Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương Bốn: Thực Hành Tâm Bồ Đề

03/12/201018:01(Xem: 8957)
Chương Bốn: Thực Hành Tâm Bồ Đề

CHƯƠNG BỐN
THỰC HÀNH TÂM BỒ ĐỀ

Trách nhiệm của Bồ tát

1. Đã phát tâm Bồ đề 
Con Phật phải tinh tấn 
Tu tập không biếng nhác 
Không lìa hạnh Bồ
tát. 

2. Với công việc ngẫu hứng
Ta có thể nghĩ lại 
Rằng nên làm hay không
Mặc dù ta đã hứa 

3. Nhưng không thể buông bỏ
Điều Phật và Bồ tát 
Đã quán chiếu chiêm nghiệm 
Mà tôi đã thọ hành.

4. Tôi đã thề làm lợi 
Cho tất cả chúng sinh 
Mà không làm như hứa 
Như vậy tôi lừa dối 
Phận tôi sẽ ra sao? 

5. Kinh đã dạy rõ rằng
Ai định cho kẻ khác
Một vật dù nhỏ nhoi
Song rồi lại không cho
Sẽ đọa làm quỷ đói. 

6. Tôi đã mời chúng sinh 
Dự tiệc đại an lạc 
Rồi tôi lại dối gạt 
Đời tôi sẽ điêu linh! 

7. Người bỏ tâm Bồ đề 
Mà được quả giải thoát 
Là điều khó nghĩ bàn 
Chỉ chư Phật biết rõ.

8. Trong giới hạnh Bồ tát
Ai bỏ tâm Bồ đề
Làm chúng sinh bất lợi
Sẽ gặt quả báo ác. 

9. Ai trong một sát-na 
Cản trở người làm thiện 
Khiến hữu tình bị hại
Sẽ gặp quả báo ác
Thật vô cùng khủng khiếp. 

10. Phá an lạc một người 
Ta phải bị khốn khổ 
Huống chi phá an lạc 
Của vô số hữu tình
Ác báo không cùng tận.

11. Người phát tâm Bồ đề 
Nhưng hành động ngược lại
Sẽ trôi trong luân hồi
Khó trở thành Bồ tát.

12. Phải cung kính thực hành 
Những gì đã thệ nguyện 
Nếu tôi không tinh tấn 
Sẽ đọa chốn thấp hèn.

Giá trị của cuộc sống

13. Vô số Phật ra đời 
Mang lợi đến chúng sinh 
Nhưng tôi vì tội xưa 
Nên không được ân phước. 

14. Nếu tái phạm nghiệp cũ 
Chắc chắn không thoát khỏi
Số phận thật hẩm hiu 
Bệnh đau và tật nguyền 
Lăn lóc trong nẻo ác.

15. Làm sao có cơ hội
Được gặp Phật xuất thế 
Được duyên tu hành tốt
Thấm nhuần được Phật pháp 
Và thuận duyên tu hành? 

16. Mặc dù được khỏe mạnh 
Đủ ăn, không tổn thương 
Nhưng thân này tạm bợ
Đó chỉ là ảo ảnh.

17. Với cuộc sống hiện nay
Khó tái sinh thành người
Mà không được thân người 
Làm sao làm việc thiện? 

18. Có cơ hội làm thiện 
Mà bỏ qua không làm 
Liệu tôi làm được gì 
Khi thống khổ bức bách? 

19. Nếu không làm việc thiện 
Chỉ toàn làm việc ác 
Dù trải qua muôn kiếp 
Vẫn không biết cõi lành. 

20. Đức Thế tôn dạy rằng 
Thân người khó được thay 
Như rùa mù dưới biển 
Cổ ngoi lên trúng ngay
Vào lỗ ván phiêu bồng. 

