Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Bài 27: Sila paramita hay Đạo Đức hoàn hảo

08/02/202120:51(Xem: 2371)
Bài 27: Sila paramita hay Đạo Đức hoàn hảo

buddha_141


Lý Tưởng của người Bồ-tát

The Bodhisattva Ideal

***

 Chương IV

Lòng vị tha và chủ trương cá nhân

trong cuộc sống tâm linh

 

                        Bài 22 - Tình thương người và chủ trương cá nhân

                        Bài 23 - Tình thương người

                        Bài 24 - Dana và sự hào hiệp

                        Bài 25 - Hiến dâng sự can đảm hay không biết sợ là gì 

                        Bài 26 - Hiến dâng mạng sống của chính mình

                        Bài 27- Sila paramita hay Đạo đức hoàn hảo

                        Bài 28- Ăn chay và Phật giáo

                        Bài 29- Hôn nhân và Phật giáo

 

Bài 27

 

Sila paramita hay Đạo Đức hoàn hảo

 

 

            Sila  hay  Đạo đức (kinh sách Hán ngữ gọi là Giới hay giữ Giới, dịch âm là Thi-la), là phẩm tính thứ hai trong số các phẩm tính paramita (dịch âm là ba-la-mật, có nghĩa là toàn thiện, hoàn hảo, siêu nhiên. Theo Phật giáo Theravada thì có 10 phẩm tính paramita, Đại thừa gom lại thành 6 paramita), nêu lên phong cách sống, phản ảnh từ thể dạng tinh khiết hóa nơi con người của một vị bồ-tát. Sila không phải chỉ nêu lên ý niệm về một "nếp sống đạo hạnh" mà còn phản ảnh cả "một cuộc sống thấm nhuần Dharma (Đạo Pháp), một "phong cách hành xử lành mạnh". Thật vậy, thuật ngữ Sila / Đạo đức gợi lên một cung cách hành xử khéo léo, một sự hòa hợp tự nhiên, không phải chỉ là những cử chỉ thỉnh thoảng mới xảy ra, mà là cách cư xử thường nhật, phản ảnh từ các cử chỉ khéo léo của mình (các tín ngưỡng thần khải đặt nền tảng tu tập dựa vào đức tin và các cảm tính tội lỗi, do đó phải xưng tội, rửa tội..., Phật giáo quan tâm nhiều hơn đến việc giữ gìn đạo đức, xem đạo đức như là một phương tiện thiện xảo biến cải và tinh khiết hóa con người của mình, tạo ra cho mình một nếp sống hài hòa và đạo hạnh).

 

            Sila / Đạo đức cũng thường được hiểu là "sự ngay thật" (rectitude / ngay thẳng, lương thiện) hay "luân lý" (morality), thế nhưng nhiều người cho rằng các ý nghĩa mở rộng đó có thể gây ra một chút khó chịu (unpleasant) (các chữ lương thiện, luân lý... có vẻ dạy đời, khó nghe, chướng tai) liên quan đến các thái độ hành xử mang tính cách quy ước và lỗi thời. Các ý niệm và lý tưởng của Ki-tô giáo thiết đặt dựa vào giáo lý về tội tổ tông, dù không nhất thiết phản ảnh giáo lý trong Phúc âm, thế nhưng đã khiến nhiều người phải mang nặng cảm tính tội lỗi, một sự nhận tội thật nặng nề. Những người sinh trưởng trong thế giới Tây phương, dù họ là những người không thích Ki-tô giáo, những người vô thần (atheist), những người theo chủ nghĩa nhân đạo (humanist) hoặc các chủ trương khác cũng vậy, tất cả đều không sao tránh khỏi ít nhiều ảnh hưởng tạo ra bởi ý niệm tội lỗi đó. Chúng ta phải thật ý thức điều này hầu tránh cho mình vô tình chịu ảnh hưởng của ý niệm tội lỗi ấy trên đường tu tập Phật giáo của mình, bởi vì điều đó có thể là nguyên nhân gây ra hoang mang trong việc giữ gìn đạo đức (ethics) của mình (xin lưu ý đây là một bài giảng của nhà sư Sangharakshita dành cho người Tây phương. Đối với những người Á châu - kể cả những người theo Ki-tô giáo - thì lại khác, ý niệm tôi lỗi, nhất là tội tổ tông, dường như không đè nặng "quá đáng" trong tâm trí họ như những người Tây phương. Trái lại những gì ám ảnh họ là đạo đức, họ quan tâm đến phẩm giá của mình, chú ý đến các hành động và cung cách xử thế của mình xem có đạo đức hay không).   

