Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

08. Tiền kiếp của ngài Mahà Moggallàna

13/01/201216:17(Xem: 7448)
08. Tiền kiếp của ngài Mahà Moggallàna


Cuộc đời tôn giả Mục Kiền Liên

Tác giả: Hellmuth Hecker- Dịch giả: Nguyễn Điều

8- TIỀN KIẾP CỦA MAHA MOGGALLANA

Về sự nhớ lại tiền kiếp, Đại đức Maha Moggallàna chỉ tự thuật có một lần. Đó là Kinh số 50 thuộc bộ Trung A Hàm (Majjhima Nikaya), soạn giả xin phép dùng bản Kinh ấy làm căn cứ cho chương này.

Trong Jataka (Túc Sanh Truyện), tức những truyện nói về tiên thân Đức Phật Thích Ca và Mahà Moggallàna đã gặp nhau trong nhiều kiếp. Ít nhất là có ba mươi mốt lần Đức Phật và Mahà Moggallàna phải gặp nhau là một điều tự nhiên. Đối với thời gian vô lượng kiếp, con số ba mươi mốt lần gặp nhau ghi trong Kinh quả thật quá ít, quá nhỏ, so với cái chuỗi luân hồi “bất tận” mà cả hai vị đã trải qua. Tuy nhiên, như thế cũng đủ để cho chúng ta có một cái nhìn tổng quát về tiền kiếp của vị Sa-môn này.

Dĩ nhiên ở đây soạn giả không thể kể hết ba mươi mốt kiếp một cách chi tiết, với đầy đủ những nét đẹp, những phẩm cách xứng đáng của một trong hai đại đệ tử. Nhưng những gì mà soạn giả cố gắng ghi lại trong cuốn sách nhỏ bé này chính là những nét quan trọng để cho các hàng Phật tử có thể tìm hiểu tiểu sử và nhân cách của Đại đức Mahà Moggallàna (Mục-kiền-liên).

Điểm thứ nhứt chúng ta tìm thấy trong Jakata (Túc Sanh Truyện) “mối liên hệ mật thiết” giữa Bồ-tát (tiền thân Đức Phật) với Mahà Moggallàna. Nhiều kiếp Sàriputta (Xá-lợi-phất) và Mahà Moggallàna đã sanh làm anh em của đức Bồ-tát. (Như ghi trong các Kinh Jàtaka số 488, 509. 542, và 543). Rồi ở những kiếp khác, họ lại sanh làm bạn của Bồ-tát (Jàtaka số 326). Hay khi đức Bồ-tát làm vua thì họ trở thành hai trung thần (Jàtaka 401). Thỉnh thoảng, họ cũng sanh làm đạo sĩ, môn đồ của đức Bồ-tát (Jàtaka số 423, và 522). Ngoài ra, họ còn sanh làm thầy của đức Bồ-tát nữa (Jàtaka 539).

Đặc biệt, những Túc Sanh Truyện kể lại đức Bồ-tát làm vua, Sàriputta làm Thái tử, còn Mahà Moggallàna thì làm quan chỉ huy Ngự lâm quân (Jàtaka 525). Hoặc đức Bồ-tát làm trời Đế Thích (Sakka) thì Sàriputta và Mahà Moggallàna làm “Tiên trưởng” cai quản hai cung Nhật Nguyệt (Jàtaka số 450)

Điểm thứ hai đáng cho chúng ta chú ý là sự chênh lệch giữa Mahà Moggallàna với Sàriputta trong một số tiền kiếp sanh làm cầm thú. Đọc kỹ Túc Sanh Truyện (Jakata) chúng ta sẽ nhận thấy rằng mặc dù cả hai vị đại đệ tử này thường đồng hành trong cái vòng sanh tử. Những khi tái sanh từ cõi người trở lên thì họ có địa vị tương đương nhau. Còn khi luân hồi làm thú vật, thì họ lại ở tình trạng hoàn toàn chênh lệch. Đặc biệt là Sàriputta luôn luôn sanh làm những thú vật tiến hóa hơn:

Chẳng hạn như trong Ja(kata số 73, Sàriputta sanh ra làm rắn thì Mahà Moggallàna làm chuột. Trong Jakata số 206, 486, Sàriputta sanh làm chim thì Mahà Moggallàna sanh làm rùa. Trong Jakata 272, 361 và 438, Sàriputta sanh làm sư tử thì Mahà Moggallàna sanh làm cọp. Trong Jakata số 37, Sàriputta sanh làm khỉ thì Mahà Moggallàna sanh làm voi. Trong Jakata số 315 Sàriputta sanh làm rắn thì Mahà Moggallàna sanh làm chó sói. Trong Jakata số 490, Sàriputta sanh làm người thì Mahà Moggallàna sanh làm thú.

Duy nhất chỉ trong bốn Jakata (Túc Sanh Truyện) số 160, 187, 215 và 476 là cả hai sanh làm chim thiên nga như nhau.

