- Chương I: Lý tưởng của người Bồ-tát Ngồn gốc và sự hình thành
- Chương II: Sự bừng tỉnh của con tim giác-ngộ (6 bài)
- Chương III: Lời nguyện của người bồ-tát (6 bài)
- Chương IV: Lòng vị tha và chủ trương cá nhân trong cuộc sống tâm linh
- Chương V: Nam Tính và nữ tính trong cuộc sống tâm linh
- Chương VI: Trước ngưỡng cửa Giác ngộ
- Chương VII: Các cấp bậc của người bồ-tát
- Chương VIII: Đức Phật và người bồ-tát - vĩnh cửu và thời gian
Lý Tưởng của người Bồ-tát
The Bodhisattva Ideal
***
Chương VII
Tam Bảo
***
Bài 44 - Các cấp bậc của người bồ-tát
Bài 45 - Kalyana mitras hay các đồng đạo tâm linh
Bài 46 - Tam bảo
Bài 47 - Bốn thể loại bồ-tát
Bài 48 - Người bồ-tát không bao giờ thoái lùi.
Bài 49 - Người bồ-tát với tư cách pháp thân.
Bài 47
Bốn thể loại bồ-tát
Có tất cả bốn thể loại bồ-tát: trước hết là các "sa-di bồ-tát" (novice-bodhisattva, xin lưu ý chữ sa-di ở đây không liên hệ gì đến tuổi tác mà chỉ có nghĩa là những người mới bước vào con đường tu tập), sau đó là các "bồ-tát đang còn bước đi trên con đường", tiếp theo là các "bồ-tát không thoái lui " (không còn quay trở lại) và sau hết là các"bồ-tát trong thể dạng dharmakaya" (pháp thân bồ-tát)
Sa-di bồ-tát
Người sa-di bồ-tát đôi khi cũng được gọi là người "bồ-tát đang còn học hỏi giới luật" (còn trong giai đoạn phải cố gắng tuân thủ giới luật). Họ là những người đã thật sự chấp nhận lý tưởng của người bồ-tát, tức là lý tưởng sẽ đạt được Giác ngộ, nhưng không phải chỉ là để giải thoát cho cá nhân mình, mà là góp phần mang lại sự Giác ngộ cho tất cả chúng sinh, dù họ là ai và ở bất cứ nơi nào. Sự chấp nhận đó rất sâu xa. Các sa-di bồ-tát không phải chỉ đơn giản là những người có dịp đọc một quyển sách về Phật giáo Đại thừa và hiểu thế nào là lý tưởng của người bồ-tát; cũng không phải là những người được tiếp nhận lễ thụ phong của người bồ-tát một cách chính thức và công khai, mà là những người, từ những nơi sâu kín của con tim mình, quyết tâm cống hiến đời mình vì lý tưởng của người bồ-tát và dồn toàn lực vào việc tu tập. Thế nhưng trong lúc vẫn còn là một người sa-di bồ-tát, thì dù từ trong thâm tâm nhất quyết bước theo lý tưởng của người bồ-tát và dù hăng say luyện tập đến đâu đi nữa, thì bodhicitta (tâm thức giác ngộ / bồ-đề tâm) cũng chưa có thể hiện lên với mình được. Chúng ta vẫn chưa cảm nhận được một cách thật mãnh liệt - gần như là một sự choáng váng - niềm thiết tha mong sao đạt đưọc sự Giác ngộ toàn năng vì sự an lành của tất cả chúng sinh. Người ta có thể bảo rằng người sa-di bồ-tát cũng đã thật sự là một người bồ-tát qua tất cả mọi khía cạnh, ngoại trừ một điều thật quan trọng chưa đạt được. Người sa-di bồ-tát dù đã tạo được cho mình đầy đủ hành trang, thế nhưng bodhicitta (tâm thức giác ngộ / bồ-đề tâm) - tức là quyết tâm thực hiện sự Giác ngộ như là một sự cảm nhận trực tiếp và sinh động, - thì vẫn chưa hiện lên với họ. Dầu sao người sa-di bồ-tát cũng đã bước được vào con đường. Tất cả những người tu tập Đại thừa chân chính (chân thật, nghiêm túc) đều có thể được xem như là các sa-di bồ-tát (dù họ chỉ là cư sĩ hay Phật tử tại gia cũng vậy).
