vấn đề ngôn ngữ và thời đại xa xôi, còn có những ý nghĩa sâu sắc của Thánh giáo không thể hiểu hết được nên bắt buộc phải được giảng giải. Các Ngài đã tập hợp tất cả kinh, luật, và luận gọi là Tam tạng Thánh giáo.

            Vậy tại sao gọi là Thanh văn tạng?

            Đại tạng không phân chia theo Tiểu, Đại thừa nữa mà phân chia theo lịch sử phát triển Phật giáo.

            Kinh: Đầu tiên tất nhiên là bộ A Hàm. Kế tiếp là Bát Nhã, Hoa Nghiêm, và Pháp Hoa.

            Luận: Bắt đầu các bộ phái, Theravada có 7 bộ luận. Bắc tông cũng có 7 bộ luận theo thứ tự A Tỳ Đàm, Trung Quán và Du Già.

            Luật cũng vậy, chia ra luật Thanh văn (chứ không gọi Tiểu thừa) và luật Bồ Tát. Thanh văn gồm có 5 bộ luật chính. Sau đó luật Bồ Tát như Phạm Võng Bồ Tát giới, và Du Già Bồ Tát giới.

            Bây giờ phiên dịch từ A Hàm trở đi chúng ta không làm nổi. Vì thứ nhất giáo lý quá cao siêu phức tạp thành ra phải có một cơ bản trước, mà cơ bản ấy chính là nằm trong Thanh văn tạng. Tất cả giáo lý cao siêu đều nằm trong Thanh văn tạng, tức là khai triển những lời Phật dạy từ trong A Hàm mà ra. Cho nên ta bắt đầu từ các tạng Thanh văn, và kinh luật luận trong A Tỳ Đàm trước. Chủ yếu là A Tỳ Đàm tại vì trong A Tỳ Đàm trích kinh điển trong A Hàm để giảng giải và từ đó phát triển ra thành Đại thừa.

            Do điều kiện lịch sử mỗi dân tộc có tiếng nói riêng biệt của mình, mang bản sắc cá biệt của dân tộc mình. Khi có sự tiếp xúc giữa hai dân tộc bên này muốn tìm hiểu bên kia, hiểu để sống chung hòa hiệp, phân phối đồng đều tài nguyên thiên nhiên, và trao đổi hữu ích các thành quả Iao động, điều trước tiên cần làm là học ngôn ngữ.

            Cũng như muốn hiểu một dân tộc với tất cả tình cảm, tư duy, phong tục, tập quán...., thì điều kiện tất yếu phải hiểu được ngôn ngữ của dân tộc ấy, như là điều chắc chắn không sai.

            Ngôn ngữ là yếu tố quan trọng trong công trình phiên dịch Đại tạng kinh phải liên tục, trường kỳ từ đời này qua đời khác, kiếp hiện tại kiếp tới và vô số kiếp sau. Ấy là chúng ta theo mô phạm trên dưới Phật- Tổ-Thầy dẫn dắt, khai sáng đệ tử, môn phong pháp phái … duy trì Pháp bảo của đấng cha lành, là bậc thầy của trời người mà bốn chúng đệ tử Phật duy trì theo dòng lịch sử hơn hai nghìn sáu trăm năm qua. Bước sang thế kỷ 21, nhân loại chuyển mình đổi mới tiến theo đà văn minh vật chất, cá nhân chủ nghĩa, những phát minh mới về công cụ, kỹ thuật, gia tăng hiệu quả lao động. Bởi lẽ, môi trường thiên nhiên có ảnh hưởng nhất định lên tình cảm và tư duy của từng cá nhân.

       …Cũng vậy, trong quá trình phát triển cộng đồng, ngôn ngữ với những quy định cá biệt trong nội bộ cộng đồng dần dần trở thành biểu hiệu cá tính hay ý thức cộng đồng, mà ở mức độ bình thường ta gọi là tinh thần cộng đồng, hay tinh thần xã hội. Khi cộng đồng ấy phát triển lớn mạnh thành một nước, thành một dân tộc, tinh thần ấy trở thành điều mà chúng ta gọi là tinh thần dân tộc. Ngôn ngữ bấy giờ không chỉ là công cụ chuyển tải thông tin, mà đích thực là tín hiệu hay biểu hiện bản sắc của một cộng đồng hay lớn hơn của một dân tộc.

