Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Căn Bản Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ Tỳ Nại Da Tạp Sự

30/11/201212:28(Xem: 15087)
Căn Bản Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ Tỳ Nại Da Tạp Sự



ducphatthichca


Đại Tạng
 No. 1451
CĂN BẢN THUYẾT NHẤT THIẾT HỮU BỘ
Mùla-Sarvàstivàda
TỲ-NẠI-DA TẠP SỰ
Mùla-Sarvàstivàda Vinaya Ksudraka Vastu
(Cuộc đời đức Phật và các đệ tử)
Hán dịch: Tam Tạng Nghĩa Tịnh, đời Đường, Trung Quốc
Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh, PL 2542 - TL 1998



Lời Người Dịch 

Mùa hạ năm 1970 tại Phật Học Viện Hải Đức Nha Trang, chúng tôi được Thầy Đức Chơn và Thầy Phước Châu giao việc dán lại trang Bát-Kính-Pháp bị nhầm trong sách "Phật và Thánh Chúng" của Thầy Cao Hữu-Đính do Phật Học Viện Trung Phần ấn hành và in tại Nhà in Hoa Sen, NhaTrang. Sau khi công việc hoàn tấtchúng tôi được Quý Thầy cho mỗi người một quyển sách này, tuy rằng lúc ấy chưa phát hành. Lần đầu tiên trong đời, tôi bị tác động rất lớn, qua hình ảnh các Phật-tích ở Ấn Độ và những câu chuyện về Đức Phật và các đệ tử trong quyển sách. Ở đây, Đức Phật và các vị Thánh đệ tử rất gần và rất thực với đời sống và suy nghĩ của tôi, khác với hình ảnh Đức Phật cùng Chư Bồ TátThanh văn với những thần biến không thể nghĩ bàn mà tôi đã được biết qua các Kinh Pháp HoaDi Đà ... Sau đó, vào một buổi trưa, đang ngồi trông chừng nhà tổ, tôi lại được gặp tác giả quyển sách -- Thầy Cao Hữu Đính, với chiếc áo dàiđen -- trong lúc đến dạy cho quý chú học Tăng ở Phật Học Viện. Hôm ấy, có lẽ còn sớm nên Thầy ngồi nghỉ ở trước nhà tổ trên đầu dốc, trước khi lên một đoạn dốc nữa đến lớp học. Tôi rón rén đến chào Thầy và hỏi: "Thưa Thầy, quyển 'Phật và Thánh chúng' Thầy viết hay dịch?". Và tôi được Thầy cho biết Thầy viết từ những tài liệu khác nhau nhưng nhiều nhất là lấy từ Luật-Bộ. Thấy tôi rất thích thú về những sự việc trong quyển sách, Thầy có cho biết qua về tầm quan trọng của A-Hàm và Luật-Bộ đối với sự học hỏi về Đức Phật và giáo pháp của Ngài. Sau này, trong những năm học ở Phật Học Viện Liễu-Quán, Phan-Rang, nhân tra cứu tài liệu trong tạng Đại-Chính của Phật Học Viện Hải-Đức cho Phật Học Viện Liễu-Quán mượn, tôi thấy có chữ ghi và những tờ giấy làm dấu của Thầy Đính trong Bộ Tạp Sự của Hữu Bộ. Sau khi đối chiếu, tôi mới biết phần lớn tài liệu viết cuốn "Phật và Thánh Chúng" rút từ Bộ Luật này.

Đáp ứng tâm nguyện và sự hỗ trợ cho việc phiên dịch Đại-Tạng Kinh Việt-Nam của Thầy Tịnh Hạnh -- Đài-Loan, tôi tra cứu và dịch Bộ Tạp Sự bốn mươi quyển này để góp phần vào công tác phiên dịch do Thầy đề ra. Và sau khi dịch, tôi được Luật sư Thích Đỗng Minh hoan hỷ chứng nghĩa cho từng quyển.

Căn Bản Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ Tỳ Nại Da Tạp Sự - Mùla sarvàstivàda vinaya ksudraka vastu - là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập, được Luật sư Nghĩa-Tịnh -- một trong bốn vị đại dịch giả về Phật điển của Trung Quốc -- đem về từ Ấn Độ và dịch ra Hán văn thành bốn mươi quyển tại Trung Quốc vào năm Cảnh Long thứ tư (Dương Lịch 710) thuộc Triều đại nhà Đường. Nội dung Bộ Luật này ghi lại những việc quá khứ của Đức Phật và các đệ tử liên hệđến sự việc Đức Phật chế định các giới luật trong hiện tại. Qua các sự kiện được bộ này ghi lại, chúng tacó thể biết rất chi tiết về cuộc đời Đức Phật từ cung trời Đâu Suấtgiáng thần, đản sinh, xuất giathành đạochuyển pháp luân, và cho đến nhập Niết bàn và cuộc đời các vị đệ tửĐồng thờichúng ta có thể biết những biến cố lịch sử của Tăng đoàn xảy ra trong thời Phật và sau Niết bàn, những hành trạng của các Thánh chúng đệ tử Phật và sinh hoạt của dân chúng Ấn Độ thời bấy giờ, các câu chuyện ngụ ngôn dân gian của Ấn Độ được các nhà kiết tập đưa vào để người đọc được học hỏi biết bao điều hay, ý đẹp trong cuộc sống đời thường này.

