Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Có Thể Tu Theo Ngài Phổ Hiền Được Không?

30/03/201908:02(Xem: 6683)
Có Thể Tu Theo Ngài Phổ Hiền Được Không?

Bo Tat Pho Hien 4
Có Thể Tu Theo Ngài Phổ Hiền Được Không?

Trong pháp hội Hoa Nghiêm, ngài Phổ Hiền Bồ Tát sau khi khen ngợi công đức thù thắng của Phật đã nói với đại chúng rằng muốn trọn nên công đức như Phật thì phải tu mười điều rộng lớn như sau:

Một là lễ kính các đức Phật.
Hai là khen ngợi các đức Như Lai.
Ba là rộng sắm đồ cúng dường.
Bốn là sám hối các nghiệp chướng.
Năm là tùy hỷ các công đức.
Sáu là thỉnh đức Phật thuyết pháp.
Bảy là thỉnh đức Phật ở lại đời.
Tám là thường học đòi theo Phật.
Chín là hằng thuận lợi ích chúng sanh.
Mười là hồi hướng khắp tất cả.

Sau đó nhờ sự thưa hỏi của Thiện Tài Đồng Tử- một vị bồ tát sơ địa, ngài Phổ Hiền đã giảng giải thêm về 10 hạnh nguyện này.
Trong mỗi khóa lễ, chư tăng/ni đều đọc tụng mười hạnh nguyện. Đọc tụng để làm gì? Đọc như một nghi thức hành lễ, đọc xong rồi quên, rồi bỏ đó, rồi ngày mai lại đọc tiếp? Hay đọc để cho thấm vào máu, vào tim để tu theo? Ngày nay Đức Phật không còn nữa cho nên một số điều không còn thực hiện được, như:

- Lễ kính các đức Phật.
-Rộng sắm đồ cúng dường.
-Thỉnh Phật thuyết pháp.
-Thỉnh Phật trụ thế, khoan nhập Niết Bàn.

Vậy chúng ta phải hiểu như thế nào và tu như thế nào nếu muốn tu theo đại hạnh nguyện của ngài Phổ Hiền?

1) Lễ kính các đức Phật.
Ngày nay Phật không còn nữa cho nên chúng ta kính lễ ai? Chúng ta đảnh lễ tượng Phật. Chúng ta đảnh lễ các tháp miếu thờ Phật. Chúng ta đảnh lễ các di tích mà Phật đã sinh sống, đã đi qua, đã hành đạo hay khi Phật nhập Niết Bàn, đảnh lễ xá lợi Phật.
Chúng ta còn đảnh lễ tất cả các vị hiền-thánh đã tu theo Phật, các thiện tri thức đang hoằng dương chánh pháp.
Chúng ta còn đảnh lễ tất cả những ai có hạnh từ bi, có lòng khoan dung, có ý thiện lành, có tâm bố thí, có hạnh nhẫn nhục. Đảnh lễ những đức tính cao quý này chính là đảnh lễ chư Phật vậy.
Nhưng khi đảnh lễ, theo ngài Phổ Hiền, chúng ta phải nguyện thanh thịnh ba nghiệp Thân-Khẩu-Ý chứ không phải đảnh lễ khơi khơi cho có lệ.

2) Khen ngợi các đức Như Lai.
Theo kinh điển, trong tất cả các pháp hội, trước khi trình bày trước đại chúng, các hàng đại bồ tát, đại sĩ, thiện tri thức đều khen ngợi các đấng Như Lai. Như vậy, khởi đầu các buổi thuyết pháp, thay vì đi ngay vào đề tài, chúng ta nên nói lời tán Phật giống như Đức Phật còn tại thế.

