Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Cuộc đời tôn giả Mục Kiền Liên

13/01/201216:10(Xem: 10068)
Cuộc đời tôn giả Mục Kiền Liên

Cuộc đời tôn giả Mục Kiền Liên

Tác giả: Hellmuth Hecker- Dịch giả: Nguyễn Điều

MỤC LỤC

Lời nói đầu

1- Thời niên thiếu

2- Du phương tầm đạo

3- Tìm ra chơn lý.

4- Tinh tấn theo lời Phật dạy

5- Những bậc Thanh-văn xuất sắc

6- Những đóng góp của hai vị Đại đệ tử

7- Thần thông của ngài Mahà Moggallàna

8- Tiền kiếp của ngài Mahà Moggallàna

9- Những ngày cuối cùng của Mahà Moggallàna

10-Kết thúc cuộc đời

Phật ngôn

Lời nói đầu

Từ lâu, tôi hằng tâm nguyện được dịp phiên dịch hay biên soạn lịch sử của những vị đại đệ tử của Đức Phật, nhất là các ngài Xá-lợi-phất (Sàriputta), Mục-kiền-liên (Mahà Moggallàna), A-nan (Ananda) Ca-diếp (Kassapa), Ưu-bà-li (Upàli) v.v... Nhưng rất tiếc tìm được tài liệu đầy đủ để đúc kết cuộc đời của các vị Thánh Tăng ấy không phải là chuyện dễ.

Duyên may, khi còn ở trong nước, tôi đã dịch được quyển “Cuộc đời đức Xá-lợi-phất” mà soạn giả là ngài Nyàna Ponika. Và bây giờ ở hải ngoại tôi lại còn duyên lành nhận được cuốn Mahà Moggallàna (Đại Mục-kiền-liên) của Hellmuth Hecker do bà Trần Văn Bạch mang tặng.

Tôi mạo muội phiên dịch cuốn sách này ra Việt ngữ để cống hiến chư Phật tử bốn phương nhất là những ai muốn tìm hiểu cuộc đời của các vị đại đệ tử Phật. Khi diễn giải từ một thứ tiếng này ra một thứ tiếng khác, đặc biệt là trong lãnh vực tôn giáo, tôi tự cảm thấy trình độ học Phật còn yếu kém, do đó tránh sao khỏi những sơ sót. Ngưỡng mong chư vị hiền giả bổ túc cho, người dịch xin chơn thành cảm tạ!

Dịch giả cũng xin chia đều phần phước thanh cao này đến tất cả quý thân hữu, đạo hữu, những người đã khuyến khích, cung cấp tài liệu, tiếp tay đánh máy và ủng hộ ấn tống, xin cho quý vị ấy Bồ-đề tâm kiên cố và chóng đạt được đạo quả giải thoát.

Ngoài ra dịch giả còn xin hiến dâng một phần phước phiên dịch này đến tất cả chúng sanh, nhất là song thân và Thầy Tổ của dịch giả đang ở một cảnh giới nào đó.

Nguyện cho tất cả nhân loại đừng oan trái lẫn nhau và mỗi ngày mỗi giảm thiểu cái khổ!

Paris tháng 3/1988

Dịch giả

“Namo Tassa Bhagavato Arahato

Samma(sambuddhassa”.

“Namo Tassa Bhagavato Arahato

Samma(sambuddhassa”.

“Namo Tassa Bhagavato Arahato

Samma(sambuddhassa”.

Chúng con, toàn thể những Phật tử thành kính:

– Đảnh lễ Phật Bảo, Ngài là bậc Toàn tri Diệu giác, vô lượng từ bi, đã tìm ra con đường giải thoát.

– Đảnh lễ Pháp Bảo, là những lời vàng ngọc, có hiệu năng cứu độ chúng sanh.

– Đảnh lễ Tăng Bảo, những bậc gương mẫu, sống đời sống thanh tịnh trong hàng tứ chúng.

“Thành kính đảnh lễ đức Mục-kiền-liên (Mahà Moggallàna), một đại Sa-môn, một đại đệ tử Phật, đã sống đời sống Phạm hạnh, có khả năng chỉ trong nháy mắt, thấy rõ muôn vạn chiều vũ trụ, là bậc Thượng thừa của các loại Thần thông, có thể nhìn xuyên qua dòng thời gian biết hết từ vòng sanh diệt trong các cõi trời”.