Thông qua những câu chuyện trên, chúng ta có thể thấy được Đức Phật lịch sử của chúng ta vừa là Bậc Đạo sư, vừa là người Cha lành, vừa như một bà Mẹ hiền luôn luôn gần gũi, dạy bảo, chăm sóc cho đàn con là các đệ tử xuất gia và tại gia vây quanh mà không phải vị nào cũng dễ thươngdễ dạy. Tuy Ngài là một Bậc Giác ngộ giải thoát hoàn toàn nhưng ở đây chúng ta có thể thấy được tính cách rất nhân bản của Ngài qua sự việc cho đại thần Hành Vũ nghe về bảy pháp bất thối để ngăn chiến tranh giữa hai nước Ma Kiệt Đà và Phật Lật Thị (Quyển 35) hay ngăn cản Thái tử Ác Sinh (Virùdhaka) tàn phá thành Ca Tỳ La Vệvà câu nói đầy tình người "Không có bóng mát nào bằng bóng mát của cây thân tộc". (Quyển 8). Trong sinh hoạt với các đệ tửĐức Phật luôn có thái độ như một người bạn tốt (thiện tri thức) sẵn sàng lắng nghe ý kiến của người khác và chấp nhận tùy theo hoàn cảnh, đối tượng, thời gian, miễn sao giúp cho họ tu tậpđược kết quả. Các vị Thánh chúng được kể lại trong sách, có những vị rất Thánh về mặt giải thoát giác ngộ mà đời sống lại rất giản dị, khiêm tốn, dễ thương, có những tình bạn cao thượng, chân thành đến trọn đời như Xá lợi Phất và Mục Kiền Liên, cũng có những vị nghịch ngợm, thậm chí còn phạm phải những lỗi lầm rất phàm tục như tất cả chúng ta nhưng có khác là các vị ấy không che dấu mà luôn luôn tinh tấn vượt lên, đó là điều mà chúng ta cần phải lưu tâm và học tập. Chúng ta cũng có thể thấy những tấm gương sángchói của các vị nam nữ cư sĩ hiểu pháp, tận tín Tam bảochứng đắc quả Thánh hay những vị có những hành động đầy từ bi và hùng lực như cư sĩ Đại Danh (Maha Nàma) chủ thành Ca tỳ La Vệ đã hy sinhmạng sống của mình để cứu dân chúng trong thành trước sự xâm lăng của quân địch.

Những mẫu chuyện trong Bộ Luật này dạy cho chúng ta thấy được hành động và đời sống dù tốt hay xấu của từng nhân vật trong các câu chuyện đều có quan hệ duyên khởi từ hiện tại dến quá khứ và tương lai giữa bản thân vị ấy với hoàn cảnh chung quanh và ngược lại. Nhờ đó, chúng ta có sự hiểu biết bằng trí tuệđể tự sách tấn mình phải làm việc lành, tránh việc ác và có lòng từ bi thông cảm với những điều lầm lỗi của tha nhân, cùng nhau xây dựng đời sống bằng Giới, Định, Tuệ diệt trừ đau khổ và sợ hãi, đem lại an lạchạnh phúc trong hiện tại và tương lai.

Đây là một Bộ Luật nên trong quá trình dịch chúng tôi phải sử dụng những thuật ngữ và văn của Luật tạng. Do đó, trong bản dịch có những đoạn khó hiểu với những vị chưa quen tiếp cận với văn Luật và đó là điều chúng tôi không thể làm khác đi được.

Những bài nhiếp tụng trong Bộ Luật này có hình thức như một bảng ký hiệu, vì ý nghĩa các câu (có khi là trong một câu) không liên hệ nhau, mỗi từ ngữ là một vấn đề được trình bày ở sau. Do đó, chúng tôi chỉ phiên âm Hán Việt chứ không dịch.

Khi dịch, chúng tôi cố gắng sử dụng trực tiếp bằng vi tính với ý định sẽ cho biệt hành khi có điều kiện.