3) Rộng sắm đồ cúng dường.
Ngày nay Phật không còn nữa chúng ta cúng dường ai? Chúng ta cúng dường chư tăng/ni để chư tăng/ni có phương tiện sinh sống và tu học. Tuy nhiên chúng ta phải nhớ rằng chư tăng/ni không phải là Phật mà chỉ là đệ tử của Phật còn đang tu học, cho nên chúng ta chỉ cúng dường cho những ai giới hạnh trang nghiêm. Tuyệt đối không cúng dường cho những ai hành tà đạo, xa lìa giới luật và sống đời phóng dật.
Tuy nhiên cúng dường chúng sinh là quan trọng nhất. Chúng ta có rất nhiều cách cúng dường chúng sinh như: Mở trường học, xây nhà thương, giúp đỡ học sinh nghèo, cưu mang trẻ mồ côi, giúp người cô đơn bạc phước, xây cầu, tặng nhà tình nghĩa, cơm chay miễn phí, an ủi người khi hoạn nạn…đều là những hành vi cao quý. Đức Phật dạy rằng hằng thuận vì lợi ích chúng sinh là cúng dường chư Phật.

4) Sám hối các nghiệp chướng.
Chỉ có bậc tri thức, kẻ thiện lương mới thấy mình lỗi lầm. Kẻ hung ác không bao giờ thấy mình sai trái. Sám hối để lương tâm thanh thản và nhắc nhở chúng ta sẽ không còn làm chuyện xấu nữa. Sám hối là một phương thuật để tu hành.
Chúng ta cần sám hối từ lúc chào đời, từ thuở ấu thơ đã làm cho cha mẹ buồn phiền.
Rồi khi cắp sách đến trường chúng ta gây bao ai oán cho thầy/cô.
Rồi khi vào đời chúng ta tạo bao đau khổ cho bạn bè và anh chị.
Chúng ta cần phải sám hối xem trong cuộc đời chúng ta có bao giờ nói lời hung dữ, nói lời lừa dối, nói lời đâm thọc, nói lời vu oan giá họa?
Chúng ta cũng cần phải xét xem chúng ta có hạ nhục ai một cách quá đáng không?
Là người có quyền thế chúng ta đã gây khổ đau nào cho xã hội?
Là nhân viên thi hành luật pháp chúng ta có bao che cho tội phạm, các sòng bài, các ổ mãi dâm các tổ chức buôn bán ma túy khiến gây đảo điên, bất công và băng hoại xã hội?
Là thương gia, nhà sản xuất chúng ta có lường đảo khách hàng, chế đồ dỏm, bơm hóa chất vào đồ ăn khiến bao người mắc bệnh nan y không thuốc chữa?
Chúng ta cần phải sám hối xem chúng ta có trốn thuế, qua mặt chính quyền, hối lộ để làm ung thối quốc gia?
Là quan tòa xét xử chúng ta có bất công khiến bao người bị hàm oan, kẻ có tội lại được tha, kẻ thật thà lại lãnh án?
Là nhà tu hành chúng ta phải xét xem chúng ta có lừa đảo tín đồ không?
Chúng ta còn phải sám hối với bao loài vật mà chúng ta đã giết hại. Chúng ta sát hại chúng không phải vì đói mà vì thú vui săn bắn, nhậu nhẹt khoái khẩu hay chỉ vì tính hung ác.
Chúng ta cũng cần phải sám hối vì đã tàn phá bao loài cây cỏ, núi rừng khiến gây cảnh lụt lội, bão tố, cuồng phong, đất đai sụp lở.
Chúng ta không những sám hối với người sống mà cả những người đã chết.
Chúng ta cần phải sám hối tới ngọn ngành. Sám hối ngày đêm cho đến khi không còn gì để sám hối nữa. Như thế mới gọi là sám hối nghiệp chướng.

5) Tùy hỷ công đức.
Chúng ta phải thấy rằng làm thiện nguyện giúp đời là niềm vui. Làm thiện nguyện là nuôi dưỡng tâm lành là nâng cao phẩm  giá. Một đất nước sẽ hùng mạnh nếu có nhiều người tham gia thiện nguyện. Một siêu cường hay đế quốc cũng sẽ xụp đổ nếu con người chỉ biết ích kỷ, sống cho mình.
Bảo nhau làm sạch đường phố là tùy hỷ công đức.
Bảo nhau dọn vệ sinh các bãi rác, biển hồ sông suối, cho công viên khang trang sạch sẽ là tùy hỷ công đức.
Bảo vệ môi trường là tùy hỷ công đức.
Bảo vệ loài tôm cá, bảo vệ rừng để cân bằng sinh thái là tùy hỷ công đức.
Tới chùa làm công quả, dọn dẹp vệ sinh, giữ gìn an ninh trật tự cho các buổi lễ lớn là tùy hỷ công đức.
Của ít lòng nhiều, không cứ là bao nhiêu đem cúng chùa là tùy hỷ công đức. Công đức không tùy thuộc khối lượng khổng lồ mà là sự tăng trưởng tâm lành ngay trong chính con người mình.