Ngươi sa-di bồ-tát phải dành nhiều thì giờ học hỏi kinh sách Đại thừa, nhất là các kinh sách nói về sự trống không (tánh không), về lý tưởng của người bồ-tát và paramita (các sự hoàn hảo, còn gọi là ba-la-mật-đa). Không nhất thiết là phải đọc thật nhiều sách, chỉ cần đọc vài phân đoạn hoặc vài trang, thế nhưng phải đọc đi đọc lại, hầu giúp cho ý nghĩa của các đoạn văn đó ăn sâu vào tâm thức và con tim mình. Tại nhiều nước theo Phật giáo Đại thừa, trong giai đoạn tập tành này, người sa-di bồ-tát phải học thuộc lòng các đoạn văn sâu sắc đó (các bài kinh ngắn hoặc các đoạn luận giải nổi tiếng trong các kinh sách Đại thừa) để tụng sau khi chấm dứt các buổi hành thiền. Ngoài ra cũng còn một phép luyện tập khác, và cũng đã trở thành một thông lệ, đó là cách bắt buộc người sa-di bồ-tát phải tự tay sao chép kinh sách. Việc sao chép đó không phải là để tạo ra thêm nhiều bản sao mới mà là một phương pháp thiền định. Người sa-di bồ-tát phải tập trung thật mạnh để viết các dòng chữ thật đẹp, không được thiếu sót, cũng không được phạm lỗi chính tả. Trong khi sao chép chúng ta phải nghĩ đến ý nghĩa của từng chữ, từng câu. Từng chút một, các ý nghĩa đó sẽ ăn sâu vào phần vô thức, kín đáo tác động đến tâm thức và biến cải toàn thể con người của mình. Theo truyền thống từ ngàn xưa, việc sao chép và nắn nót từng chữ một rất quan trọng, phải say mê và xem đó như là sadhana (sadhana là tiếng Pali và tiếng Phạn, có nghĩa là một cách phát lộ sự cao đẹp), một phương pháp tu tập tâm linh
Là một người sa-di bồ-tát, tất nhiên chúng ta phải luyện tập thiền định, nhất là thiền định về bốn bhrama vihara (bốn thể dạng vô biên của tâm thức, kinh sách Hán ngữ gọi là "Tứ vô lượng tâm"): sự từ tâm (metta / tình thương / "từ") , lòng từ bi (karuna / "bi"), niềm hân hoan (mudita / "hỉ") và sự bình lặng (upeksha / sự thanh thản, thăng bằng và vững vàng của tâm thức / "xả"). Phép luyện tập này rất quan trọng và được xem là nền tảng khơi động lòng từ bi vô biên nơi người bồ-tát ở các cấp bậc thành đạt thật cao.
.
Giai đoạn tiếp theo là tập trung vào việc luyện tập các paramita (các thể dạng hoàn hảo). Tất nhiên và nếu có thể, thì mỗi ngày phải thực thi bảy phép nghi lễ (xin xem lại bài 35 trong chương V, bảy phép nghi lễ / puja đã được giải thích trong phần ghi chú của bài này), Ngoài ra cũng phải trau dồi bốn yếu tố hỗ trợ cho sự phát triển bodhicitta (tâm thức giác ngộ / bồ đề tâm) theo sự chỉ dẫn của Vasubhandu (Thế Thân, một vị luận sư người Ấn thế kỷ thứ IV, từng góp phần sáng lập học thuyết Yogakara /Duy thức) và phải luôn cố gắng giữ một nếp sống đơn sơ, ân cần, thân thiện, khả ái, và trong sự sinh hoạt hằng ngày phải luôn nghĩ đến việc giúp đỡ những người chung quanh. Đấy là phẩm tính của người sa-di thấm nhuần sâu xa lý tưởng của người bồ-tát và thực thi lý tưởng đó một cách thành thật, dù rằng bodhicitta (tâm thức giác ngộ) vẫn chưa hiện lên với mình.
Người bồ-tát đang còn bước đi trên con đường
Cấp bậc cao hơn cấp bậc sa-di bồ-tát là cấp bậc của những "người bồ-tát đang còn bước đi trên con đường". Họ là những người đang cố gắng vượt qua sáu bhumi (kinh sách Hán ngữ gọi là "địa giới") đầu tiên trong số mười bhumi (dasabhumi / "thập địa", là một khái niệm nêu lên mười cấp bặc thăng tiến của người bồ-tát). Sau khi đạt được địa giới thứ nhất thì tất cả các sa-di bồ-tát sẽ cảm nhận được sự thức tỉnh của con tim giác ngộ, họ ý thức được ý nghĩa sâu xa hàm chứa trong các lời nguyện của người bồ-tát và bắt đầu hăng say luyện tập các paramita (các sự hoàn hảo. Xin mạn phép nhắc lại paramita nguyên nghĩa là "vượt sang bờ bên kia", và cũng có nghĩa là "mục đích" hay "bờ bên kia" hay sự "hoàn hảo". Phật giáo Theravada nêu lên mười paramita; Phật giáo Đại thừa gom chung trong sáu paramita).