 

            Những người ngoại đạo (pagan / païen) không màng đến các thái độ đạo đức của Ki-tô giáo vì chẳng mang lại ích lợi gì cả (tội tổ tông dù có rửa được thật sạch hay là không thì cũng chẳng thay đổi gì nhiều, ít nhất là trong cuộc sống hiện tại của mình), mà chỉ quan tâm đến các thể dạng đạo đức tự nhiên hơn, gần hơn với thực tế trong cuộc sống và các cảm nhận của con người.  

 

Đạo đức tự nhiên và đạo đức quy ước

 

            Nếu muốn hiểu được sự khác biệt giữa đạo đức tự nhiên (natural morality), tiếng Pali là pakati-sila (chữ pakati có nghĩa là căn bản hay tự nhiên) và đạo đức quy ước (conventional morality) hay pannatti-sila (pannati có nghĩa là tùy thuộc vào các quy chế hay quy luật, nói lên một sự quy định hay áp đặt) thì phải ngược về các thời kỳ đầu tiên khi Phật giáo mới được hình thành. Đạo đức tự nhiên phản ảnh một cung cách hành xử trực tiếp liên hệ đến các thể dạng tâm thần, trong khi đó đạo đức quy ước chỉ là những gì liên quan đến thói tục và truyền thống, không nói lên một căn bản tâm lý nào, cũng không trực tiếp liên quan đến một thể dạng tâm thức đặc biệt nào. Thí dụ như trường hợp cố tránh không làm một điều gì mang bản chất thèm khát, nhất là dưới sự kiềm tỏa của các thể dạng tâm thần bấn loạn, thì đấy là thái độ liên quan đến vấn đề đạo đức tự nhiên, và trường hợp chỉ được phép có một vợ, hay hai vợ hoặc bốn vợ, thì đấy là vấn đề đạo đức quy ước. Điều đó cũng tương tự như giở nón khi bước vào một nơi thiêng liêng, đấy chỉ là một hình thức lễ nghi, tương tự như các cử chỉ và các cung cách lễ nghi khác. Các cảm tính kính cẩn (reverence / sự tôn kính, thành kính hiện lên trong tâm thức) mới là những gì thuộc lãnh vực đạo đức tự nhiên, thế nhưng các cách biểu lộ sự kính cẩn đó (chẳng hạn như cúi đầu, chắp tay...) thì hầu hết lại thuộc vào lãnh vực đạo đức quy ước, dù rằng người ta cũng có thể cho rằng có một sự liên hệ nào đó thuộc lãnh vực tâm lý giữa các thể dạng tâm thần và các cử chỉ trên thân thể (giở nón là một cử chỉ lễ nghi thế nhưng nếu có một sự thành kính nào đó đi kèm với cử chỉ ấy thì cũng có thể phản ảnh một thể dạng tâm lý).       