6) Thỉnh Phật thuyết pháp.
Ngày nay Phật không còn nữa cho nên chúng ta phải khuyến khích và kính trọng các đạo sư giảng pháp. Khi pháp Phật lan truyền thì đạo còn và Phật vẫn còn ở với chúng ta. Khi Phật pháp suy tàn, không còn ai nhắc nhở tới nữa thì đạo diệt và Phật cũng không còn.
Thế nhưng chúng ta phải biết phân biệt thế nào là tà sư thế nào là đạo sư. Có năm tiêu chuẩn để thẩm định điều người đang nói, đang giảng là chánh pháp. Giảng sư dù có nói gì đi nữa thì nó phải nằm trong Ngũ Pháp Ấn, đó là: Khổ, Vô Thường, Nhân-Quả, Tánh Không và Niết Bàn. Ví dụ, một người trổ hết tài hùng biện nhưng chỉ nói về phép mầu, Thiên Đàng, Địa Ngục, ban phúc, giáng họa, chỉ tập trung vào cầu nguyện van vái mà không có pháp tu chứng trên bản thân mình... không hề nói tới Khổ Đế, Tập Đế, Diệt Đế và Đạo Đế thì chắc chắn đó là tu sĩ ngoại đạo, không phải đạo sư, không phải là đệ tử của Phật.

7) Thỉnh Phật trụ thế.
Bây giờ Đức Phật đã nhập niết bàn hơn 2000 năm, làm sao thỉnh Phật ở mãi với chúng ta? Thế nhưng muốn Phật vẫn còn ở mãi với chúng ta, có hai cách:
-Hoằng dương chánh pháp. Chúng ta phải làm thế nào để khắp nơi được biết về đạo Phật, hiểu về đạo Phật rồi tu theo Phật.
-Mỗi tăng/ni phải là hình ảnh sống động của Phật. Nếu tăng/ni hư đốn. Thuyết pháp thì nói toàn chuyện trên trời dưới biển mà tham-sân-si vẫn còn, đạo hạnh không có, vướng mắc vào những xấu xa của thế tục…thì đạo suy tàn và Phật cũng chẳng còn ai nhắc nhở tới nữa. Hiện nay có thể Đức Đạt Lai Lạt Ma là hình ảnh tiêu biểu của Phật Giáo, một đại đệ tử của Phật hoàn hảo về hai phương diện Từ Bi và Trí Tuệ. Khi nào thấy tăng/ni mà như thấy Phật thì đạo hưng thịnh và Phật vẫn còn ở với chúng ta. Khi nào thấy tăng/ni mà xa lánh thì đạo diệt.

8) Thường học đòi theo Phật.
Thường học đòi theo Phật là thể hiện những gì Phật dạy nơi chính bản thân mình chứ không phải tối ngày tụng niệm những gì Phật dạy. Đạo Phật không phải là đạo để thuyết giảng, không phải đạo của nghi thức thờ phượng, mà phải thể hiện ngay trên bản thân mình. Sự chứng đắc được hiển lộ qua lời ăn, tiếng nói, cách đi đứng nằm ngồi, cách cư xử, cách hành động lúc nào cũng an nhiên, tự tại, uy nghiêm nhưng từ bi, sống ở trên đời, làm việc đời việc đạo nhưng không vướng mắc chuyện đời. Như thế mới là học đòi theo Phật.

