Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

92. Thiền Sư Mộc Trần Đạo Mân, Tổ thứ 68, đời thứ 31 Thiền Phái Lâm Tế

13/10/202109:33(Xem: 17203)
92. Thiền Sư Mộc Trần Đạo Mân, Tổ thứ 68, đời thứ 31 Thiền Phái Lâm Tế

236_TT Thich Nguyen Tang_Thien Su Moc Tran Dao Man-2


Nam Mô A Di Đà Phật

 

Kính bạch Sư Phụ


Bạch Sư Phụ, hôm nay chúng con được học về Thiền Sư Mộc Trần Đạo Mân (1596-1674).
Ngài thuộc Tổ thứ 68 (tính từ sơ tổ Ca Diếp), đời thứ 35 sau Lục Tổ Huệ Năng, và cũng là Tổ thứ 31 của Thiển Phái Lâm Tế.

 

Thiền Sư Mộc Trần Đạo Mân, sanh ra vào cuối đời nhà Minh và đầu nhà Thanh, có họ Lâm, người Lĩnh Nam, Triều Châu, Quảng Đông, đồng hương với Lục Tổ Huệ Năng.


Lúc nhỏ, ngài có tính thông minh, theo nho học để ra làm quan.

 

Khi ngài đọc bộ Đại Huệ Tông Cảo ngữ Lục, ngài nhớ lại tiền kiếp của mình và phát tâm xuất gia. Ngài Mộc Trần Đạo Mân xuất gia được 2 năm bị cha mẹ bắt về lập gia đình. Năm 27 tuổi, ngài xuất gia trở lại.

 

Về sau ngài Mộc Trần Đạo Mân được Tổ Mật Vân Viên Ngộ trao cho công án “Ương Quật Sản Nạn” và ngài đã thành tựu đạo quả, được sư phụ Mật Vân Viên Ngộ ấn chứng.
Dù đã triệt ngộ, nhưng ngài vẫn ở lại hầu sư phụ 40 năm cho tới sư phụ viên tịch, kế thừa và trở thành Tổ thứ 31 của Tông Lâm Tế.

 

Sư Phụ giải thích về công án “Ương Quật Sản Nạn”, vốn phát xuất từ câu chuyện về Tôn Giả Vô Não, tên thường gọi là Ương Quật Ma La, phiên âm từ tên tiếng Phạn của Ngài là: Angulimala, tức là “người đeo xâu chuỗi ngón tay”.


Chuyện xảy ra vào thời Đức Thế Tôn còn tại thế, chàng thanh niên có tên là Ahimsaka (tên Cha Mẹ đặt cho chàng, nghĩa là Vô Hại), người con dân của nước Kiều Tát La (Kosala) do vua Ba Tư Nặc trị vì.


Chàng thanh niên Ahimsaka xin Bố Mẹ đến Hoa Thị Thành (Taxila) để học đạo Bà La Môn với Thầy Mani, vì chàng quá đẹp trai và học giỏi nên bị bạn cùng lớp ganh ghét, phao tin đồn là chàng có tình ý với bà vợ trẻ của ông thầy. Do tin đồn này mà bà vợ trẻ của thầy Mani lại xao xuyến xúc động vì cứ tưởng chàng học trò thầm yêu trộm nhớ mình thật. Thấy chàng tướng đẹp quá, nên bà ta tìm cách gần gũi hỏi han gạ tình, bà càng ngày càng trở nên say mê tánh nết và tướng mạo của Ahimsaka một cách điên cuồng, nhưng chàng cự tuyệt vì cho đó là trái với luân thường đạo lý làm người, chính điều này khiến cho bà xấu hổ cùng cực và tức giận, tìm cách hảm hại, bằng cách nói xấu về tên học trò.

Người thầy Mani không chịu điều tra xem sự việc có thật hay không, ông nhắm mắt tin theo bà vợ và rắp tâm hảm hại đứa học trò bằng cách bằng chàng giết người để lấy máu rửa tội lỗi, rửa xong rồi mới được truyền trao bí pháp của đạo.  Chàng Ahimsaka thật thà tin theo lời của tên thầy vô minh kia mà xách gươm lên rừng Jalam, Jalini sám hối rồi tìm người giết lấy máu rửa tội, rồi chặt ngón tay út để xâu làm xâu chuỗi để theo dõi đủ túc số 1000 ngón tay để về trình lên Thầy Mani.