Nhiều học phái Đại thừa cho rằng những người "bước vào dòng chảy" (sotapatti / kinh sách Hán ngữ gọi là "sơ quả tu-đà hoàn", hoặc "nhập lưu" hay "nhất quả", và ở cấp bậc này người tu tập sẽ còn phải tái sinh), "những người sẽ còn quay lại thêm một lần" (sakadagami / "nhị quả tư-đà-hàm" hay "nhất lai", có nghĩa là còn phải tái sinh thêm một lần nữa), "những người không còn quay lại" (anagami / "tam quả a-na-hàm" hay "bất lai", có nghĩa là không còn tái sinh nữa) và kể cả các vị A-la-hán (Arahant), là những người được nói đến trong Phật giáo Theravada, tất cả đều thuộc thể loại những "người bồ-tát đang còn bước đi trên con đường" (tức là cấp bậc thứ hai trong hệ thống thứ bậc của người bồ-tát). Theo quan điểm của nhiều trường phái Đại thừa thì trong giai đoạn tu tập này, các vị trên đây dù đã thực hiện được mục đích giác ngộ mang tính cách cá nhân đi nữa, thế nhưng bất cứ lúc nào họ cũng có thể rơi vào tình trạng đổi thay, hoặc đánh mất lý tưởng giác ngộ vì sự tốt lành của tất cả chúng sinh, và có thể cả lòng quyết tâm bước theo con đường lý tưởng của người bồ-tát.
Trong tập luận Vòng bảo châu trân quý của sự Giác ngộ (đã được nói đến trong bài 45) nhà sư Gampopa đã dựa vào bản kinh Aksayamatipariprocha để mô tả các cấp bậc thăng tiến của những người "bồ-tát đang còn bước đi trên con đường" như sau:
«Người ta có thể nhận thấy được lòng từ tâm (metta tình thương yêu, sự quý mến, kinh sách Hán ngữ gọi là "từ" ) đối với chúng sinh của những người bồ-tát qua phong cách (attitude / thái độ, tác phong) giác ngộ khi vừa mới bắt đầu hiện lên với họ (tức là cấp bậc thứ nhất của những người sa-di bồ-tát); hoặc qua bản chất của hiện thực nơi những người bồ-tát đã hoàn toàn sống với nó bằng cách thực thi những điều tốt lành (tức là cấp bậc thứ hai của những người bồ-tát đang còn bước đi trên con đường); hoặc bằng cách thực hiện và chấp nhận mang lại mọi điều tốt lành cho chúng sinh, nhưng không nhằm vào bất cứ một chủ đích nào của người bồ tát, khi họ đã thực hiện và chấp nhận sự kiện tất cả mọi thực thể (entity / thực trạng) của hiện thực không hề hàm chứa một nguồn gốc (nguyên nhân, điều kiện) nào cả (tức là cấp bậc cao nhất của người bồ-tát, vượt lên trên thế giới trói buộc của các hiện tượng do điều kiện mà có, và đó cũng là thể dạng "trống không tuyệt đối" của hiện thực, nói một cách khác là sự giải thoát tối thượng. Nói chung đoạn văn trên đây vô cùng khúc triết và sâu sắc của nhà sư Gampopa, nêu lên sự thăng tiến của người bồ-tát, sự thăng tiến đó gồm có ba câp bậc : 1- khi lòng từ tâm hiện lên với mình ; 2- khi ý thức được bản chất của hiện thực là gì để sống với nó và để thực thi những điều tốt lành vì tất cả chúng sinh ; 3- khi đã thực hiện được bản chất trống không của hiện thực để sống với nó và tiếp tục thực thi những điều tốt lành đó cho tất cả chúng sinh, nhưng không vì một chủ đích nào cả). Ngoài ra chúng ta cũng không khỏi khâm phục sự uyên bác của nhà sư Sangharakshita khi trích dẫn câu trên đây trong một tập luận được trước tác cách nay đã 9 thế kỷ!)