9) Hằng thuận lợi ích chúng sanh
Chúng sinh từ vô thủy đã sống trong tham-dục. Hàng bồ tát tu theo Phật phải nương theo tham-dục của chúng sinh để giáo hóa chúng sinh. Chúng sinh có thể chỉ đến chùa cầu tài, cầu lộc. Nhưng bồ tát nương theo đó mà giảng về lòng tham và thế nào là tu phước. Chúng sinh có thể đến chùa để xin dâng sao giải hạn nhưng bồ tát nương theo đó mà giảng về nghiệp báo và nhân quả. Chúng sinh có thể đến chùa vì khủng hoảng tinh thần, bồ tát nhân đó mà giảng về hạnh vô úy. Chúng sinh đến chùa xin làm lễ thành hôn (hằng thuận), dù biết rằng ái dục là cội nguồn của khổ đau và sinh tử tương tục nhưng bồ tát nhân đó giảng về đạo vợ chồng và hiếu đạo. Chúng sinh có thể đến chùa nói rằng, “Con bị ma nhập, quỷ ám”. Bồ tát có thể tụng cho nạn nhân một thời kinh rồi khuyên nạn nhân về nhà tập thể dục, ăn chay, tụng kinh sám hối, niệm Phật. Nếu có thể thực hành Thiền Quán cho tình thần trở nên sáng suốt dũng mãnh…hy vọng có thể qua khỏi. 
            Nói tóm lại, người tu hành theo Phật vừa lấy cứu cánh là giải thoát bản thân nhưng cũng lấy mục tiêu giúp đời. Do đó những gì lợi lạc, an vui cho chúng sinh thì bồ tát nguyện làm. Như thế mới gọi là hằng thuận lợi ích chúng sinh.

10) Hồi hướng khắp tất cả.
Hồi hướng về khắp tất cả là chuyển sự thành công của mình với lòng biết ơn tới tất cả mọi người.
-Lãnh đạo thành công tuyệt đỉnh nhưng phải hiểu đó là sự hy sinh, nỗ lực của cả quốc gia dân tộc mà mình chỉ là người dẫn dắt.
-Vị nguyên soái có chiến thắng lẫy lừng nhưng phải hiểu thành công đó có được là do sự hy sinh xương máu của bao chiến sĩ và sự đóng góp của toàn dân ở hậu phương.
-Một tỷ phú thành công trên thương trường là do công sức của bao nhân viên và tiền bạc của người tiêu thụ.
-Một đứa con thành công trên đời là do công ơn giáo dục của cha mẹ và thầy cô.
-Một nhà văn nổi tiếng là nhờ độc giả. Truyện Kiều mai đây không được dạy trong văn học sử, không còn ai đọc nó nữa thì Truyện Kiều cũng đi vào quên lãng.
            Hồi hướng về khắp tất cả là xả bỏ cái Ngã, là khiêm tốn, là chia xẻ niềm vui với tất cả mọi người. Nói cho cùng ra,  trên cõi đời vô thường này, chẳng có gì là của mình. Hồi hướng về khắp tất cả là một hạnh hy hữu và vô cùng cao thượng của Phật Giáo.

Tạm Kết Luận:
Đối với kẻ ngoại đạo hay người không hiểu, thì đạo Phật chỉ là một đạo rất tầm thường, yếm thế. Kinh qua lịch sử, đạo Phật không có một đế chế, không có đạo quân chinh phạt, không có chiến thắng… để khiến nhân loại phải khiếp sợ. Mà sự sợ hãi (khủng bố) lại là một nhân tố rất quan trọng để tin theo một tôn giáo, nhất là tôn giáo thờ thần. Trong khi đó, đệ tử của Phật thì tương chao dưa muối, cho gì ăn nấy, không rượu thịt, chân đi đất, quần áo thì chỉ là thứ y phục của dân nghèo, phẩm phục không sa hoa, lộng lẫy.