Bản Hán dịch rất hay và rõ ràng với văn của Ngài Nghĩa-Tịnh, nhưng bằng khả năng hạn chế của dịch giả thì bản Việt dịch này không sao đạt được như vậy và tránh khỏi sai sót, kính mong được các vị thiện tri thức chỉ dạy cho.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật


Nha Trang, Long Sơn Vihàra,
Mùa hạ PL 2542 (TL 1998)
Bhikkhu Caràna-Citto Tâm-Hạnh.

LỜI TRI ÂN

Con xin thành kính cúng dường Pháp bảo này đến:

Tam Bảocha mẹ và chư thiên mật thùy gia hộ.

- Các vị Ân sư, Giáo thọ sư ở các Phật Học Viện Hải Đức Nha Trang; Bửu Tịnh -- Tuy Hòa; Liễu Quán -- Phan Rang; Phổ Đà -- Đà Nẵng; Huyền Không và Thiền Lâm -- Huế; Kỳ Viên và Phật Bảo -- Sài Gòn, đã nuôi dưỡng và dạy bảo cho con được biết đến chánh pháp của Đức Phật, với lòng thành kính và tri ân vô biên.

Luật sư Thích Đỗng Minh đã hoan hỷ và tận tình chứng nghĩa từng quyển.

- Hương linh Thầy Cao Hữu Đính, người đã gây ý thức ban đầu về việc dịch Bộ Luật này.

Thân tặng các bạn pháp Bồ đề trong các Phật Học Viện trên cùng những trú xứ mà tôi đã có thời gianđược may mắn chung sống và cùng nhau tu học chánh pháp.

Hồi hướng công đức này đến các vị Phật tử hỗ trợ tịnh tài photocopy và tất cả hữu tình.

Nguyện nhờ uy lực của Pháp bảo này, con luôn được sinh đến những nơi Phật Pháp đang thịnh hành, gặp thiện tri thức Bồ đề cùng tu học theo chánh pháp; trong tương lai, được gặp Thế Tôn Di Lặc và tu học theo giáo pháp của Ngài.

Bhikkhu Caràna-Citto Tâm-Hạnh.



pdf-icon

Căn Bản Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ Tỳ Nại Da Tạp Sự_Tam Tạng Nghĩa Tịnh_Tỳ Khưu Tâm Hạnh