(Theràgàthà 1181: Tôn Túc Kệ Ngôn, câu 1181)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/04/2016(Xem: 16485)
Đôi lời về Xá Lợi Phật_Lạt Ma Zopa Rinpoche_Hồng Như dịch, Bảo Tháp thờ Xá Phật còn sót lại ở Thành Tỳ Xá Ly, Ấn Độ (hình phái đoàn hành hương Phật tích Ấn Độ của Tu Viện Quảng Đức tháng 11-2006)
21/03/2016(Xem: 4908)
Ở đây chúng ta cũng nên định nghĩa về hai chữ "tình yêu" (Liebe) và "tình thương" (Barmherzigkeit) nó khác nhau hay giống nhau ở điểm nào? Khi người ta nói đến tình yêu, tức giới hạn giữa con người và con người như nam và nữ yêu nhau hay giữa con người và động vật cũng như cảnh vật chung quanh mình. Tình yêu luôn có sự chấp ngã và hay bi lụy về đối tượng mình đang yêu, nhưng khi không được yêu và tự ngã của người nam hay người nữ bị tổn thương thì tình yêu ấy không còn là tình yêu nữa, mà đôi khi còn trở nên thù hận với nhau. Khi người nam yêu người nữ có nghĩa là người đàn ông ấy muốn chiếm hữu riêng người đàn bà kia về cho mình, còn khuynh hướng của người nữ là khuynh hướng nương tựa, nếu đối tượng là người nam mà giới nữ không còn nương tựa được nữa thì tình yêu ấy trở nên xa cách và nguội lạnh dần, không mặn nồng như thuở ban đầu nữa.
09/09/2015(Xem: 9242)
Như cố thi hào Nguyễn Du đã nói: “Đã mang lấy nghiệp vào thân, Đừng nên trách lẫn trời gần, trời xa”. Nghiệp như cái bóng theo hình, một ngày chưa chứng thánh quả A La Hán thì cho dù trên trời, dưới đất, trong hư không nó đều bám theo. Nghiệp quả thật ghê gớm. Mỗi người mỗi nghiệp khác nhau, muôn hình vạn trạng, có nặng có nhẹ mà chỉ chư Phật mới thấu rõ hết về chúng. Nếu quý vị muốn biết thì nên đọc qua Thủy Sám Pháp Văn hay Kinh Địa Tạng… thì cũng sẽ thấu hiểu được phần nào.
12/07/2015(Xem: 10247)
Quan Thế Âm Bồ Tát Tầm Thinh Cứu Khổ Phổ Môn Thị Hiện Đồ. Bản dịch của Viên Huệ Dương Chiêu Anh
03/04/2015(Xem: 15612)
Phổ Hiền thập đại nguyện hạnh là nội dung hạt nhân trong việc tin ngưỡng và tu trì của Bồ Tát Phổ Hiền, xuất phát từ Phẩm Phổ Hiền Bồ Tát Hạnh Nguyện trong Kinh Hoa Nghiêm. Phật Giáo Hán truyền coi Bồ Tát Phổ Hiền là biểu tượng cho đại hạnh thực tiễn, cùng với Bồ Tát Quán Âm (biểu tượng cho Từ Bi), Bồ Tát Văn Thù (biểu tượng cho trí tuệ), Bồ Tát Địa Tạng (biểu tượng cho thệ nguyện); cùng hình thành nên nội hàm tín ngưỡng và tinh thần tiêu biểu của bốn tâm hạnh Bi-Trí-Nguyện-Hạnh của Phật Giáo Đại Thừa.
21/01/2015(Xem: 7630)
Phía Tây của Long thành, phía Nam của Tản sơn, thẳng ra ngoài cõi Ai Lao, Xiêm La, có một nơi gọi là Hương Tích Sơn, nằm giữa Bắc kỳ, Nam hải, nơi ấy là động thiên bậc nhất vậy. Núi thì đặc thù, nước thì tú lệ, cảnh trần tịch tĩnh, nơi cầu tự cầu tài, chốn chữa bệnh trừ tai. Mỗi năm Xuân về, không dưới ba vạn người, có người ở gần về dự, có người ở xa ngàn muôn dặm cũng đến. Tiếng linh diệu lớn lao, rung động mắt tai người, rõ ràng là “thần quyền thời đại”, thật lạ thường thay. Ngoài núi non và con người, Hương sơn mà xa cách một ngày như ép buộc đi đến trần cương; ba mươi năm qua trọn chẳng đến một lần, nỗi buồn nào như đây; ngày nay năm mươi sáu tuổi vẫn còn viện cớ. Sức thuyền từ một phen đưa chuyển, kết quả có thể xuyên qua, đến nước lên non, niềm vui có thể nhận biết.
21/01/2015(Xem: 10091)
1. Chân như đạo Phật rất mầu Tâm trung chữ Hiếu niệm đầu chữ Nhân, Hiếu là độ được song thân Nhân là cứu độ trầm luân muôn loài. 5. Thần thông nghìn mắt nghìn tay Cũng trong một điểm linh đài hóa ra,
06/01/2015(Xem: 10902)
Mẹ tôi tin “chắc như đinh đóng cột” vào sự linh ứng của Bồ-tát Quán Thế Âm. Mẹ nhất quyết: bất cứ ai, hễ gặp bất trắc, tai nạn khổ đau mà thành tâm niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm thì Ngài sẽ cứu độ cho tai qua nạn khỏi. Nếu không được ngay thì sớm muộn mọi sự cũng hanh thông tốt đẹp! Mẹ tôi nhắc nhở con cháu và mọi người quen lạ nên thành tâm cầu nguyện Bồ-tát Quán Thế Âm! Và câu niệm “Nam Mô Đại Từ Đại Bi Cứu Khổ Cứu Nạn Quán Thế Âm Bồ Tát” đã nhập tâm và theo mẹ tôi suốt cho đến cuối đời.
30/10/2014(Xem: 14378)
Lắng nghe giọt nước cành dương Tịnh bình ban rải tình thương muôn trùng Như lai Bồ Tát viên thông Thanh lương cam lộ tắt dòng khổ đau
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]