21. Phạm tội nặng chốc lát 
Đã phải bị đọa đày
Vào địa ngục vô gián 
Vậy với tội muôn kiếp 
Làm sao sinh cõi lành? 

22. Chờ trả xong ác báo 
Cũng khó thoát địa ngục 
Bởi trong lúc trả nghiệp 
Lại gây thêm tội mới. 

23. Khi được thân con người
Là được cơ hội tốt
Cho công việc tu hành
Nếu bỏ cơ hội ấy
Thật không gì điên hơn.

24. Nếu đã biết như vậy 
Mà vẫn ngu si, lười
Khi thần chết gõ cửa 
Sẽ đau khổ dường bao. 

25. Lửa địa ngục hừng hực
Đốt thân tôi nhiều kiếp 
Và ngọn lửa ăn năn 
Càng hành hạ tâm can. 

26. Thật khó hiểu vì sao
Tôi có được thân người
Khi nhận biết điều này 
Thì rơi vào địa ngục!

Diệt trừ ái dục

27. Phải chăng các bùa chú 
Khiến tôi bị si mê 
Ai làm tôi mù lòa? 
Ma nào ẩn thân tôi?

28. Những kẻ thù tham sân 
Không tay chân mặt mũi 
Không dũng cảm thông minh 
Sao chúng sai sử tôi? 

29. Chúng ngự trị tâm tôi
Thường làm tôi tổn hại
Mà tôi không biết giận
Đó là nhẫn nhục sai
Quả thật là đáng trách. 

30-31. Trời, người dù hợp lại 
Nhất tề tấn công tôi 
Vẫn không thể đẩy tôi 
Vào địa ngục vô gián.

Nhưng phiền não ái dục 
Lại ném tôi vào đó
Nơi mà núi Tu Di 
Cũng cháy không còn tro. 

32. Bè lũ của ái dục 
Sống dai dẳng vô cùng
Vô thỉ đến vô chung. 
Kẻ thù trong đời tôi
Không sống lâu đến thế! 

33. Theo kẻ địch ngoài đời 
Chúng còn chia lợi lộc,
Ngược lại địch tham dục
Chỉ luôn tạo khổ đau
Cho người phục dịch nó. 

34. Kẻ thù dai dẳng ấy 
Là cội nguồn bất hạnh 
Nó ở ngay tâm tôi 
Tôi an nhiên sao được? 

35. Nó là kẻ cai tù
Kẻ hành quyết tội nhân
Nó ngự trị tâm tôi
An lạc làm sao được?

36-38. Ái dục chưa tận diệt
Tôi phải tinh tấn hơn!
Kẻ kiêu ngạo bị mắng
Liền nổi giận, trả thù
Khi hạ đối thủ xong
Mới an lòng yên ngủ.

Những chiến sĩ ra trận 
Tàn nhẫn diệt quân thù
Dù những kẻ địch ấy
Tự nhiên cũng phải chết. 

Họ phóng giáo, bắn tên
Không đào tẩu tháo lui 
Khi chiến thắng chưa đạt. 

39. Vậy thì chính tôi đây
Quyết tâm diệt ái dục
Tôi quyết chí không lùi
Dù đau đớn, thất vọng.

40. Con người vì mưu sinh
Phải chài lưới, làm ruộng
Phải cố chịu đói lạnh
Nay tôi vì chúng sinh
Sao lại tránh khổ cực
Không gánh vác nhọc nhằn? 

41-42. Dù tôi chưa giải thoát
Song đã nguyện cứu độ
Chúng sinh khắp mười phương
Vượt khỏi biển ái dục. 

Tôi chưa tự lượng sức
Mà lòng đã nguyện thề
Vậy tôi điên hay không? 
Dẫu vậy tôi vẫn quyết
Không ngừng diệt ái dục
Nơi chính bản thân mình. 

43. Như chiến sĩ hờn căm
Quyết chiến thắng tất cả
Tôi giữ một say mê
Diệt ái dục đến cùng. 

44. Thà tôi bị thiêu đốt 
Bị moi ruột, chặt đầu 
Nhưng quyết không khuất phục 
Giặc ái dục bạo tàn. 

45-46. Kẻ địch khi bị thua 
Rút lui, tìm nơi ẩn
Rồi khi phục hồi sức
Quay lại để phục thù. 