 

            Tín ngưỡng Phật giáo đưa ra nhiều giới luật, trong đó có một số dành riêng cho các nhà sư (những người xuất gia), thế nhưng các giới luật này không liên hệ gì cả với đạo đức tự nhiên, chẳng hạn như phải mặc áo màu vàng (áo cà-sa), cạo đầu, v.v. đấy chỉ là những gì thuộc lãnh vực quy ước. Phật giáo Theravada cũng thẳng thắn công nhận điều đó, ít nhất là trên phương diện lý thuyết, bởi vì trên thực tế, đối với dư luận quần chúng, các giới luật này (mặc áo cà-sa, xuống tóc, v.v.) dù thuộc lãnh vực quy ước, thế nhưng vẫn được xem ngang hàng với các giới luật quan trọng nhất trong lãnh vực đạo đức tự nhiên, điều này quả đáng tiếc (cung cách hành xử đạo đức quý hơn chiếc áo mặc trên người. Đối với Ki-tô giáo ngày nay các vị linh mục có thể ăn mặc giống như người thế tục, chỉ cần thêm một vài dấu hiệu nhỏ - chẳng hạn như cổ áo La-mã / clerical collar, tiếng Pháp gọi là col romain - để chứng tỏ mình là người tu hành. Dầu sao khoác lên người chiếc áo của người xuất gia - ít nhất là đối với các nhà sư Phật giáo - cũng là cách nhắc nhở mình phải tôn trọng lý tưởng và những lời nguyện ước của mình).

 

            Tiếc thay, một số người vẫn cứ cảm thấy phạm tội thật nặng nề mỗi khi vi phạm các giới luật quy ước, nhất là những người sống trong các xã hội vẫn còn xem trọng các giới luật đó và xem đấy là các giá trị đạo đức tự nhiên. Chẳng hạn trong một số xã hội, sự tích cực (chăm lo giữ gìn các giới luật quy ước) là "đạo đức", và không tích cực là "kém đạo đức"; do đó những người "không có chút gì là tích cực cả", với ý nghĩa là làm việc nhưng ăn lương (nhận thù lao), thường bị khinh miệt và bị xem là kém đạo đức. Thế nhưng họ vẫn cứ làm dù cảm thấy tội lỗi. Vì thế đôi khi chính họ cũng tự cảm thấy mình mang tội, tương tự như vi phạm vào một điều gì đó sai trái, thế nhưng thật ra thì họ không có một hành động nào đi ngược lại với đạo đức tự nhiên, mà chỉ không phù hợp với một vài tập quán và thói tục [mang tính cách quy ước]. Nói một cách khác, thì đấy chỉ là sự khác biệt giữa đạo đức và trách nhiệm. Do đó người ta cũng có thể vừa đạo đức vừa được kính trọng, nhưng cũng có thể rất được kính trọng (giữ được đạo đức tự nhiên) nhưng kém đạo đức (làm việc và nhận thù lao chẳng hạn), hoặc cũng có thể rất đạo đức (chăm lo giữ gìn đạo đức quy ước) nhưng không được kính trọng một tí nào cả (sự giữ gìn đạo đức của họ chỉ xoay quanh những gì liên quan đến thói tục và tập quán mang tính cách quy ước và công thức).

 

