Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Để Không Sa Vào Địa Ngục (Nhân vía Bồ Tát Địa Tạng, 30/7 âm lịch)

16/09/202019:41(Xem: 3222)
Để Không Sa Vào Địa Ngục (Nhân vía Bồ Tát Địa Tạng, 30/7 âm lịch)
bo tat dia tang 
Để Không Sa Vào Địa Ngục
 
Nhân ngày vía thành đạo của Bồ Tát Địa  Tạng (30/7 âm lịch)
thử tìm hiểu Ái Thủ Hửu trong Thập nhị nhân duyên hầu  hiểu thêm về tiến trình Nhân Quả để không sa vào Địa Ngục .

Nếu  ai đã vào tuổi Thu Đông và đã từng trải qua những cơn đau nhức do thấp khớp chắc chắn sẽ hiểu  được  tiến trình tuần tự của sự Sinh / Diệt của Già, Bệnh, Khổ. Tâm trong chuỗi  Thập Nhị Nhân duyên ( nếu  hành giả  ấy có học qua về Phật  Pháp ) lúc bấy giờ hành giả sẽ không muốn bị ràng buộc bởi tham ái hay bất mãn nào cả.. Lúc đó khi ngồi chiêm nghiệm lại cuộc đời mình, hành giả sẽ  thốt ra " Thì ra điều ao ước duy nhất khi đến với cuộc đời này chỉ là sẽ được sống hạnh phúc và chết bình an." 

Và .....

nhất là có dịp giao hữu thân mật với người vừa qua đời  ta sẽ thấy thấy rõ ràng Luật nhân Quả không bao giờ sai đối  với bất kỳ  ai , nhân đã gây ra như thế thì nghiệp quả phải thế , và chỉ chuyển hóa khi nào chính ta tự kiểm soát  lại thái độ và hành vi của mình qua thân khẩu ý  mà thôi  !    

Chư Tổ đã tìm cách khuyên dạy chúng sinh thật nhiều trong dân gian qua kinh Địa Tạng Bổn Nguyện . 

Lễ Vu Lan 2020 ( Phật lịch 2564) vì lý do phong tỏa do nạn dịch Covid-19 tôi đã cùng Tu Viện Quảng Đức  đọc tụng trọn bộ kinh Địa Tạng Bổn Nguyện suốt 4 giờ livestream qua 4 buổi lễ và sau đó dùng hết thì giờ còn lại trong tuần để giải đáp những vướng  mắc trong sinh hoạt hằng ngày ....những gì mà từ lâu các bạn đồng đạo tôi thường cho tôi là lạc hướng...  khi tin vào Kinh Địa Tạng không do Đức Phật Thích Ca Mâu Ni  thuyết giảng . Nay thì tôi đã hiểu và đã Thấy .....

Nhớ lại những ngày hành hương Tứ Đại Danh Sơn năm 2012, được viếng thăm Cửu Hoa Sơn nơi  mà ngày nay còn lưu lại nhục thân củaNgài Kim Kiều Giác ( vị Hoàng  Tử của nước Tần La được cho là hoá thân của Địa Tạng Bồ Tát ) và hôm nay khi đọc tụng  kinh Địa Tạng bổn nguyện , kính xin được tóm  tắt về hoá thân và những lời đại nguyện trước khi vào chủ đề "Để không Sa vào Địa Ngục " khi hiểu  rõ Ái Thủ Hữu trong Thập Nhị nhân duyên , các bạn nhé! 


Theo đó : 

1- Vị Trưởng Giả sau khi có cơ duyên chiêm ngưỡng, đảnh lễ, được sự chỉ dạy của Sư Tử Phấn Tấn Cụ Túc Vạn Hạnh Như Lai.

Đã phát đại nguyện :

"Từ nay tới tận đời vị lai, tôi vì những chúng sinh tội khổ trong sáu đạo mà giảng bày nhiều phương tiện làm cho chúng sinh giải thoát hết cả, rồi tự thân tôi mới chứng thành Phật quả."

2- Người nữ dòng Bà La Môn nhiều phúc đức uy lực nhưng có mẹ không tin nhân quả, đã được Giác Hoa Định Tự Tại Vương Như Lai độ thoát cho mẹ nên cô đã phát đại nguyện trước Phật như sau : 

"Tôi nguyện từ nay nhẫn đến đời vị lai những chúng sinh mắc phải tội khổ, thì tôi lập nhiều phương chước làm cho chúng đó đều được giải thoát."