Nhưng ái dục thì không
Khi nó bị đánh bại
Nó chui vào trong tâm 
Vốn yếu hèn của tôi
Và lẩn trốn nơi đó.
Ái dục thật hèn hạ
Duy chỉ có Trí tuệ 
Mới tiêu diệt nó thôi. 

47. Nó không ở ngoại cảnh
Không nằm trong các căn
Không ở giữa các căn
Hoặc bất cứ nơi khác.

Vậy nó từ đâu đến?
Khiến cho đời đảo điên?
Nó chỉ là ảo ảnh!

Hỡi tâm của tôi ơi!
Không nên sợ ái dục
Hãy giải phóng nó đi
Hãy tu chứng Trí tuệ; 
Đừng để ái dục xô
Đẩy tôi vào địa ngục. 

48. Thường tư duy như vậy 
Nên cố sức tu hành 
Giữ trọn giới Bồ tát; 
Không tuân lời lương y 
Làm sao dứt được bệnh?

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
31/03/2011(Xem: 7025)
Ngài Đại Thế Chí Pháp Vương Tử cùng với 52 vịBồ-tát đồng tu một pháp môn cùng đứng dậy cung kính chấp tay bạch Phật : - Tôi nhớ hằng sa kiếp trước có Đức Phật ra đờihiệu Vô Lượng Quang
20/03/2011(Xem: 12579)
Trong các vị cao tăng Trung Hoa, ngài Huyền Trang là người có công nghiệp rất lớn, đã đi khắp các nơi viếng Phật tích, những cảnh chùa lớn, quan sát và nghiên cứu rất nhiều.
23/02/2011(Xem: 6377)
Sức mạnh gia trì là làm thay đổi tâm niệm của người được gia trì. Gọi thần lực gia trì chủ yếu giúp người được gia trì an tâm, an thân vượt qua khó khăn...
21/01/2011(Xem: 4244)
Bồ tát Di Lặc, vị Phật tương lai, có một vị trí quan trọng trong nền tín ngưỡng và văn hoá Phật Giáo. Di Lặc là vị bồ tát duy nhất được các tông phái Phật Giáo, từ tiểu thừa, đại thừa và mật tông tôn kính. Các kinh điển trong cổ ngữ tiếng Phạn Pali và Sanskrit, cũng như kinh tạng đại thừa chữ Hán và tiếng Tây Tạng đều có nói đến vị Phật tương lai này.
13/01/2011(Xem: 3507)
Cùng với thầy của mình là Bồ Tát Di Lặc, Vô Trước là khai tổ của Du Già Tông, hay Duy Thức Tông, một trường phái của Đại Thừa Phật Giáo. Ba người con trai lớn nhất, đều gọi là Thiên Thân (Vasubandhu), sinh ra ở Purusapura (Peshwar), là những thành viên của gia đình Kiều Thi Ca (Kausika) thuộc dòng dõi Bà La Môn, Ấn Độ. Tất cả ba người đều đã trở thành những Tỳ Kheo Phật Giáo. Người em trai út của Vô Trước được biết là Tỉ-Lân-Trì-Bạt-Bà (Virincivatsa), trong khi người em giữa được biết đơn thuần là Thiên Thân (Vasubandhu), tác giả của Duy Thức Tam Thập Tụng.
04/01/2011(Xem: 3195)
Quán Âm hay Quán Thế Âm là tên gọi của một vị Bồ Tát nổi tiếng trong hệ thống Phật giáo Bắc Truyền (vẫn được thậm xưng là Đại Thừa) khắp các xứ Trung Hoa, Hàn quốc, Nhật Bản, Tây Tạng, Mông Cổ và cả Việt Nam. Chữ Phạn của tên gọi này là Avalokitvesvara, thường được dịch sát là Quán Tự Tại. Chữ Tự Tại (Isvara) này không hề mang nghĩa thanh thản độc lập như nhiều người vẫn nghĩ. Nó là một từ tố thường thấy ngay sau tên gọi của các vị thần Ấn Độ, một chút dấu vết của Ấn Giáo, xa hơn một tí là Bà La Môn giáo thời xưa. Nói mấy cũng không đủ, với phương tiện Internet ngày nay, người muốn biết xin cứ Online thì rõ. Nãy giờ chỉ nói cái tên, cái ý nghĩa hay vai trò của khái niệm Quán Thế Âm mới là quan trọng.