            (Nhà sư Sangharakshita nêu lên một vấn đề vô cùng trọng đại đối với Phật giáo trong xã hội tân tiến và tổ chức hóa thật chặt chẽ ngày nay. Phật giáo theo truyền thống chủ trương người tu hành phải tách ra khỏi sự bon chen của xã hội, sống bằng "khất thực", nói một cách khác là phải nhờ vả nguời thế tục. Thế nhưng tổ chức xã hội ngày nay thì lại đòi hỏi một sự gia nhập tích cực của tất cả mọi ngưởi. Thiết nghĩ đấy cũng có thể là một điều tốt, người tu hành cùng gia nhập với sự sinh hoạt của xã hội, giúp đỡ người thế tục từ các việc chân tay đến việc tu tập tâm linh. Lối sống đó phải chăng cũng là lý tưởng của người bồ-tát? Ban ngày làm việc, ban đêm trở về chùa tụng niệm và ngồi thiền cũng có thể là một giải pháp cho Phật giáo trong tương lai, nói lên một sự mở rộng và hòa mình với xã hội. Chùa chiền nên chấp nhận những người vừa xuất gia vừa gia nhập vào sự sinh hoạt xã hội nhằm một mặt giúp đỡ người thế tục, một mặt tạo thêm phương tiện - chẳng hạn như nhận thù lao - để bảo trì chùa chiền và các sinh hoạt Phật sự, thay vì chờ đợi sự cúng dường của người thế tục. hoặc phải tổ chức các bữa cơm xã hội có ca nhạc giúp vui  Đối với người thế tục cũng vậy, nên chấp nhận những người tu hành tích cực, họ thường là những người chăm chỉ, lương thiện và có thể tin cẩn được. Nói một cách khác là người tu hành mang Dharma vào thế giới, và người thế tục góp phần mình vào sự quảng bá và tồn vong của Dharma. Nói chung là cổng chùa nên mở rộng cửa đón nhận những người tích cực và có thiện chí, nhằm xóa bỏ bức tường quy ước phân cách giữa người tu hành và kẻ thế tục. Ngày nay trong các xã hội Tây phương, những người bước theo con đường Phật giáo, nhất là trong giới trí thức có nghề nghiệp cao, dù hòa mình với cuộc sống thế tục thể nhưng họ vẫn đạt được các trình độ tu tập rất cao, gián tiếp và kín đáo góp phần nâng cao các giá trị tinh thần và tâm linh trong các xã hội Tây phương. Sự hòa nhập đó của Phật giáo Tây phương vào sự sinh hoạt xã hội tuy mới mẻ thế nhưng cũng đã cho thấy nhiều tác động. Chẳng hạn như việc ăn chay được quảng bá và trở thành cả một phong trào, quyền hạn của thú vật được luật pháp công nhận và bảo vệ, ngược đãi thú vật sẽ bị truy tố ra tòa, các hiệp hội Phật giáo chu cấp cho những người thất nghiệp hoặc tự nguyện tạm ngưng hành nghề để tham gia các khóa tu học và ẩn cư dài hạn, các nhóm tuyên úy ủy lạo tù nhân được tổ chức,v.v.).

 

            Thật ra chỉ có các hình thức đạo đức tự nhiên thì mới thật sự trực tiếp liên hệ đến karma (nghiệp) (mặc chiếc áo cà-sa không nhất thiết sẽ tạo ra nghiệp lành mà là cung cách sống của người khoác lên mình chiếc áo ấy). Do đó không nên làm cho đạo đức đích thật, tức là đạo đức tự nhiên, bị lu mờ bằng cách xem trọng các thành kiến liên quan đế "cái tốt" và "cái xấu", bởi vì đó cũng có thể chỉ là những gì căn cứ vào các thói tục địa phương, không liên hệ gì đến các "thể dạng tâm thần lành mạnh" hay "kém lành mạnh". Tóm lại thật hết sức quan trọng là phải vững tin, từ bên trong thâm tâm mình, là mình thật sự đã tạo được cho mình một cuộc sống đạo hạnh, điều đó có nghĩa là không phải chỉ biết tuân theo các thành kiến của tập thể mà mình cùng sinh hoạt trong đó. Cuộc sống đạo hạnh nhất thiết liên hệ đến các thể dạng tâm thần tinh khiết, phản ảnh từ các cung cách hành xử và các ngôn từ lành mạnh. Các giới luật liên quan đến đạo đức tự nhiên là nhằm ngăn chận không cho phép mình vị phạm vào cách hành động bất thuận lợi - có nghĩa là các hành động thúc đầy bởi các sự thèm khát, ghét bỏ và vô mình - hầu giúp mình biết hành động dựa vào các thể dạng tâm thần thuận lợi, chẳng hạn như lòng hào hiệp, tình thương và trí tuệ.       