            Chẳng hạn, những người thuộc bộ lạc nguyên thủy châu Phi kết bầy đi săn, dùng ngôn ngữ bàn tay để biểu hiện động vật, đó là cách trao đổi tín hiệu với những người cùng săn. Nếu nói rằng ngôn ngữ bàn tay thay thế cái miệng liệu có ổn?

            Còn so với những ngôn ngữ phát triển như Anh ngữ, Hán ngữ, Đức ngữ, Nhật ngữ, các ngôn ngữ nguyên thủy đơn giản này có thể nào biểu đạt được những sự vật trừu tượng, phức tạp, và tinh tế? Nó cũng chẳng khác nào thầy giáo hướng dẫn người câm học ngôn ngữ qua bàn tay thì không cách chi người học nắm bắt được những điều tinh tế? Cũng như người ta nói "Biết người, biết măt, dễ biết lòng sao?"

            Nói cách khác, giáo pháp của Phật là pháp vô ngôn. Được phô diễn thành lời đã là sự lạ rồi, mà nay lại được dịch từ lời đó ra lời khác, thì thật đáng lạ hơn nữa. Đây là điểm mà các nhà phiên dịch kinh Phật cũng như các nhà nghiên cứu Phật học Trung Hoa đều luôn luôn cảnh giác. Bởi vì tình trạng tam sao thất bản, nhầm lẫn từ này với từ kia, ý nghĩ này với ý nghĩ khác, xãy ra không phải hiếm.


 IV- Thuật Phiên Dịch
.

            Ý dịch có từ rất sớm do Ngài Đạo An chủ trương từ thế kỷ thứ 4 Tây lịch và trực dịch bởi Ngài Phật Niệm, vẫn tiếp tục trong lịch sử phiên dịch Phật điển tại Trung Hoa, mà cao điểm đối lập của hai chủ trương này là Ngài Cưu Ma La Thập, ý dịch  và Ngài Huyền Trang, trực dịch (đời Đường).

            Ba điều không dễ trong việc phiên dịch của Ngài Đạo An, đề cập đến nội dung chuyển tải, điều khó thứ nhất, tâm của bậc đại trí tam minh, lời của đấng Giác ngộ đã khuất, những gì Thánh nói tất tùy thời. Thời gian, phong tục tất có đổi khác, mà nay muốn chuyển dịch những điều cao nhã cổ xưa sao cho phù hợp với thời nay, đây là điều  không dễ.

            Ngu và trí cách nhau trời vực. Thánh nhân há có thềm bậc, mà muốn đem lời ẩn ảo trên nghìn năm trước truyền cho phù hợp với lịch đại đế vương xuống đến hạng mạc tục. đây là điều không dễ thứ hai.

            A Nan đọc lại kinh, cách Phật không xa, thế mà Đại-Ca-Diếp còn yêu cầu năm trăm A- La-Hán lục thông thay nhau thẩm định lại. Huống hồ cách đây cả nghìn năm rồi, lấy ý gần của mình mà đắn đo, các vị La Hán còn thận trọng như thế, thì những con người trong vòng sinh tử bình phàm như thế này há lại không biết rằng sự thấu hiểu Pháp là quan trọng hay sao? Đó là điều không dễ thứ ba.

            Về mặt hình thức, do vấn đề ngữ pháp, người dịch thường gặp phải trường hợp gọi là mất gốc. Bản dịch có nhiều khi phản bội lại bản gốc là điều không thể tránh khỏi.