19/12/2010(Xem: 5880)
Qua kinh sách thuộc truyền thống Đại thừa ta được biết mỗi vị Phật thường có hai vị Bồ tát làm thị giả. Nếu như Đức Phật A Di Đà có Bồ Tát Quán Thế Âm và Đại Thế Chí làm thị giả thì một trong hai vị thị giả chính của Đức Phật Thích Ca là Văn Thù Sư Lợi, đại biểu cho trí tuệ siêu việt. Bồ Tát Văn Thù đã xuất hiện hầu như trong tất cả các kinh điển quan trọng của Phật giáo Đại thừa: Hoa Nghiêm, Thủ Lăng Nghiêm, Pháp Hoa, Duy Ma Cật,… như là một nhân vật thân cận nhất của Đức Phật Thích Ca, khi thì chính thức thay mặt Đức Thế Tôn diễn nói Chánh pháp, có lúc lại đóng vai tuồng làm người điều hành chương trình để giới thiệu đến thính chúng một thời pháp quan trọng của Đức Bổn Sư.
19/12/2010(Xem: 4344)
Từ trước đến nay, những khuynh hướng bài bác Đại Thừa -cả trong lẫn ngoài Phật giáo- thường cho rằng kinh điển Đại Thừa là ngụy tạo, từ đó họ cũng hạ bệ luôn tất cả những vị Bồ Tát đã được quần chúng Phật tử lâu đời tôn thờ kính ngưỡng -đặc biệt là Bồ Tát Địa Tạng- coi đó như là những nhân vật hư cấu, sản phẩm của đầu óc tưởng tượng phong phú của người Trung Hoa. Tuy nhiên các học giả nghiên cứu về Phật giáo cổ Ấn Độ hồi gần đây đã xác định rằng tín ngưỡng tôn thờ Bồ Tát Địa Tạng (Kshitigarbha) đã được khai sanh tại Ấn Độ rất lâu đời, có thể là vào khoảng đầu thế kỷ thứ nhất hoặc thứ hai sau công nguyên (C.E.), cùng một lúc với sự phát triển mạnh mẽ của khuynh hướng Phật giáo Đại Thừa, (2) mà bằng chứng cụ thể là Bồ Tát Địa Tạng và những kinh sách liên quan về Ngài đã được đưa vào chương trình học tập, nghiên cứu tại Đại học cổ điển Phật giáo nổi tiếng Nalanda xứ Ma Kiệt Đà.
14/12/2010(Xem: 2873)
Bồ Tát Quán Thế Âm đang thực sự có mặt bên cạnh chúng ta mang sứ mệnh Bồ Tát vào đời để cứu vớt nhân sinh qua cơn khổ nạn hay chỉ là một nhân vật huyền thoại tôn giáo? Với những người mang nặng tinh thần duy lý cho rằng Đạo Phật không hề đặt cơ sở trên những niềm tin mù quáng và do đó, tin vào sự cứu độ của một tha lực bên ngoài –ví dụ như Quán Thế Âm Bồ Tát- theo họ là một hình thức dị đoan mê tín, khó chấp nhận.
03/12/2010(Xem: 13540)
Ngài Sàntideva (Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda, Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn giảng đường tu hạnh Bồ Tát, hạnh Lục độ và tu mười đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]