 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
25/12/2011(Xem: 11790)
Một thuở nọ đức Phật ở trong núi Thứu Phong, thuộc thành Vương Xá cùng với một ngàn tám trăm vị Tỳ-kheo đều là A-la-hán, đã diệt tận các lậu, không còn phiền não, tâm hoàn toàn giải thoát, tuệ hoàn toàn giải thoát, đạt chín trí, mười trí, việc làm đã làm xong, quán đúng như thật về ba điều giả, quán ba không môn, đã thành tựu công đức hữu vi và công đức vô vi. Lại có tám trăm vị Tỳ-kheo ni đều là A-la-hán. Lại có vô lượng vô số đại Bồ-tát với thật trí bình đẳng, đoạn hẳn phiền não chướng, có phương tiện thiện xảo phát hạnh nguyện lớn, lấy bốn nhiếp pháp làm lợi ích chúng sanh, đem bốn tâm vô lượng che trùm tất cả, ba minh thấu suốt, chứng đắc năm thần thông, tu tập vô biên pháp Bồ-đề phần, có kỹ thuật thiện xảo vượt hơn mọi người trên thế gian, thâm nhập rõ về duyên sanh, không, vô tướng, vô nguyện, ra vào diệt định, thị hiện khó lường, thu phục ma oán, hiểu rõ cả hai đế với pháp nhãn thấy biết tất cả nguồn căn của chúng sanh, với bốn vô ngại giải giảng nói không sợ sệt, với mười lự
24/10/2011(Xem: 9579)
Kinh Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm không tìm thấy trong Đại tạng kinh. Kinh này chắc là do một vị cao tăng Phật giáo Việt Nam biên soạn, nhưng biên soạn vào lúc nào thì chưa ai biết được. Trong Kiến Đàn Giải Uế Nghi của Thủy Lục Chư Khoa có lời tán thán bồ tát Quán Thế Âm rằng: “Nhân tu sáu độ, quả chứng một thừa, thệ nguyện rộng sâu như biển lớn mênh mông không thể đo lường, từ bi cao lớn tợ trời xanh che trùm chẳng thấy ngằn mé, cúng thân bất hoại, rộng phát mười hai nguyện đẹp, trải vô lượng kiếp, linh ứng năm trăm tên lành.” (Nhân tu lục độ, quả chứng nhất thừa, thệ nguyện hoằng thâm, như đại hải chi uông dương bất trắc, từ bi quảng đại, nhược trường thiên chi phú đảo vô ngân, hiến bất hoại thân, quảng phát thập nhị nguyện, lịch vô lượng kiếp, linh cảm ngũ bách danh.)
12/10/2011(Xem: 19263)
Truyện thơ Tôn giả La Hầu La - Tác giả: Tâm Minh Ngô Tằng Giao
25/08/2011(Xem: 8422)
Cách đây hơn 25 thế kỷ, lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại, đức Phật Thích-ca Mâu-ni đã chỉ ra rằng những gì chúng ta nhận biết về chính bản thân mình qua tri giác thông thường là không đúng thật. Trong khi ta luôn nhận biết về một bản ngã cụ thể đang hiện hữu như là trung tâm của cả thế giới quanh ta, thì đức Phật dạy rằng, cái bản ngã đối với ta vô cùng quan trọng đó thật ra lại hoàn toàn không hề tồn tại trong thực tiễn theo như cách mà ta vẫn nhận biết và mô tả về nó...
27/07/2011(Xem: 10874)
Tiếp theo hai tập, Nhận thức và Không tánh (2001) và Tánh khởi và Duyên khởi (2003), sách Nhân quả đồng thời lần này thu góp các bài học Phật luận cứu các vấn đề Tồn tại và Thời gian, Ngôn ngữ, Giáo nghĩa, và Giải hành liên quan đến nguyên lý Duyên khởi mà Bồ tát Long Thọ nêu lên trong bài tụng tán khởi của Trung luận, bản tiếng Phạn. Các vấn đề này được tiếp cận từ hai phía, bản thể luận và triết học ngôn ngữ, và được trình bày trong ba Phần: (1) Vô thường, Duyên khởi, và Không tánh, (2) Phân biệt, Ngôn ngữ, và Tu chứng, (3) Tín, Giải, Hành, Chứng trong Hoa nghiêm. Toàn bộ bản văn quyển sách để in PDF (7,1 MB)
04/07/2011(Xem: 9602)
Cụ bà Hà Nội 20 năm tập 5 thức yoga Tây Tạng Bà Lê Thu Hồng, 75 tuổi, hàng sáng đều dành 15 phút tập 5 thế yoga để rèn luyện sức khỏe.
24/05/2011(Xem: 12516)
Hòa thượng Tịnh Sự, thế danh là Võ Văn Đang, sinh năm Quí Sửu (1913), trong một gia đình có truyền thống Nho giáo, tại một vùng quê miền Nam, xã Hòa Long, huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp. Thân phụ Ngài là cụ Võ Văn Tỏ, thân mẫu là cụ Trần Thị Thông. Năm 7 tuổi Ngài đã học chữ Nho. Rất thông minh, Ngài được người đương thời gọi là “Thần đồng Lê Quí Đôn”. Do túc duyên sẵn có từ nhiều đời, đến năm 12 tuổi Ngài xuất gia và thọ giới Sa Di tại chùa Bửu Hưng (Sa Đéc). Thấy Ngài quá thông minh nên Bổn sư đặt pháp danh là Thích Huệ Lực. Năm 20 tuổi Ngài thọ giới Tỳ kheo tại chùa Kim Huê, Sa Đéc. Đến năm 25 tuổi Ngài được bổ nhiệm về trụ trì tại chùa Phước Định, Chợ Lách. Năm 30 tuổi Ngài trụ trì chùa Viên Giác, Vĩnh Long. Năm 35 tuổi duyên lành đối với Phật giáo Nam Tông đã chín mùi, Ngài được du học tại Chùa Tháp Campuchia, thọ giới theo Phật giáo Nam Tông tại chùa Kùm Pung (Treyloko) ở Trà Pét.
07/04/2011(Xem: 13511)
Duy Thức Tam Thập Tụng (ba mươi bài tụng Duy Thức) là luận điển cơ bản của Tông Duy Thức. Tông Duy Thức dựa vào luận điển này mà thành lập. Lý do cần giảng ba mươi bài tụng là vì sự thành lập và truyền thừa Tông Duy Thức từ đây mà ra. Tông Duy Thức của Trung Quốc bắt đầu từ học phái Du Già Hạnh của Phật Giáo đại thừa Ấn Độ. Nhưng khi đã nói đến học phái Du Già Hạnh không thể không tìm hiểu học phái Trung Quán. Xin lần lượt trình bày như sau:
02/03/2011(Xem: 6215)
The Buddhist Channel is pleased to present to you the last book written by the late Chief Ven. Dr K Sri Dhammananda. To fulfill the wish of the late venerable, this e-Book shall be distributed free of charge. Please help to fulfill his wish by forwarding it to as many people as you can.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]