Sự kiện cho rằng "lòng từ tâm đối với chúng sinh" (xin nhắc lại : lòng từ tâm hay tình thương yêu - metta - là phẩm tính thứ nhất trong số bốn phẩm tính vô biên gọi là "tứ vô lượng tâm") chỉ có thể phát sinh nơi người bồ-tát khi nào bodhicitta (tâm thức giác ngộ) đã hiện lên với họ, điều đó cho thấy lòng từ tâm thật hết sức khó thực hiện. Khi nào chúng ta tạo được cho mình một thái độ hành xử từ tâm khá bền vững đối với các chúng sinh khác, thì khi đó chúng ta mới thật sự - hoặc có vẻ - trở thành một người bồ-tát, và nếu nói theo Phật giáo Theravada thì đấy là "một người đã bước được vào dòng chảy". Điều này cho thấy tầm quan trọng vô cùng to lớn của thái độ tích cực đối với tất cả kẻ khác, bất chấp các khiếm khuyết của họ và cả của mình, đồng thời cũng bất chấp tất cả những sự rắc rối (complication / phức tạp, khó khăn) có thể sẽ xảy ra sau đó như là một sự thách đố đối với sự kiên nhẫn của mình.
Theo Gampopa, thì những "người bồ-tát đang còn bước đi trên con đường" có đủ khả năng phát động lòng từ tâm (metta) của mình "trước bất cứ một hiện thực nào" (đối với tất cả chúng sinh trong bất cứ bối cảnh nào hay hoàn cảnh nào). Tuy nhiên, là những người sa-di bồ tát, các bạn cũng có thể phát huy metta (tình thương, lòng từ tâm, sự khả ái / "từ") đối với tất cả chúng sinh, thế nhưng đồng thời các bạn vẫn cảm thấy họ khác với mình (tức là một sự tách biệt hiện ra giữa chủ thể và đối tượng). Thế nhưng khi trở thành những "người bồ-tát đang còn bước đi trên con đường" (cấp bậc thứ hai) thì các bạn sẽ bắt đầu vượt lên trên cảm nhận về sự khác biệt đó. Điều này không có nghĩa là mọi sự đều bị thu hẹp để trở thành một cái gì đó mang tính cách đồng nhất và siêu hình, mà đúng hơn là một sự cảm nhận về con người của mình tách rời với kẻ khác trở nên lu mờ một cách rõ rệt. Điều này thật hết sức khó giải thích bằng chữ nghĩa, chẳng qua là vì chữ nghĩa chỉ là những gì phát sinh từ các sự cảm nhận nhị nguyên (dualistic) (giữa chủ thể và đối tượng, giữa mình và mọi sự vật mà mình cảm nhận được chung quanh mình), bởi vì đó là một sự cảm nhận giữa mình và cả kẻ khác thấm đượm một cái gì đó vượt lên trên cả hai thứ (tức là mình và kẻ khác, chủ thể và đối tượng), thế nhưng đồng thời cũng không hẳn là xóa bớt hay gạt bỏ bớt phía này hay phía kia (không hẳn là hoàn toàn quên mình và chỉ nghĩ đến người khác mà là một sự cảm nhận thật gần với kẻ khác qua một mối dây thân thiện thật sâu xa). Sự phân biệt không còn mang tính cách tuyệt đối nữa (mình và kẻ khác, chủ thể và đối tượng không còn là hai thực thể hoàn toàn khác biệt nhau), sự căng thẳng (sự phân tách) giữa mình và kẻ khác giảm bớt đi (sự tách biệt giữa mình và kẻ khác trở nên lu mờ), và mở ra một khung cảnh hiện thực rộng lớn hơn. Chẳng hạn một người nào đó đứng ra bố thí, và nếu người này là một "sa-di" thì vẫn có thể xảy ra một sự lưỡng lự ở một mức độ nào đó : "tôi có nên giữ lại một phần hay mang ra cho hết ?". Thế nhưng sau đó thì người này cũng có thể nghĩ rằng tốt hơn hết nên biến mình trở thành một con người cao quý hơn, bèn phát động một sự cố gắng thật to lớn giúp mình hiến dâng tất cả. Khi nào đạt được cấp bậc thứ hai đó của lòng từ tâm, thì sự đối nghich trên đây (giữa mình và kẻ khác) sẽ không còn nữa. Chúng ta sẽ cảm thấy không có một sự khác biệt đáng kể nào giữa hành động giữ lại một phần cho mình và quyết tâm mang ra hiến dâng tất cả, sự cảm nhận đó sẽ khiến chúng ta mang ra hiến dâng tất cả một cách thật hồn nhiên và vui sướng.