Thế nhưng khi nghiên cứu và tìm hiểu về nó thì đạo Phật là một đạo vĩ đại. Đạo Phật là đạo của Trí Tuệ và Từ Bi. Nó hoàn toàn nhân bản, thực tiễn, không lấy phép mầu của thần linh để làm nền tảng chiêu dụ tín đồ. Tính nhân ái của đạo Phật và hàng đệ tử của Phật bao trùm cả thế giới, không chỉ xót thương loài người và còn cả núi rừng, cây cỏ và thú vật. Đó là một đạo hy hữu của thế gian này.

Theo như hạnh nguyện của ngài Phổ Hiền, người tu hành không thể thành Phật thành bồ tát, không thể chứng quả nếu không phát nguyện đời đời, kiếp kiếp làm lợi lạc cho chúng sinh, coi chúng sinh như cha mẹ mình. Vậy thì hạnh nguyện của ngài Phổ Hiền rất phù hợp với thời đại ngày hôm nay. Do đó, ngoài hàng ngũ xuất gia, hàng cư sĩ và Phật tử tại gia vẫn có thể tu theo hạnh nguyện Phổ Hiền.

Đọc tụng mỗi ngày và tùy duyên, tùy hoàn cảnh mà làm bất cứ việc gì, dù nhỏ bé mà lợi lạc cho đời là tu theo ngài Phổ Hiền. Thế giới này sẽ trở thành Cực Lạc nếu mỗi ngày, mỗi lúc, mỗi nơi có thêm một ngài Phổ Hiền Bồ Tát.
Xin kính lạy ngài Phổ Hiền và tất cả các ngài Phổ Hiền của ngày mai.