 

Năm giới luật

 

            Giới luật là căn bản tu tập của Phật giáo, quy định việc ứng dụng các nguyên tắc đạo đức trên tất cả mọi mặt trong cuộc sống. Căn bản nhất là một loạt gồm năm giới luật nêu lên trong câu "một khi đã bước vào con đường tu tập thì" :

 

1- không được sát sinh,

2- không được phép chiếm hữu những gì mà người khác không đồng ý cho mình,

3- không được phép tà dâm,

4- không nói dối,

5- không dùng các chất độc hại.

 

            (Năm giới luật trên đây mang ít nhiều tính cách cá nhân, quy định cho những người sống trong một khung cảnh xã hội đơn giản cách nay hơn hai ngàn năm trăm năm. Nếu mở rộng ý nghĩa và bản chất của năm giới luật đó để áp dụng vào sự sinh hoạt vô cùng phức tạp của xã hội ngày nay, thì chúng ta sẽ thấy tầm quan trọng của năm giới luật ấy thật to lớn.

 

            Không sát sinh có nghĩa là tôn trọng sự sống, không sát hại muôn thú, đó là cách mang lại một môi sinh lành mạnh cho địa cầu. Không sát nhân là cách trực tiếp không gây ra chiến tranh, không sản xuất và buôn bán khí giới, biến nhân loại trở thành nhân bản và hiền lành hơn, tạo ra một xã hội an bình và ít lo sợ hơn. Giới luật thứ nhất trên đây, tức là không sát sinh, thoạt nhìn khá đơn giản thế nhưng dường như cũng thừa đủ để biến cải toàn bộ sự sống trên hành tinh này.

 

            Không lùa bắt nô lệ và khai thác sức người miễn phí, không xâm chiếm thuộc địa khai thác nhân lực và tài nguyên của các nước khác, những người lãnh đạo không đưa ra các khẩu hiệu để tận dụng sức lao động của những người nghèo khổ, các cường quốc không sử dụng mưu mô và sức mạnh để xâm lăng các quốc gia lân bang, đồng hoá các dân tộc khác để bành trướng lãnh thổ của mình, là cách tôn trọng giới luật thứ hai: không lấy những gì mà người khác không cho.

 

            Không sờ mó trẻ con, không hãm hiếp phụ nữ, không quyến rũ đàn ông, không lợi dụng quyền lực để sách nhiễu tính dục những người yếu đuối hoặc các đứa trẻ vị thành niên, là cách tạo ra một bầu không khí hài hòa trong sự giao tiếp giữa con người với nhau, tạo ra một xã hội kính trọng nhân phẩm, là cách tôn trọng giới luật thứ ba: không được phép tà dâm.

 

            Một vị tổng thống không nói dối; một tập thể lãnh đạo quốc gia không lường gạt người dân, tháo bỏ bớt các bảng khẩu hiệu và các biểu ngữ lừa bịp; các cơ quan truyền thông không che dấu sự thật, là cách mang lại cho xã hội một sự sinh hoạt ngay thật và lương thiện. Đó là cách tôn trọng giới luật thứ tư: không nói dối.

 

            Không dùng ma túy và các chất độc hại sẽ tránh được sự tàn phá chính mình, tránh được các cảnh hung bạo, loại bỏ được các xã hội đen. Đó là cách tôn trọng giới luật thứ năm: không dùng những chất độc hại.  

 

            Sau đó là một loạt gồm mười giới luật, giúp người tu tập tinh khiết hóa thân thể, ngôn từ và tâm thức mình. Riêng đối với người bồ-tát thì phải tôn trọng 64 giới luật.