Lòng từ tâm "không nhằm vào một chủ đích đặc biệt nào cả" chỉ hiện lên với người bồ-tát khi nhận thấy và chấp nhận sự kiện "tất cả mọi thực thể (entity / thực trạng) của hiện thực không hề hàm chứa một nguyên nhân (nguồn gốc, điều kiện) nào cả", và điều đó chỉ có thể xảy ra trong địa giới (bhumi) thứ tám trong số mười địa giới ("thập địa" hay mười cấp bậc thăng tiến của người bồ-tát). Sự kiện đó được gọi là anupattika-dharma-kshanti, có nghĩa là sự chấp nhận thật kiên kiên trì ("patience" / kiên nhẫn, không xao động) sự kiện tất cà mọi dharma (trong trường hợp này chữ dharma không có nghĩa là Đạo Pháp, mà có nghĩa là các "hiện tượng") không thật sự hiện ra cũng không thật sự biến mất (nguyên nghĩa của chữ anupattica-dharma-kshanti là "sự hiểu biết trí thức về sự thật của sự hiện hữu không mang một nguồn gốc phát sinh nào cả. Nếu phân tích từng chữ một thì tiền ngữ an-utpatti có nghĩa là không do một điều kiện hay nguồn gốc nào cả ; chữ dharma có nghĩa là hiện tượng; shanti có nghĩa là là sự kiên nhẫn). Nói một cách khác, trên thực tế người ta sẽ nhận thấy không hề có bất cứ một thứ gì do điều kiện mà có (conditionality) hay phát sinh từ các nguyên nhân (causuality), nhờ đó người ta sẽ đủ sức đương đầu với sự kiện trái ngược hẳn lại với những gì mà mình cho rằng đúng ra phải là như thế (phải đương đầu và giữ vững tầm nhìn hướng vào một thế giới "giải thoát", phi điều kiện và phi nguyên nhân, trái ngược lại với thế giới "nô lệ", chi phối bởi sự vận hành trói buộc của mọi hiện tượng do nguyên nhân và điều kiện mà có, tức là những gì mà chúng ta ngỡ rằng đúng thật là như thế: tức là cái này sinh ra cái kia, cái kia sinh ra cái nọ). Người ta sẽ nhận thấy bất cứ một sự hiện hữu nào cũng chỉ là ảo giác, không thật sự phát sinh từ một sự hiện hữu nhất định nào cả, cũng không thật sự tách rời ra khỏi một sự hiện hữu nào khác (không hình thành cũng không tan biến, một thể dạng thoát khỏi sự vận hành do nguyên nhân và điều kiện mà có, tức là một sự hiện hữu phi điều kiện, ý nghĩa mở rộng là sự tỉnh thức hay giác ngộ). Và những gì chứng thực (seal / đánh dấu, chứng nhận) cho sự huyền bí đích thật của sự thực hiện đó (tức là sự cảm nhận về bản chất phi nguyên nhân và phi điều kiện của thế giới hiện tượng) chính là sự kiện cho thấy chúng ta ngày càng trở nên từ bi hơn (ý nghĩa của câu này khá khúc triết : nhận thấy chúng sinh vướng mắc trong sự vận hành trói buộc của thế giới hiện tượng, trong khi mình cảm nhận được và thực hiện được bản chất phi nguyên nhân và phi điều kiện của thế giới và ra thoát khỏi thế giới, sẽ không khỏi khiến mình phát động lòng từ bi ngày càng mãnh liệt hơn đối với chúng sinh còn đang quay cuồng với sự vận hành của thế giới. Lòng từ bi ngày càng trở nên mãnh liệt trong lòng mình, đôi khi có thể khiến mình không chịu đựng nổi, chính là sự huyền bí sâu xa và cũng là bằng chứng xác nhận sự thăng tiến của mình trên đường tu tập. Trong hai bài 48 và 49 tiếp theo bài này, nhà sư Sangharakshita sẽ tiếp tục nói đến hai thể loại bồ-tát khác là "người bồ-tát không còn thoái lui" và "người bồ-tát dưới thể dạng dharmakaya" / pháp thân).
Bures-Sur-Yvette, 22.09.21
Hoang Phong chuyển ngữ
(còn tiếp)