3- Vị Vua Từ bi thương dân vào Thủa đức Nhất Thiết Trí Thành Tựu Như Lai

"Như Tôi chẳng trước độ những kẻ tội khổ được an vi đắc quả Bồ Đề, thời Tôi nguyện chưa chịu thành Phật." 

4- Thiếu nữ Quang Mục vào Thời đức Liên Hoa Mục Như Lai  

Đã phát đại nguyện như sau : "Từ nay nhẫn đến về sau trăm nghìn muôn ức kiếp, trong những thế giới nào mà chúng sinh chịu tội khổ nơi địa ngục cùng ba đường ác đạo, Tôi nguyện cứu vớt chúng sinh đó làm cho tất cả đều thoát khỏi chốn Địa Ngục, Ngạ Quỷ, Súc Sinh... những kẻ mặc tội báo như vậy thành Phật cả rồi, sau Tôi mới thành bậc Chính Giác."

5- Hoàng Tử Kim Kiều Giác (Kim Kyo Gak)

Địa Tạng Bồ Tát đầu thai làm hoàng tử nước Tân La (Triều Tiên ngày nay), sinh vào thời kì Võ Tắc Thiên (cuối năm Đường Khai Nguyên, tức năm 719, Trung Quốc), tên là Kim Kiều Giác, xuất gia từ nhỏ. Vì nghe danh của ngài Huyền Trang nên quyết định đến Trung Quốc vào thời Đường Huyền Tông, lên Cửu Hoa sơn tu hành, sau đó xây chùa thu nạp nhiều tín đồ, biến Cửu Hoa Sơn thành một thắng địa Phật giáo cực thịnh đương thời. Năm 99 tuổi, bỗng nghe một tiếng gọi mơ hồ thì biết mình sắp chết liền gọi đệ tử đến dặn dò, rồi ngồi vào trong chum mà viên tịch. Ba năm sau, mở nắp chum ra để an táng, thấy da thịt vẫn còn nguyên, sắc diện như khi còn sống, khi nhấc ra thì các khớp xương dao động thành tiếng lách cách. Phật giáo bảo đó là Bồ Tát truyền thế bèn đem thi thể đặt vào trong tháp, gọi tháp là Địa Tạng Nhục Thân tháp. Nhục Thân tháp còn gọi là Nhục Thân Bảo điện, tọa lạc tại đỉnh Thần Quang.

Và cũng từ kinh Địa Tạng bổn nguyện ta cũng có thể hưởng  được những lợi ích như sau từ cuộc sống hiện tại:

  1. Những nguyện lớn mau chóng thành tựu.
  2. Được trí huệ lớn.
  3. Tiêu Trừ Tai Nạn.
  4. Thoát Khỏi Hiểm Nguy.
  5. Tiêu Trừ Tội Chướng, Bệnh Tật.
  6. Được quỷ thần hộ vệ.

Và  cho kiếp sau:

  1. Thoát Khỏi Thân Nữ.
  2. Được Thân Xinh Đẹp.
  3. Thoát Kiếp Nô Lệ.

Hoặc 

Lợi ích lúc lâm chung:



  1. Khi người thân sắp mất, chúng ta có thể niệm danh hiệu bồ tát hoặc tụng kinh Địa Tạng, làm nhiều việc thiện cho người đó.
  2. Trong giai đoạn 49 ngày sau khi mất, việc Tụng Kinh Địa Tạng cho vong linh quá cố có thể giúp họ được siêu thoát.



Lợi ích với người đã quá vãng 

  1. Siêu Độ vong linh: trong giấc ngủ nếu gặp ma quỷ, người lạ, các sự quái ác... chúng ta có thể chí tâm tụng kinh Địa Tạng.
  2. Siêu độ, gặp lại người thân quá vãng.



Thật ra những lợi ích này đều đến từ Nhân Quả và nghiệp báo qua ý thức của ta trên Thân Khẩu Ý và nhất là cái Tâm Địa của mình ..



Bạn gửi Email, 

 Rằng: “vẫn mơ hồ giữa thương và ghét “

Bạn ơi ! 

Chính lòng tham ái tạo ra ghét,với thương 

Dính mắc rồi khó nói chuyện nhân nghĩa

Hãy  nhìn lại  biết vì sao nghiêng phía 

Mong  với ) cầu ....Thủ Hữu  khó bình yên ! 