            Như trên khái lược Kinh, Luận bây giờ về Luật, lời giới thiệu luật Tứ phần, tái bản lần thứ nhì, bản Việt dịch của HT Thích Đổng Minh năm 2005, Ôn Tuệ Sỹ trân trọng ngưỡng phục bậc thầy mô phạm trong chốn thiền môn.” HT là một trong số rất ít trong các Tỳ kheo trì luật của tăng già Việt Nam kể từ khi Phật giáo được trùng hưng, tăng già được chấn chỉnh và khôi phục. Thế hệ thứ nhất trong phả hệ truyền thừa luật tạng của tăng già Việt Nam thời trùng hưng hiện đại bao gồm bóng mờ của nhiều bậc Thượng tôn Trưởng lão, uy nghi đĩnh đạc, nhưng khó hình dung rõ nét đối với các thế hệ tiếp bước theo sau. Các Ngài xứng đáng là các bậc Long Tượng trong chốn tòng lâm, mà đời sống phạm hạnh nghiêm túc, phản chiếu giới đức sáng ngời, tịnh như băng tuyết, mãi mãi ghi dấu trên các nẻo đường hành cước, tham phương hoằng truyền Chánh pháp".

            Trước sự phá sản của giá trị đạo đức truyền thống càng lúc càng trầm trọng diễn ra khiến các cộng đồng xã hội đang mất dần tính tự chủ, dễ bị tha hóa theo những giá trị vật chất,những tín điều đạo đức tôn giáo mới càng lúc càng trở thành tiêu chuẩn cho văn minh tiến bộ theo hướng vật dục và nuôi dưỡng tinh thần cuồng tín và kỳ thị. Sự phá sản tinh thần không chỉ xảy ra trong một phạm vi xã hội, mà nó lan dần đến cả trong sinh hoạt thiền môn. Thanh quy của Thlền môn chỉ còn là một lớp vỏ, mà lại là lớp vỏ rách nát không đủ che đậy những dấu hiệu thoái hóa. Tăng già đang trên chiều hướng tục hóa, có nguy cơ trở thành một cộng đồng ô hợp, tồn tại, chỉ vì quyền lợi vật chất thế gian. Trên những lối đi đầy gai góc của rừng Thiền bấy giờ, vẫn luôn luôn ảnh hiện những dấu chân Long Tượng dấn bước tìm lại lối mòn cổ đạo đồng thời thuận hướng với trào lưu lịch sử của đất nước và nhân loại. Đó là những bước đi tái khai phá, dò dẫm một cách thận trong"


 V- Phát hành Bồ Tát tạng.

            Số lượng ấn hành giới hạn vừa tiết kiệm ngân khoản,cũng như vừa góp phần hữu hiệu bảo vệ thiên nhiên,môi trường. Thiển nghĩ, độc giả nào cần bộ Đại Tạng tiếng Việt phải theo điều kiện Ban Phát hành quy đinh.

            Bởi lẽ, Trong hiện tại, số lượng sách báo giấy xuất bản đã giảm xuống còn chừng 30 phần trăm so với trước đây. Nếu cần nghiên cứu người đọc chỉ bấm vào các trang mạng liền hiện lên đầy đủ mọi lãnh vực muốn tìm, và nhanh gọn lại ít tốn thời gian.

            Công việc ấn hành đợt 2, Bồ Tát tạng mọi chi tiết để nhường lại Ban liên hệ  bổ túc thêm cho được đầy đủ.

            Ngưỡng nguyện thập phương chư Phật, Thánh hiền Tăng, Thầy Tổ thùy từ chứng minh Hội Đồng Phiên Dịch Tam Tạng Lâm Thời hoàn thành Việt Phật Đại Tang Kinh để lợi ích nhân loại và mọi loài chúng sanh.