 

            Đối với việc giữ gìn giới luật nói chung thì phải thú nhận là có rất nhiều điều cần phải nói thêm, thế nhưng tôi chỉ muốn lưu ý tất cả chúng ta nên tìm hiểu về các phẩm tính đạo đức Phật giáo áp dụng cho ba bầu không gian sinh hoạt của sự sống con người là: việc ẩm thực, công ăn việc làm và hôn nhân (đây là các chủ đề của các bài giảng tiếp theo). Tuy nhiên trong các lãnh vực sinh hoạt đó thì việc ẩm thực giữ một vai trò chủ yếu hơn cả. Ảm thực thuộc vào sự sinh hoạt hằng ngày, và hầu hết chúng ta ăn uống nhiều lần trong một ngày. Thực phẩm giữ một vai trò vô cùng quan trọng trong cuộc sống, chúng ta dành ra rất nhiều thì giờ, sinh lực và tiền bạc vào việc dinh dưỡng, tạo ra cả một thế giới ẩm thực, nào là các phòng ăn, dụng cụ nấu nướng, v.v., Vì thế thật hết sức quan trọng là phải nghĩ đến các nguyên tắc đạo đức áp dụng cho việc ẩm thực.

 

                                                                                    Bures-Sur-Yvette, 07.02.21   

                                                                                      Hoang Phong chuyển ngữ

 

(còn tiếp)