( thơ HH 



Nhân được đọc bài giảng    ( trích đoạn từ Thiền Sư Zaw Ti Ka Giảng tại Parami Dhamma Centre ngày 24/6/2018) kính xin mời quý đạo hữu cùng xem tiến trình Nhân Quả trong vòng xoáy của Lý Duyên Khởi này trong thiền tập cũng như trong mọi sinh hoạt hằng ngày để có sự kiên nhẫn, biết quan sát các cảm thọ và không để mình trôi lăn theo chuổi phản ứng của Luân hồi.

Ngài  cho rằng  nếu có chánh niệm và quan sát kỹ thì sẽ thấy những diễn biến nói trên chỉ là CHUỖI PHẢN ỨNG Tâm Sinh Lý bắt đầu từ lúc có sự XÚC, rồi sinh ra THỌ. Vì có Thọ nên sinh ra thích /ghét (THAM ÁI). Do có dính mắc Thích /Ghét (THỦ) đó làm cho cái Tâm luôn muốn hành động (Nghiệp HỮU). Chuỗi phản ứng này cứ tiếp diễn liên tục mỗi khi có Xúc ở 6 căn, và không có ai điều khiển cả.



Riêng Sư Phụ tôi ( Hoà Thượng Thiền Sư Viên Minh ) đã dạy 

Trong Tứ Diệu Đế, thập nhị nhân duyên sinh chính là tập đế, khổ đế. Thập nhị nhân duyên diệt chính là đạo đế, diệt đế. Vậy Thập nhị nhân duyên chỉ là cách nói khác của Tứ Diệu Đế, chứ không phải như người ta thường hiểu lầm Tứ diệu đế là pháp môn tu của Thanh Văn và Thập nhị nhân duyên là pháp môn tu của Duyên Giác. Chỉ vì trùng nhau chữ duyên mà người ta liên tưởng một cách sai lầm. Trên thực tế, Phật Thanh văn, Duyên giác hay Toàn giác cũng đều phải giác ngộ Tứ Diệu Đế mà trong đó đã bao hàm mười hai nhân duyên sinh và diệt.

Có hai cách hiểu thập nhị nhân duyên sinh:

- Một là hiểu như vòng luân hồi sinh tử  trong ba đời  (kiếp sống) quá khứ, hiện tại, vị lai.

- Hai là hiểu như tiến trình tâm-sinh-vật lý được điều động bởi vô minh, ái dục trong ba thời (thời gian) quá khứ, hiện tại, vị lai.

  Bây giờ chúng ta sẽ lần lượt trình bày hai ý nghĩa trên của Thập nhị nhân duyên:


Trước tiên Thập nhị nhân duyên mô tả diễn biến của vòng luân hồi sinh tử trong ba đời:

Trong những kiếp quá khứ, do vô minh tức thiếu sáng suốt, không thấy sự that, chúng ta đã tạo các hành tức hạnh nghiệp, rồi thác sinh vào những cảnh giới tương ứng trong hiện tại. Kiếp sống quá khứ chấm dứt với tử tâm (cuti).

Sau đó thức tái sanh, tức là kiết sinh thức (paṭisandhi-viññāṇa) khởi lên nối liền với kiếp sống hiện tại.

Thức này còn gọi là hương ấm thuộc về danh (tâm), kết hợp với tinh cha huyết mẹ thuộc về sắc (thân), tạo thành sự sống của cái phôi gồm đủ hai yếu tố danh và sắc nên gọi là danh sắc.

Dần dần cái phôi lớn lên, sắc hình thành mắt, tai, mũi, lưỡi, thân gọi là ngũ căn, và danh hình thành từ thức gọi là ý căn. Năm căn hoà hợp với ý căn tạo thành tác dụng của lục nhập, tức là sáu cơ quan tiếp nhận đối tượng của chúng.

Khi hình thành một thai nhi đủ điều kiện ra khỏi bụng mẹ, hài nhi ra đời và lục căn bắt đầu tiếp xúcvới lục trần. Tức là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý tiếp xúc với sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp.

Sự tiếp xúc giữa căn trần vừa xảy ra thì liền có thọ, tức là những cảm giác khổ, lạc, xả, hỷ và ưu. Nói đến xúc tức là đã bao hàm các thức, vì vậy ở đây:

-    Nhãn thức thọ xả.

-    Nhĩ thức thọ xả.