Rồi lúc sanh làm người, địa vị của Sàriputta thường cũng cao hơn địa vị Mahà Moggallàna (Mục-kiền-liên). Hoặc vào nghề nghiệp, Sàriputta vẫn tương đối đỡ cực hơn Mahà Moggallàna phần nào như trong Jakata số 525, Sàriputta sanh làm Hoàng tử thì Mahà Moggallàna sanh làm quan Đại thần. Trong Jakata số 544, Sàriputta sanh làm quan Đại thần thì Mahà Moggallàna sanh làm người hầu cận. Trong Jakata số 151, Sàri-putta sanh làm người xa phu cho Hoàng gia Bodhisatta thì Mahà Moggallàna sanh làm xa phu cho hoàng thân Ananda.

Riêng lần nọ Mahà Moggallàna sanh làm Nguyệt thần thì Sàriputta sanh làm Đạo sĩ tên Narada( (Jàkata số 535), và một lần khác Sàri-putta sanh làm Nguyệt thần thì Mahà Moggallànasanh làm một vị tiên cao hơn cai quản Nhật Cung (Jàkata số 450). Đây là hai trường hợp Mahà Moggallàna tái sanh vào địa vị cao hơn Sàriputta.

Nói tóm lại, khi sanh kể từ người trở lên thì hai nhân vật này có địa vị tương đương nhau.

Túc Sanh Truyện cũng có ghi một lần duy nhứt Sàriputta và Mahà Moggallàna bỗng tái sanh làm hai đối thủ. Đó là Ja(kata số 545 thuật lại rằng Sàriputta sanh làm Long vương (Nàga) thì Mahà Moggallàna sanh làm vua chim đại bàng (Đại bàng điểu vương) tên Supanna. Giống chim này rất to, chỉ ăn thịt rồng rắn.

Trường hợp Túc Sanh Truyện (Jakata) chỉ nói đến một mình Mahà Moggallàna, mà không có sự góp mặt của Sàriputta rất hiếm. Chỉ có hai lần:

a- Lần thứ nhất Mahà Moggallàna sanh lên trời thay thế Thiên vương Đế Thích (Sakka). Kinh Majjhima Nikaya (Trung A Hàm) đoạn 37 thuật: “Khi ấy, vị chúa tể cõi trời (Tiền thân Mahà Moggallàna) đã khiển trách những Thiên vương tiền nhiệm không giữ đúng phẩm hạnh, rồi với tư cách là vua trời Sakka (tiền thân Mahà Moggallàna) đã hiện xuống trần gian để cảnh tỉnh một “người bạn” bần tiện (?) quay về với đạo đức và tạo dịp cho người bạn ấy được tái sanh lên những cõi cao hơn (Jakàta số 78).

Nhưng trong một kiếp khác, Sàriputta và Mahà Moggallàna cùng sanh lên làm người. Cả hai là những thương gia tham lam, đã đem tiền của chôn sâu dưới đất. Sau khi chết, một người sanh làm rắn, người kia sanh làm chuột, đào hang ở cạnh chỗ ngày xưa mình chôn giấu tiền bạc (Theo Jàkata số 73).

b- Câu chuyện thứ hai thuật Mahà Moggallànasanh làm chó rừng. Khi tìm thấy một con voi xóc cây lủng bụng chết, chó rừng vì háu ăn nên chui vào lỗ hổng nơi bụng voi, nằm trong đó ăn cho bằng thích. Đến khi ăn no, mặt trời lên cao, xác voi sình bịt kín lỗ hổng, cho không chui ra được mới hối hận thì đã muộn. Câu chuyện có ngụ ý tiêu biểu và cảnh cáo những kẻ say mê hưởng thụ (Jàkata số 490).