***
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
16/04/2022(Xem: 3887)
Phật Mẫu Chuẩn Đề ngự trên đài sen Vầng hào quang ánh tỏa ra rực rỡ Phật, Pháp,Tuệ nhãn chiếu soi cứu độ Chúng sanh khỏi kiếp khổ nạn đau thương
23/03/2022(Xem: 3442)
Kính lạy Đức Bồ Tát biểu tượng cho đại hạnh thực tiễn Hình thành nội hàm tín ngưỡng tinh thần BI, TRÍ, NGUYỆN, HẠNH của Phật giáo Bắc Tông (1) Điểm đặc sắc ...Đại thừa tâm lượng rộng lớn !
20/03/2022(Xem: 3156)
Tâm Đại từ bi. Từ là năng lực đem lại an vui cho chúng sanh; Bi là năng lực dứt trừ khổ đau cho mọi loài. Từ bi có sức mạnh thể chất và tâm linh để dõng mãnh làm lợi lạc cho đời, như vậy trong từ bi đã bao hàm Trí tuệ và Hùng lực mới đủ uy đức nhiếp chúng độ sanh. Tâm Đại từ bi là tâm của bậc đã thành tựu đạo nghiệp. Nay phàm phu chúng con nghiệp dày phước mỏng nhưng cũng nguyện thực tập theo hạnh Từ bi của Bồ Tát. Nguyện cho tâm chúng con mỗi ngày một bớt giận ghét người, không sân si với hoàn cảnh mình đang sống và biết ơn với những gì mình đang có. Nguyện đem tất cả khả năng của mình để cống hiến niềm vui cho đời, giúp người bớt khổ. Nhờ vậy mà tâm chúng con ngày càng tỏa sáng tình thương yêu, hiểu biết để thể nhập vào nguồn sống dạt dào Từ Bi Hỷ Xả của chư Phật, chư Bồ Tát.
19/03/2022(Xem: 2918)
Bồ Tát có gốc là Bodhisattva. Từ Bodhi có nghĩa là " giác ngộ.", sattva có nghĩa là "chúng sanh". Bodhisattva được dịch là chúng sanh giác ngộ hoặc người giác ngộ. Sau khi đạt được giác ngộ, bằng từ bi và trí tuệ, vị Bồ Tát giúp mình và người khác vượt qua biển khổ đến bờ an lạc. An lạc chính là Niết Bàn. Trong cuộc sống hàng ngày, các vị Bồ Tát luôn có mặt quanh ta, gồm Bồ Tát xuất gia và Bồ Tát tại gia. Đó là những người bằng trí tuệ, công sức giúp mọi người bớt khổ đau trong thân và tâm. Bồ Tát làm được điều đó bởi trong tâm của Bồ Tát tồn tại một năng lượng gọi là Tâm Bồ Đề. Khi quy y Tam Bảo, ai cũng muốn có Tâm Bồ Đề. Để đạt được Tâm Bồ Đề của một vị Bồ Tát, người tu phải tự hỏi: Mình an lạc không? Mình sống chan hòa với những người xung quanh không? Người tu phải hiểu rõ cái tính Không trong cuộc sống. Hoa cũng là đất và đất cũng là hoa. Bởi khi ngộ được “Ngũ uẩn giai không” thì mới “ độ nhất thiết khổ ách” tức là vượt qua mọi khổ đau đến được bờ Niết Bàn.
01/11/2021(Xem: 6753)
Kính mừng Lễ Vía Đức Phật Dược Sư Đản Sinh 30/9 Nhân ngày lễ Đức Đông Phương Giáo Chủ cùng tìm hiểu niềm tin đối với Ngài và sự mầu nhiệm linh ứng đến với mỗi Phật Tử .... Cách đây 25 năm, lần đầu tiên sự linh ứng của Phật Dược Sư đã đến với tôi một cách bất ngờ mà sau này khi học Phật tôi mới hiểu là mình có được túc duyên mới có được một phương thuốc nhiệm mầu về tâm linh do Ngài ban tặng qua câu thần chú linh ứng như sau mà lúc ấy chưa có YouTube để nghe như bây giờ .... Thần chú Dược Sư là một trong những câu thần chú được trì tụng nhiều nhất bởi công năng bất khả tư nghì mà nó đem lại cho hành giả khi trì tụng. Không chỉ có năng lực chữa lành bệnh tự thân hành giả mà còn có công năng chữa bệnh cho người khác. Quan trọng hơn là khả năng tịnh hoá những nghiệp bất thiện trong
22/10/2021(Xem: 3194)
Kính mừng Lễ Vía Quán Thế Âm 19/9 Kính dâng Thầy bài thơ nhân ngày Lễ Vía Quán Thế Âm 19/9 âm lịch ( 24/10/2021) .Kính chúc sức khỏe Thầy Kính ngưỡng Đức Quán Thế Âm Bồ Tát ... Một lần nữa, sự nhiệm mầu đã đến ! Melbourne vừa gỡ bỏ lockdown hai ngày Lễ vía Bồ Tát 19/9 sẽ cử hành ... hoan hỷ thay ! Mừng Ngài đã lắng nghe, giải cứu giúp thoát Khổ ! Sự là lòng từ bi nhân ái vị tha ...Bồ Tát Độ Lý thì chúng con tự cứu độ bản thân Bao dung, không tham đắm ái nhiễm bụi trần Bố thí, yêu thương người .. luôn giữ tâm ý sạch ! Kính nguyện : ... học ý nghĩa tên Ngài để làm tròn trọng trách, Người Phật Tử phải thể hiện được Từ Bi Nhẫn nhịn trước mọi nghịch duyên chớ khóc than chi Hiểu rõ hơn, lắng nghe hơn ... giải tỏa uẩn khúc ! Ngày Lễ Vía Quan Âm Xuất Gia 19/9 .. nguyện hứa biết tri túc ! Huệ Hương Melbourne 24/10/2021