-    Tỷ thức thọ xả.

-    Thiệt thức thọ xả.

-    Thân thức thọ khổ và lạc.

-    Ý thức thọ hỷ, ưu và xả.


Đã có khổ, lạc, xả, hỷ… thì liền có ưa, ghét khởi lên. Đó là ái. Ở đây ái chính là dục ái, hữu ái, phi hữu ái (đến đây mới có ưu) hoặc dục ái, sắc ái, vô sắc ái như chúng ta đã nói trước đây.

           Khi đã có ưa, ghét (ái) thì ưa sinh đam mê, ghét sinh hiềm hận. Sự nắm giữ, duy trì ái như vậy gọi là thủ. Nói rõ hơn, thủ có 4 loại:

          - Dục thủ là nắm bắt lục dục.

          - Kiến thủ là chấp giữ quan niệm.

          - Giới cấm thủ là chấp giữ hình thức, nghi lễ.

          - Ngã luận thủ là chấp giữ quan niệm bản ngã, linh hồn.

          Do chấp thủ tư kiến, tư dục, hình thức và bản ngã mà chúng ta tạo nghiệp. Đó chính là hữu. Hữu tức là tạo tác để trở thành (bhava, becoming), có nghĩa là tạo nghiệp bất thiện, thiện và bất động.

          Ái có dục ái, sắc ái, vô sắc ái nên hữu (nghiệp) cũng có dục hữu, sắc hữu, vô sắc hữu, nghĩa là tạo nghiệp để tái sinh trong tương lai ở ba cõi sáu đường.

            - Nghiệp bất thiện thì tương lai tái sinh trong bốn đường khổ: địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ, a-tu-la.

            - Nghiệp vừa thiện vừa bất thiện thì tương lai tái sinh vào cõi người.

            - Nghiệp thiện thì tương lai tái sinh trong các cõi trời dục giới như Tứ đại thiên vương, Đao lợi, Dạ-ma, Đâu-suất, Hoá lạc thiên, Tha hoá tự tại thiên.

            - Nghiệp bất động thì tương lai tái sinh trong các cõi sắc giới, vô sắc giới, tuỳ theo khả năng thiền định của mỗi người.

          Khi đã tái sinh thì lại tạo nghiệp và đưa đến lão tử (già chết), cứ thế sinh sinh tử tử trong vòng luân hồi lẩn quẩn triền miên.

          Tóm lại, từ vô minh đến ái dục, từ tạo nghiệp đến gặt quả, từ tái sinh đến già chết, đó là những gì được mô tả rõ ràng qua các yếu tố điều kiện phát sinh trong vòng luân hồi của thập nhị nhân duyên.( trích trong Thúc Tại Hiện Tiền ) 

          Như vậy 

Luân hồi do tâm tạo

Không tạo: Tâm Bất Sinh

Báo thân tuy nhập diệt

Pháp thân còn hiển minh.

( HT Viên Minh )

Hãy trở về  kinh Địa Tạng Bổn Nguyện với yếu nghĩa viên dung của hai chữ Địa Tạng vương Bồ tát 

Địa Tạng Vương Bồ tát là một trong 6 vị bồ tát quan trọng của Phật giáo Đại thừa. 5 vị còn lại là các Quán Thế Âm Bồ tát, Đại Thế Chí Bồ tát, Văn Thù Sư Lợi Bồ tát, Phổ Hiền Bồ tát và Di Lặc Bồ tát.

Địa Tạng Vương Bồ Tát là một vị Bồ Tát đại từ đại bi thệ nguyện độ thế rất rộng lớn. Ngài là giáo chủ của cõi U Minh. Địa là đất. Tạng là trùm chứa. Bồ Tát có lập đại nguyện tế độ tất cả chúng sinh cũng như đất là nơi nương tựa cho muôn sự muôn vật nên gọi là Địa. Cũng có người lý giải nghĩa của chữ “Địa” nương theo Kinh Địa Tạng có viết: “U Minh Giáo Chủ Bổn Tôn Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát”. Vì cách sử dụng từ ngữ trong kinh điển hết sức sát nghĩa và rõ ràng nên “Bổn” là Bổn tâm, “Tôn” là tôn quý, “Địa” là tâm địa, “Tạng” là Như Lai tạng. Như vậy, chỉ có Bổn tâm mới là tôn quý nhất, đó là kho Như Lai tạng tâm địa. Chỉ có Bổn tâm mới làm chủ được cõi u minh, tức là làm chủ cõi địa ngục tham – sân – si của chính mình.