Thiện Quả Đào Văn Bình
(California ngày 28/3/2019)
 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
31/03/2011(Xem: 6305)
Ngài Đại Thế Chí Pháp Vương Tử cùng với 52 vịBồ-tát đồng tu một pháp môn cùng đứng dậy cung kính chấp tay bạch Phật : - Tôi nhớ hằng sa kiếp trước có Đức Phật ra đờihiệu Vô Lượng Quang
20/03/2011(Xem: 11161)
Trong các vị cao tăng Trung Hoa, ngài Huyền Trang là người có công nghiệp rất lớn, đã đi khắp các nơi viếng Phật tích, những cảnh chùa lớn, quan sát và nghiên cứu rất nhiều.
23/02/2011(Xem: 5902)
Sức mạnh gia trì là làm thay đổi tâm niệm của người được gia trì. Gọi thần lực gia trì chủ yếu giúp người được gia trì an tâm, an thân vượt qua khó khăn...
21/01/2011(Xem: 3875)
Bồ tát Di Lặc, vị Phật tương lai, có một vị trí quan trọng trong nền tín ngưỡng và văn hoá Phật Giáo. Di Lặc là vị bồ tát duy nhất được các tông phái Phật Giáo, từ tiểu thừa, đại thừa và mật tông tôn kính. Các kinh điển trong cổ ngữ tiếng Phạn Pali và Sanskrit, cũng như kinh tạng đại thừa chữ Hán và tiếng Tây Tạng đều có nói đến vị Phật tương lai này.
13/01/2011(Xem: 3174)
Cùng với thầy của mình là Bồ Tát Di Lặc, Vô Trước là khai tổ của Du Già Tông, hay Duy Thức Tông, một trường phái của Đại Thừa Phật Giáo. Ba người con trai lớn nhất, đều gọi là Thiên Thân (Vasubandhu), sinh ra ở Purusapura (Peshwar), là những thành viên của gia đình Kiều Thi Ca (Kausika) thuộc dòng dõi Bà La Môn, Ấn Độ. Tất cả ba người đều đã trở thành những Tỳ Kheo Phật Giáo. Người em trai út của Vô Trước được biết là Tỉ-Lân-Trì-Bạt-Bà (Virincivatsa), trong khi người em giữa được biết đơn thuần là Thiên Thân (Vasubandhu), tác giả của Duy Thức Tam Thập Tụng.
04/01/2011(Xem: 2794)
Quán Âm hay Quán Thế Âm là tên gọi của một vị Bồ Tát nổi tiếng trong hệ thống Phật giáo Bắc Truyền (vẫn được thậm xưng là Đại Thừa) khắp các xứ Trung Hoa, Hàn quốc, Nhật Bản, Tây Tạng, Mông Cổ và cả Việt Nam. Chữ Phạn của tên gọi này là Avalokitvesvara, thường được dịch sát là Quán Tự Tại. Chữ Tự Tại (Isvara) này không hề mang nghĩa thanh thản độc lập như nhiều người vẫn nghĩ. Nó là một từ tố thường thấy ngay sau tên gọi của các vị thần Ấn Độ, một chút dấu vết của Ấn Giáo, xa hơn một tí là Bà La Môn giáo thời xưa. Nói mấy cũng không đủ, với phương tiện Internet ngày nay, người muốn biết xin cứ Online thì rõ. Nãy giờ chỉ nói cái tên, cái ý nghĩa hay vai trò của khái niệm Quán Thế Âm mới là quan trọng.
19/12/2010(Xem: 5359)
Qua kinh sách thuộc truyền thống Đại thừa ta được biết mỗi vị Phật thường có hai vị Bồ tát làm thị giả. Nếu như Đức Phật A Di Đà có Bồ Tát Quán Thế Âm và Đại Thế Chí làm thị giả thì một trong hai vị thị giả chính của Đức Phật Thích Ca là Văn Thù Sư Lợi, đại biểu cho trí tuệ siêu việt. Bồ Tát Văn Thù đã xuất hiện hầu như trong tất cả các kinh điển quan trọng của Phật giáo Đại thừa: Hoa Nghiêm, Thủ Lăng Nghiêm, Pháp Hoa, Duy Ma Cật,… như là một nhân vật thân cận nhất của Đức Phật Thích Ca, khi thì chính thức thay mặt Đức Thế Tôn diễn nói Chánh pháp, có lúc lại đóng vai tuồng làm người điều hành chương trình để giới thiệu đến thính chúng một thời pháp quan trọng của Đức Bổn Sư.
19/12/2010(Xem: 3915)
Từ trước đến nay, những khuynh hướng bài bác Đại Thừa -cả trong lẫn ngoài Phật giáo- thường cho rằng kinh điển Đại Thừa là ngụy tạo, từ đó họ cũng hạ bệ luôn tất cả những vị Bồ Tát đã được quần chúng Phật tử lâu đời tôn thờ kính ngưỡng -đặc biệt là Bồ Tát Địa Tạng- coi đó như là những nhân vật hư cấu, sản phẩm của đầu óc tưởng tượng phong phú của người Trung Hoa. Tuy nhiên các học giả nghiên cứu về Phật giáo cổ Ấn Độ hồi gần đây đã xác định rằng tín ngưỡng tôn thờ Bồ Tát Địa Tạng (Kshitigarbha) đã được khai sanh tại Ấn Độ rất lâu đời, có thể là vào khoảng đầu thế kỷ thứ nhất hoặc thứ hai sau công nguyên (C.E.), cùng một lúc với sự phát triển mạnh mẽ của khuynh hướng Phật giáo Đại Thừa, (2) mà bằng chứng cụ thể là Bồ Tát Địa Tạng và những kinh sách liên quan về Ngài đã được đưa vào chương trình học tập, nghiên cứu tại Đại học cổ điển Phật giáo nổi tiếng Nalanda xứ Ma Kiệt Đà.
14/12/2010(Xem: 2565)
Bồ Tát Quán Thế Âm đang thực sự có mặt bên cạnh chúng ta mang sứ mệnh Bồ Tát vào đời để cứu vớt nhân sinh qua cơn khổ nạn hay chỉ là một nhân vật huyền thoại tôn giáo? Với những người mang nặng tinh thần duy lý cho rằng Đạo Phật không hề đặt cơ sở trên những niềm tin mù quáng và do đó, tin vào sự cứu độ của một tha lực bên ngoài –ví dụ như Quán Thế Âm Bồ Tát- theo họ là một hình thức dị đoan mê tín, khó chấp nhận.
03/12/2010(Xem: 11991)
Ngài Sàntideva (Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda, Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn giảng đường tu hạnh Bồ Tát, hạnh Lục độ và tu mười đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567