 

Sa môn THÍCH BẢO LẠC

           


Hoi dong hoang phap (2)

           

                                                                                                                                     

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
03/05/2023(Xem: 4258)
Trường Sức khỏe Cộng đồng T.H. Chan thuộc Đại học Harvard hôm 26/4 vừa thành lập Trung tâm Chánh niệm Thích Nhất Hạnh với một hội nghị chuyên đề có sự tham gia của các thiền sư và học giả trên khắp thế giới, trong đó có các đại đệ tử của cố Thiền sư Thích Nhất Hạnh. Sứ mạng của trung tâm này là ‘giúp cho con người trên khắp thế giới sống có mục đích, sống thanh thản, sống yêu đời thông qua thực hành chánh niệm’; thực hiện các phương cách thực chứng để cải thiện sức khỏe và sự an lạc thông qua chánh niệm và giáo dục công chúng về chánh niệm, thông cáo báo chí của Đại học Harvard cho biết.
03/05/2023(Xem: 140905)
Chết và tái sinh. Thích Nguyên Tạng (sách, tái bản 2007) Phật giáo khắp thế giới . Thích Nguyên Tạng (sách) Pháp Sư Tịnh Không, người truyền bá giáo lý Tịnh Độ (sách) Từ bi và nhân cách . Dalai Lama. Thích Nguyên Tạng dịch (sách) Pháp ngữ của Hòa Thượng Tịnh Không . T. Ng. Tạng dịch (sách) Hỏi hay đáp đúng . Ven. Dhammika. Thích Nguyên Tạng dịch (sách) Các Bộ Phái Phật Giáo ở Ấn Độ. Dr.Nalinaksha Dutt.T Ng. Tạng dịch (sách)
02/05/2023(Xem: 1755)
Trân trọng kính cung thỉnh chư vị Tăng Ni và kính mời quý đồng hương Phật Tử tham dự ngày Đại Lễ Phật Đản, Thành Đạo và Nhập Niết Bàn năm 2023. Ngày: Thứ Bảy 13 tháng 5, 2023. Địa điểm: 576 Victoria Parade East Melbourne. Góc đường Victoria Parade và đường Hoddle Street Catholic Leadership Center. Giờ: Có mặt lúc 9:45 am tại địa điểm. Có lễ sớt bát, cúng dường chư vị Tăng Ni , đi diễu hành qua phố phường tại Thành phố Melbourne cuối cùng rồi đến tòa Thị Sảnh ( Melbourne TownHall ) cùng nhau cử hành Đại Lễ. Lưu Ý: Phần cúng dường chư vị Tăng Ni do Phật tử chùa Quang Minh hỉ cúng. Phần lunch của Phật tử do chùa Từ Quang đảm trách Phần nước do ban tổ chức chịu trách nhiệm. Cách đi : Lấy xe lửa đến trạm North Richmond. Rồi lấy xe tram số 12, 109 hay Bus , 905, 906, 907 hoặc 302 tới góc đường Victoria Parade và Hoddle Street thì xuống. Diệu Thông thay mặt HT Thích Phước Tấn & Ban Tổ Chức
23/04/2023(Xem: 8572)
Thông Báo Thay Thư Mời tham dự Đại Lễ Phật Đản 2647 và Lễ Tưởng Niệm 60 Năm (1963-2023) Bồ Tát Thích Quảng Đức tự thiêu để Bảo Tồn Đạo Pháp
19/04/2023(Xem: 3440)
Trong khi các chính trị gia và nhà đầu tư trên khắp thế giới ca ngợi việc thực hành chánh niệm như một công cụ “trấn tỉnh” để giảm mức độ căng thẳng, tăng năng suất và duy trì sự tập trung, không coi trọng trí tuệ là ưu tiên hàng đầu mà là sản phẩm phụ phát sinh từ chánh niệm sâu sắc. Nhưng trí tuệ là một trong ba thành phần không thể thiếu của giáo lý nhà Phật, cùng với kỷ luật đạo đức và định tâm, để phát triển cá nhân và trau dồi tinh thần.
12/04/2023(Xem: 5725)