Và cách để làm chủ cõi địa ngục  này là cố gắng diệt chuỗi thập nhị nhân duyên từ Vô Minh ( trích đoạn thập nhị nhân duyên - tác giả HT Viên Minh) 

Giả sử chúng ta đang ngồi đây hay đi lui đi tới như thế này trong tình trạng hoàn toàn tỉnh thức, hoàn toàn sáng suốt, không mê muội, và hoàn toàn tĩnh tại, nghĩa là không bị vô minh và hành chi phối. Nếu bây giờ có một đối tượng khởi sinh, chẳng hạn như tai nghe một âm thanh hay mắt thấy một hình sắc, nhờ ở trong trình trạng tự chủ, ổn định (tịnh) và sáng suốt, tỉnh thức (minh) nên thức, danh sắc, lục nhập, xúc và thọ đều được soi sáng trong định tuệ. Khi cảm giác và tri giác trong sáng, chính xác, không bị ảo giác, ảo tưởng xen vào thì hành động sẽ không bị chi phối bởi ái, thủ, hữu nữa, và vì vậy sẽ không còn nhân tạo tác sinh - lão - tử trong tương lai, nghĩa là toàn bộ chuỗi sinh tử hay vòng luân hồi chấm dứt.

Vậy thập nhị nhân duyên diệt vừa có nghĩa là chấm dứt vòng luân hồi sinh tử trong ba đời,mà cũng có nghĩa là chấm dứt sinh tử luân hồi ngay khi sự sống đang vận hành, vì luân hồi sinh tử chỉ là ảo ảnh đối với sự sống đích thực. Nói cho dễ hiểu là ngay khi chúng ta đang nói năng, hành động, suy nghĩ mà vẫn hoàn toàn sáng suốt, định tĩnh, trong lành thì chúng ta đang thoát khỏi sự trói buộc của vòng sinh tử luân hồi do vô minh ái dục sinh sử. 

Đây chỉ là những ý nghĩ thô thiển đến từ những cơn đau nhức hành hạ từ xương và khớp mà chạnh lòng nghĩ tới nghiệp quả nhiều đời 

Nhân ngày vía thành đạo của Địa Tạng Vương Bồ Tát kính xin chia sẻ và nhớ về sự điều phục cái Tâm mình và nguyện sẽ chuyển hoá để không sa vào địa ngục 