Kính mời xem tiếp

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/04/2013(Xem: 15562)
Thiền uyển tập anh, sao dùng nghĩa đó? Xin thưa, dùng sự anh tú của nó làm nghĩa vậy. Sao thế? Người theo Thiền tôn cố nhiên là nhiều, nhưng kẻ biết lẽ huyền thật ra lại hiếm: chính như một con phụng giữa bầy gà, một cây lan trong đám cỏ. Nếu chẳng phải phú bẩm anh dị, tri kiến siêu quần, làm sao thấu được ý chí huyền vi, để có thể làm lãnh tụ cho kẻ hậu học và mô thức cho người đời sau?
09/04/2013(Xem: 6908)
Đạo Phật có một kho tàng kinh-điển phong phú hơn hết thảy các tôn giáo triết học khác. Nội một Đại-Tạng-Kinh gồm gần mười ngàn pho cũng đủ làm cho những học-giả kiên-chí nhất phải lắc đầu e ngại. Huống nữa còn biết bao nhiêu sách vở cận đại trên thế giới, trước tác, giải thích, bình luận về giáo lý đạo Phật!
08/04/2013(Xem: 6329)
Tiếp theo hai tập, Nhận thức và Không tánh (2001) và Tánh khởi và Duyên khởi (2003), sách Nhân quả đồng thời lần này thu góp bài học Phật luận cứu các vấn đề Tồn tại và Thời gian,Ngôn ngữ, Giáo nghĩa,và Giải hành liên qua đến nguyên lý Duyên khởi mà Bồ tát Long Thọ nêu lên trong bài tụng tán khởi của Trung Luận, bản tiếng Phạn.Các vấn đề này được tiếp cận từ hai phía, bản thể luận và triết học ngôn ngữ, và được trình bày trong ba Phần: (1) Vô thường, Duyên khởi, và Không tánh, (2) Phân biệt, Ngôn ngữ, và Tu chứng, (3) Tín, Giải,Hành,Chứng trong Hoa nghiêm.
08/04/2013(Xem: 13621)
Tập sách này in lại những bài viết về Trung Quán Luận, đã đăng trong Nguyệt San Phật Học. Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai. Trong những tác phẩm của người, Trung Quán Luận trình bày tánh Không, phần tinh túy của giáo lý đạo Phật.
08/04/2013(Xem: 22353)
Con người là sinh vật quan trọng nhất – Đức Phật từ con người mà thành Phật – vì nó có những đặt tính ưu việt hơn tất cả những loài vật khác; nhưng Phật Giáo lại không cho con người là độc tôn, vì còn có những chúng sanh hữu tình và vô tình khác. Hai loại này ở trong một thể thống nhất giữa thế giới và nhân sinh. Vì thế, không có con người là kẻ thù của con người, cho đến loài vật, cây cỏ cũng vậy.
08/04/2013(Xem: 5649)
Giải thích tổng quát về Kinh Hoa Nghiêm theo hệ Kinh tạng Đại Thừa: Đức Phật ra đời vì “hạnh phúc an lạc của chư Thiên và loài người” như lời Ngài đã từng tuyên bố. Thế nên sự sống mà Đức Phật ra đời thật vô cùng quan trọng, đó là chân lý, là Pháp âm được vang lên khắp vũ trụ sơn hà. “Pháp âm bất tuyệt” tất cả tiếng chim hót, dế ngân, sóng vỗ, thảo mộc, khai hoa, thông reo suối chảy, đến tiếng đá rơi ... đều là pháp, không nơi đâu không phải là pháp.
08/04/2013(Xem: 17516)
Ðể có thể nhận diện được tổng thể hệ thống loại hình sám văn, đó là cách phân loại theo nhóm đề tài và ý nghĩa. Tuy nhiên, vì sám văn có quá nhiều chủ đề, tùy theo lĩnh vực mà sử dụng riêng khác, nên rất phong phú đa dạng. Ðể nắm được tổng thể bố cục của cách phân loại nầy, chúng tôi xin khái lược về các cách phân loại có liên hệ trực tiếp. Qua đó, chúng ta có cơ sở để nhận diện được toàn hệ thống phân loại.
08/04/2013(Xem: 13188)
Xin quí vị bấm vào xem PDF
08/04/2013(Xem: 25059)
Phật Pháp hằng còn mãi ở thế gian là nhờ sự hoằng truyền sâu rộng trong quần chúng. Thiếu sự hoằng truyền, Phật pháp phải bị mờ và có thể đi lần đến chỗ tiêu diệt. Trong công đức hoằng truyền ấy, phiên dịch là một phần rất quan trọng.
08/04/2013(Xem: 6359)
SỰ THẬT VỀ CON ĐƯỜNG (Marga-satya): Sự thật thứ tư là con đường trực tiếp đưa đến sự giải thoát chấm dứt khổ đau. Sự thật này là tác nhân giải thoát hiện tại đưa đến chấm dứt quả khổ gần hay xa trong . . .
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]