Tôi muốn chia sẻ về mối quan hệ tôn giáo và xã hội hiện đại. Vì bản tính tự nhiên, mỗi cá nhân đều có sự cảm nhận về tự ngã. Từ đó, mỗi cá nhân đều trải qua các hiện tượng mà họ nhận thức được bằng cảm giác thống khổ, cảm xúc vui sướng hay yên tĩnh. Đây là sự thật, không cần phải trình bày tỉ mỉ nữa. Động vật cũng thế. Vì bản tính tự nhiên, tất cả chúng ta đều muốn đạt được an lạc hạnh phúc, không muốn thống khổ và bất hạnh. Ta khỏi cần phải chứng minh điều này. Trên cơ sở này, chúng ta đàm luận về quyền của mọi người được hưởng cuộc sống an lạc hạnh phúc, quyền vượt qua mọi thống khổ.
10/04/2023(Xem: 1699)
Chenrezig Institute (Quan Âm Viện) hiện đang tiến hành dự án xây Chánh điện mới theo kiến trúc truyền thống Tây Tạng. Phật tử Việt Nam chúng con ở Brisbane cũng muốn phụ chùa một phần công sức, nên chúng con kính mong quý Phật tử Việt Nam xa gần phát tâm phụ giúp, vì đề án này đã được trình lên Đức Đạt Lai Lạt Ma và Lama Zopa Rinpoche vào tháng 3 vừa qua, khi Thầy Trụ Trì, Geshe Phuntsok Tsultrim và các thành viên ban Trị Sự đã diện kiến hai Ngài ở Ấn Độ, và Đức Đạt Lai Lạt Ma đã ban lực gia trì cho đề án. Lama Zopa Rinpoche cũng có đôi lời về đề án này.
04/04/2023(Xem: 4074)
96 học sinh tiểu học viếng Tu Viện Quảng Đức: ngày 8/3/2023, Sáu Thầy, Cô giáo cùng 96 học sinh lớp 4 thuộc Trường Tiểu Học Fawkner, đã viếng thăm và tìm hiểu giáo lý Đạo Phật; TT Trụ Trì Thích Nguyên Tạng đã tiếp phái đoàn, hướng dẫn ngồi thiền và giảng giải giáo lý cơ bản cho các em. Phần lớn các em là học sinh da trắng Úc theo đạo Thiên Chúa, đã tỏ ra rất thích thú khi nghe về giáo lý ăn chay, vô thường và sự tái sinh của người quá cố, có nghĩa là sau khi chết có thể trở lại làm người, có thể đọa lạc vào loài cầm thú hay rơi vào địa ngục, ngạ quỷ... Đây là những điều mới mẻ đối với các em. Hằng năm có nhiều trường tiểu học trong tiểu bang thường đưa các em đến Tu Viện Quảng Đức để tham quan, tìm hiểu về kiến trúc, văn hóa và giáo lý Đạo Phật, sau khi về lại trường, các học sinh sẽ viết 1 bài essay về buổi học ngoại khóa của mình, đây là 1 nét sinh hoạt đặc biệt của học đường tại Úc châu.
29/03/2023(Xem: 1190)
Cú nhấp chuột không chỉ “xoáy” vào cuộn giấy trên màn hình máy tính mà còn “khuấy động” tâm tư người điều khiển nó. Vì vậy, cố gắng sống chân thực và không chịu khuất phục trước vô số trải nghiệm vô nghĩa đã trở thành sự phấn đấu hằng ngày của tất cả chúng ta. Ở đây, vị Tổ sư sáng lập Thiền phái Won - Phật giáo Hàn Quốc là Đại Tông sư đạo hiệu Thiểu Thái San, tục danh Phác Trọng Bân (1891-1943) đã thấy trước mặt trái của sự tiến bộ nền văn minh khoa học chính là khả năng làm nô lệ hóa tâm trí con người. Do đó, phương châm sáng lập của Thiền phái Won - Phật giáo Hàn Quốc nhắm thẳng vào vấn đề:
27/03/2023(Xem: 1469)
Ngày Giải phóng Quốc gia Triều Tiên, những thành phần Cơ đốc nhân cực đoan ngông cuồng đã gây ra hàng loạt các vụ phóng hỏa thiêu hủy, phá hoại, trong đó có nhiều di sản văn hóa cấp quốc gia đã bị phá nát trong khi cộng đồng Phật giáo đang kiên quyết phản ứng mạnh mẽ để kiềm chế và ngăn chặn các việc sai quấy này.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]