Chắc các bạn cũng đồng ý như thế, 

Trân trọng 

Huệ Hương 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
28/07/2016(Xem: 4225)
Ở Việt Nam khi nói đến mùa mưa bão, người ta thường nghĩ đến khúc ruột miền Trung thường nhiều hơn. Thế nhưng, từ khi thành phố Đà Nẵng dựng tôn tượng lớn Bồ Tát Quán Thế Âm thì những cơn bảo lớn nguy hiểm ít đi vào vùng đất nầy, có khi đi gần vào đến bờ thì chuyển hướng ra Bắc hoặc vào Nam rồi bão tan. Không p
07/06/2016(Xem: 9026)
Nam Mô Bồ Tát Thường Lắng Nghe, Quán Thế Âm có nghĩa là lắng nghe một cách sâu sắc, trọn vẹn những âm thanh, tiếng nói của cuộc sống, cuộc đời. Chữ Quán ở đây hàm nghĩa lắng nghe trong sự hiểu biết cộng với sự quan sát sâu sắc của lòng yêu thương từ ái. Bồ Tát Quan Thế Âm là vị Bồ Tát đã được người đời nghĩ tới và niệm danh hiệu của Ngài vì Ngài đã nguyện luôn lắng nghe tiếng kêu thương của cuộc đời. Không chỉ
09/04/2016(Xem: 15418)
Đôi lời về Xá Lợi Phật_Lạt Ma Zopa Rinpoche_Hồng Như dịch, Bảo Tháp thờ Xá Phật còn sót lại ở Thành Tỳ Xá Ly, Ấn Độ (hình phái đoàn hành hương Phật tích Ấn Độ của Tu Viện Quảng Đức tháng 11-2006)
21/03/2016(Xem: 4572)
Ở đây chúng ta cũng nên định nghĩa về hai chữ "tình yêu" (Liebe) và "tình thương" (Barmherzigkeit) nó khác nhau hay giống nhau ở điểm nào? Khi người ta nói đến tình yêu, tức giới hạn giữa con người và con người như nam và nữ yêu nhau hay giữa con người và động vật cũng như cảnh vật chung quanh mình. Tình yêu luôn có sự chấp ngã và hay bi lụy về đối tượng mình đang yêu, nhưng khi không được yêu và tự ngã của người nam hay người nữ bị tổn thương thì tình yêu ấy không còn là tình yêu nữa, mà đôi khi còn trở nên thù hận với nhau. Khi người nam yêu người nữ có nghĩa là người đàn ông ấy muốn chiếm hữu riêng người đàn bà kia về cho mình, còn khuynh hướng của người nữ là khuynh hướng nương tựa, nếu đối tượng là người nam mà giới nữ không còn nương tựa được nữa thì tình yêu ấy trở nên xa cách và nguội lạnh dần, không mặn nồng như thuở ban đầu nữa.
09/09/2015(Xem: 8830)
Như cố thi hào Nguyễn Du đã nói: “Đã mang lấy nghiệp vào thân, Đừng nên trách lẫn trời gần, trời xa”. Nghiệp như cái bóng theo hình, một ngày chưa chứng thánh quả A La Hán thì cho dù trên trời, dưới đất, trong hư không nó đều bám theo. Nghiệp quả thật ghê gớm. Mỗi người mỗi nghiệp khác nhau, muôn hình vạn trạng, có nặng có nhẹ mà chỉ chư Phật mới thấu rõ hết về chúng. Nếu quý vị muốn biết thì nên đọc qua Thủy Sám Pháp Văn hay Kinh Địa Tạng… thì cũng sẽ thấu hiểu được phần nào.
12/07/2015(Xem: 9629)
Quan Thế Âm Bồ Tát Tầm Thinh Cứu Khổ Phổ Môn Thị Hiện Đồ. Bản dịch của Viên Huệ Dương Chiêu Anh
03/04/2015(Xem: 14956)
Phổ Hiền thập đại nguyện hạnh là nội dung hạt nhân trong việc tin ngưỡng và tu trì của Bồ Tát Phổ Hiền, xuất phát từ Phẩm Phổ Hiền Bồ Tát Hạnh Nguyện trong Kinh Hoa Nghiêm. Phật Giáo Hán truyền coi Bồ Tát Phổ Hiền là biểu tượng cho đại hạnh thực tiễn, cùng với Bồ Tát Quán Âm (biểu tượng cho Từ Bi), Bồ Tát Văn Thù (biểu tượng cho trí tuệ), Bồ Tát Địa Tạng (biểu tượng cho thệ nguyện); cùng hình thành nên nội hàm tín ngưỡng và tinh thần tiêu biểu của bốn tâm hạnh Bi-Trí-Nguyện-Hạnh của Phật Giáo Đại Thừa.
21/01/2015(Xem: 7183)
Phía Tây của Long thành, phía Nam của Tản sơn, thẳng ra ngoài cõi Ai Lao, Xiêm La, có một nơi gọi là Hương Tích Sơn, nằm giữa Bắc kỳ, Nam hải, nơi ấy là động thiên bậc nhất vậy. Núi thì đặc thù, nước thì tú lệ, cảnh trần tịch tĩnh, nơi cầu tự cầu tài, chốn chữa bệnh trừ tai. Mỗi năm Xuân về, không dưới ba vạn người, có người ở gần về dự, có người ở xa ngàn muôn dặm cũng đến. Tiếng linh diệu lớn lao, rung động mắt tai người, rõ ràng là “thần quyền thời đại”, thật lạ thường thay. Ngoài núi non và con người, Hương sơn mà xa cách một ngày như ép buộc đi đến trần cương; ba mươi năm qua trọn chẳng đến một lần, nỗi buồn nào như đây; ngày nay năm mươi sáu tuổi vẫn còn viện cớ. Sức thuyền từ một phen đưa chuyển, kết quả có thể xuyên qua, đến nước lên non, niềm vui có thể nhận biết.
21/01/2015(Xem: 8714)
1. Chân như đạo Phật rất mầu Tâm trung chữ Hiếu niệm đầu chữ Nhân, Hiếu là độ được song thân Nhân là cứu độ trầm luân muôn loài. 5. Thần thông nghìn mắt nghìn tay Cũng trong một điểm linh đài hóa ra,
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567