06/09/2021(Xem: 4232)
Địa ngục là một khái niệm thuộc thế giới quan, nhằm mục đích trừng ác, răn dè hành vi của con người trong thế giới thực tại. Quan niệm về địa ngục được hình thành trên cơ sở thuyết luân hồi, luật nhân quả, thuyết báo ứng. Từ tư tưởng triết học, địa ngục được chuyển hóa thành nhiều loại hình nghệ thuật tôn giáo khác nhau, từ các dịch phẩm, khoa nghi, thơ phú, cho đến nghệ thuật tôn giáo, hội họa, bích họa, điêu khắc, phù điêu, đồ họa. Sự ảnh hưởng của kinh tạng Bắc truyền và nền nghệ thuật Phật giáo Đông Á là điều ai cũng có thể dễ dàng nhận thấy. Từ triều đại Lê Thánh Tông (1442-1496) có bài “Thập giới cô hồn quốc ngữ văn”, trong có đề cập đến thiên đường, địa ngục, Phong Đô, cảnh đói khát dưới chốn âm ty. Bài này dùng để răn dè 10 loại người gồm: thiền tăng, đạo sĩ, quan lại, Nho sĩ, thầy địa lý, thầy thuốc, tướng quân, hoa nương, thương nhân, đãng tử. Như vậy có thể hiểu được rằng dẫn có những tham khảo nhất định về địa ngục của Phật giáo. Bài này là để cúng xá tội vong li
24/07/2021(Xem: 3358)
Kính lạy Ngài Quán Thế Âm Bồ Tát ( Avalokitesvara) Ngài là vị Bồ tát với hạnh nguyện luôn lắng nghe tiếng kêu khổ đau của cuộc đời rồi tìm cách cứu giúp chúng sinh. Hôm nay là ngày vía Đức Ngài đã thành Đạo 19/6 âm lịch rơi vào 28/7/2021. Kính bạch Ngài .... Từ nhiều năm về trước các chùa Tự viện tại VN và Hải ngoại đều cử hành 3 ngày vía (19/2-19/6-19/9) rất trọng thể để quy ngưỡng và dâng trọn niềm tin đến Đức Ngài. Vị Bồ tát có khả năng thị hiện vô biên thân, tùy theo hoàn cảnh và điều kiện mà hiện thân tương ứng để cứu độ muôn loài.( theo kinh Pháp Hoa ). Và con đã từng khấn nguyện sẽ cúng dường đến Ngài bằng những vần Thơ , bài viết hầu tán dương Ngài với hạnh nguyện Nhĩ căn Viên Thông như Đức Cổ Phật hiệu Chánh Pháp Minh Như Lai đã thành tựu và trong dân gian Ngài (Bồ-tát Quán Thế Âm ) được tha thiết thầm kính tôn xưng Mẹ Quan Âm .
26/06/2021(Xem: 11698)
1/ Tôn Giả Xá-lợi-phất: Trí huệ đệ nhất Trí tuệ cao minh vi đệ nhất Tăng đoàn thống lãnh trợ Từ Tôn Kỳ Viên Tinh Xá thân lâm kiến Đạo nghiệp truyền lưu chiếu ánh quang. Trí tuệ sáng ngời là số một Tăng đoàn thống lãnh giúp Từ Tôn Kỳ Viên Tinh Xá đích thân dựng Đạo nghiệp lưu truyền rạng ánh quang Chí tâm đảnh lễ: Nam Mô Trí Tuệ Đệ Nhất Xá Lợi Phất Tôn Giả 2/ Tôn Giả Mục-kiền-liên: Thần thông đệ nhất Thần thông đệ nhất chúng xưng dương Thống lãnh tăng đoàn trợ Pháp Vương Hiếu kính mẫu thân khai diệu pháp Vu Lan báo hiếu vĩnh lưu hương. Thần thông số một chúng xưng dương Thống lãnh tăng đoàn trợ Pháp Vương Hiếu kính mẫu thân khơi pháp diệu Vu Lan báo hiếu mãi lưu hương. Chí tâm đảnh lễ: Nam Mô Thần Thông Đệ Nhất Mục Kiền Liên Tôn Giả
26/04/2021(Xem: 13330)
Đức Chuẩn Đề (1) vốn là Thất Cu Chi Phật Mẫu. Mười sáu tháng ba âm lịch, vía lễ thực thi (2) Ngài thường thuyết giảng Kinh Đà La Ni, Nguyện cầu tất cả trong Thế gian, Xuất thế gian đều thành tựu ... Khi nhìn biểu tượng Ngài ...khiến tâm tự nhủ (3) Uy lực từ bi vô biên với quần sanh Trí tuệ vĩ đại ...tay thứ chín ..Bát Nhã kinh Nguyện noi gương Bồ tát Long Thọ đọc 7 lần thần chú (4) Nam Mô Phật Mẫu Chuẩn Đề Đại Bồ Tát
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]