Nhưng Túc Sanh Truyện nổi tiếng phải kể là câu chuyện Mahà Moggallàna sanh làm quan giữ kho lúa gạo của dân tộc Kuru, và Sàriputta sanh làm người lái buôn. Cả hai, một bên giữ đúng bổn phận của một công bộc, một bên mua bán hợp pháp nên đã không vi phạm giới trộm cắp và tội sang đoạt, dù họ đang có dịp thuận tiện làm điều bất chánh mà không ai biết.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/04/2016(Xem: 16494)
Đôi lời về Xá Lợi Phật_Lạt Ma Zopa Rinpoche_Hồng Như dịch, Bảo Tháp thờ Xá Phật còn sót lại ở Thành Tỳ Xá Ly, Ấn Độ (hình phái đoàn hành hương Phật tích Ấn Độ của Tu Viện Quảng Đức tháng 11-2006)
21/03/2016(Xem: 4908)
Ở đây chúng ta cũng nên định nghĩa về hai chữ "tình yêu" (Liebe) và "tình thương" (Barmherzigkeit) nó khác nhau hay giống nhau ở điểm nào? Khi người ta nói đến tình yêu, tức giới hạn giữa con người và con người như nam và nữ yêu nhau hay giữa con người và động vật cũng như cảnh vật chung quanh mình. Tình yêu luôn có sự chấp ngã và hay bi lụy về đối tượng mình đang yêu, nhưng khi không được yêu và tự ngã của người nam hay người nữ bị tổn thương thì tình yêu ấy không còn là tình yêu nữa, mà đôi khi còn trở nên thù hận với nhau. Khi người nam yêu người nữ có nghĩa là người đàn ông ấy muốn chiếm hữu riêng người đàn bà kia về cho mình, còn khuynh hướng của người nữ là khuynh hướng nương tựa, nếu đối tượng là người nam mà giới nữ không còn nương tựa được nữa thì tình yêu ấy trở nên xa cách và nguội lạnh dần, không mặn nồng như thuở ban đầu nữa.
09/09/2015(Xem: 9248)
Như cố thi hào Nguyễn Du đã nói: “Đã mang lấy nghiệp vào thân, Đừng nên trách lẫn trời gần, trời xa”. Nghiệp như cái bóng theo hình, một ngày chưa chứng thánh quả A La Hán thì cho dù trên trời, dưới đất, trong hư không nó đều bám theo. Nghiệp quả thật ghê gớm. Mỗi người mỗi nghiệp khác nhau, muôn hình vạn trạng, có nặng có nhẹ mà chỉ chư Phật mới thấu rõ hết về chúng. Nếu quý vị muốn biết thì nên đọc qua Thủy Sám Pháp Văn hay Kinh Địa Tạng… thì cũng sẽ thấu hiểu được phần nào.
12/07/2015(Xem: 10249)
Quan Thế Âm Bồ Tát Tầm Thinh Cứu Khổ Phổ Môn Thị Hiện Đồ. Bản dịch của Viên Huệ Dương Chiêu Anh
03/04/2015(Xem: 15613)
Phổ Hiền thập đại nguyện hạnh là nội dung hạt nhân trong việc tin ngưỡng và tu trì của Bồ Tát Phổ Hiền, xuất phát từ Phẩm Phổ Hiền Bồ Tát Hạnh Nguyện trong Kinh Hoa Nghiêm. Phật Giáo Hán truyền coi Bồ Tát Phổ Hiền là biểu tượng cho đại hạnh thực tiễn, cùng với Bồ Tát Quán Âm (biểu tượng cho Từ Bi), Bồ Tát Văn Thù (biểu tượng cho trí tuệ), Bồ Tát Địa Tạng (biểu tượng cho thệ nguyện); cùng hình thành nên nội hàm tín ngưỡng và tinh thần tiêu biểu của bốn tâm hạnh Bi-Trí-Nguyện-Hạnh của Phật Giáo Đại Thừa.
21/01/2015(Xem: 7634)
Phía Tây của Long thành, phía Nam của Tản sơn, thẳng ra ngoài cõi Ai Lao, Xiêm La, có một nơi gọi là Hương Tích Sơn, nằm giữa Bắc kỳ, Nam hải, nơi ấy là động thiên bậc nhất vậy. Núi thì đặc thù, nước thì tú lệ, cảnh trần tịch tĩnh, nơi cầu tự cầu tài, chốn chữa bệnh trừ tai. Mỗi năm Xuân về, không dưới ba vạn người, có người ở gần về dự, có người ở xa ngàn muôn dặm cũng đến. Tiếng linh diệu lớn lao, rung động mắt tai người, rõ ràng là “thần quyền thời đại”, thật lạ thường thay. Ngoài núi non và con người, Hương sơn mà xa cách một ngày như ép buộc đi đến trần cương; ba mươi năm qua trọn chẳng đến một lần, nỗi buồn nào như đây; ngày nay năm mươi sáu tuổi vẫn còn viện cớ. Sức thuyền từ một phen đưa chuyển, kết quả có thể xuyên qua, đến nước lên non, niềm vui có thể nhận biết.
21/01/2015(Xem: 10101)
1. Chân như đạo Phật rất mầu Tâm trung chữ Hiếu niệm đầu chữ Nhân, Hiếu là độ được song thân Nhân là cứu độ trầm luân muôn loài. 5. Thần thông nghìn mắt nghìn tay Cũng trong một điểm linh đài hóa ra,
06/01/2015(Xem: 10910)
Mẹ tôi tin “chắc như đinh đóng cột” vào sự linh ứng của Bồ-tát Quán Thế Âm. Mẹ nhất quyết: bất cứ ai, hễ gặp bất trắc, tai nạn khổ đau mà thành tâm niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm thì Ngài sẽ cứu độ cho tai qua nạn khỏi. Nếu không được ngay thì sớm muộn mọi sự cũng hanh thông tốt đẹp! Mẹ tôi nhắc nhở con cháu và mọi người quen lạ nên thành tâm cầu nguyện Bồ-tát Quán Thế Âm! Và câu niệm “Nam Mô Đại Từ Đại Bi Cứu Khổ Cứu Nạn Quán Thế Âm Bồ Tát” đã nhập tâm và theo mẹ tôi suốt cho đến cuối đời.
30/10/2014(Xem: 14392)
Lắng nghe giọt nước cành dương Tịnh bình ban rải tình thương muôn trùng Như lai Bồ Tát viên thông Thanh lương cam lộ tắt dòng khổ đau
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]