Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Trầm Hùng Thi Ca Nguyễn Bá Chung

02/10/202405:20(Xem: 1679)
Trầm Hùng Thi Ca Nguyễn Bá Chung
tam nhien-nguyen ba chung-02

TRẦM HÙNG
THI CA NGUYỄN BÁ CHUNG


 

 

Nguyễn Bá Chung cùng quê hương đại thi hào Nguyễn Trãi. Một sớm tinh mơ nào, vào cuối thu 1949, nhà thơ mở mắt chào đời nơi vùng quê Định Giàng, Đại Đức, cách chân núi Chí Linh, Hải Dương một đường chim bay. Khoảng giữa năm 1954, mới vừa 6 tuổi đã vội vã chạy theo cha mẹ di cư vào Sài Gòn. Bản chất thông minh, học hành quá xuất sắc, nên được Đại học Brandeis cấp học bổng du học tự túc Hoa Kỳ (1971) và sống định cư luôn bên Mỹ, từ đó cho đến bây giờ.

 

Tuy là một nhà thơ bẩm sinh từ thuở thiếu thời, nhưng trưởng thành, lớn lên trên đất Mỹ xa xôi, nên anh cũng làm Giám đốc chương trình Nghiên cứu Rockefelle, giáo sư Đại học Masachusetts ở Boston, Nguyễn Bá Chung còn hướng dẫn chương trình Trao đổi Văn học Mỹ - Việt Nam. Làm việc chuyên cần, nỗ lực chừng đó đủ rồi. Nghỉ hưu, anh chọn thành phố Boston thơ mộng, sống trọn vẹn với chính mình bằng tâm hồn thơ nhạc mênh mang qua ánh Mắt thời gian:

 

Xin nhớ nhé! Mùa Đông rồi sẽ hết

Đêm sẽ qua như ngày đã trôi đi

Người cho trần gian nụ cười diễm tuyệt

Thì can gì ngày tháng phân ly

 

Những ưu ái đã bao dung tất cả

Những muộn phiền cũng im lặng cưu mang

Thì hề chi số đời đen với đỏ

Thì ngại gì cơn gió dọc hay ngang...

 

Thêm một tuổi để trở thành vũ trụ

Để ươm thêm ánh mắt dậy thời gian

Để thương yêu thêm trần hoàn bất hủ

Mỉm nụ cười rung động với nhân gian...

 

Xúc động, rung động với cát bụi trần gian. Nhạc và thơ là hơi thở, hòa quyện cùng sự tĩnh lặng nội tâm, trầm mặc thăng hoa trên những cung bậc sáng tạo rực rỡ và kết tinh thành các thi phẩm Mưa ngàn (1996) Ngõ Hạnh (1997) Tuổi ngàn năm đến từ buối sơ sinh (1999) Nguồn (2009) Thơ Nguyễn Bá Chung tuyển tập (2022)

 

Những tập thơ tâm đắc này đều được Hội Nhà Văn xuất bản tại Việt Nam. Ngoài thi ca ra, anh còn viết bình luận và là một dịch giả nổi tiếng, đã thực hiện chuyển ngữ Thời xa vắng của Lê Lựu sang tiếng Anh (dịch cùng với Ngô Vĩnh Hải, Kevin Boven, David Hunt) và 2 Tuyển tập Thơ Thiền Lý - Trần, Tuyển tập Thơ Thiền Lê - Nguyễn (cùng dịch với nhà thơ Nguyễn Duy) dịch từ Hán ngữ sang Anh ngữ. Nguyễn Bá Chung cũng đồng chủ biên 12 tuyển tập song ngữ của Văn học Việt Nam, khởi đầu với Tuyển tập Mountain River – Vietnamese Poetry from the wars 1948 - 1993

 

Đặc biệt, Tuyển tập Thơ Thiền Lý – Trần, được Thiền sư Lê Mạnh Thát viết Tựa:

 

“Đọc thơ Thiền Việt Nam như thế sẽ gợi cho ta nhiều suy nghĩ, đặc biệt trong liên hệ với đời sống hiện đại, khi những tiến bộ khoa học đã giúp cho con người có một cuộc sống gần gũi nhau mà những thế kỷ trước, không bao giờ tưởng tượng nổi.  Khi đã sống gần gũi nhau, cũng vì duyên sinh, con người cảm thấy phải có trách nhiệm đối với đồng loại của mình, cũng như đối với thế giới mình đang sống.

 

Việc tập hợp lại một số thơ Thiền tiêu biểu của Việt Nam, giúp người đọc có cái nhìn mới, không chỉ về nền văn hóa trong quá khứ của dân tộc Việt Nam, mà còn từ nền văn hóa quá khứ ấy, xây dựng một lối sống mới trong quan hệ với đồng loại và với thế giới xung quanh.”

 

Hơn nửa kiếp đời tha hương, những phương trời viễn mộng, sống một mình độc hành ca qua khắp mọi miền phiêu linh viễn xứ. Từ trong lòng sâu thẳm của thi nhân, luôn hiện lên chập chờn những hình ảnh thời xưa xa quá khứ. Nhớ một nàng thơ gầy yểu điệu, chiều nao gặp gỡ ven sông, nhớ sớm mai hồng đón nắng lên trên triền đồi cao nguyên thuở nọ, nhớ xóm quê nghèo, thấp thoáng  vạc áo bà ba bên bờ ao giếng nước đầu làng hay nhớ mơ hồ, mang mang tiền kiếp mình hiu hắt dưới vầng trăng lạnh mà dệt thành Bóng nhớ  mộng lao xao:

 

Nhớ ai ai nhớ ai nào

Sầu dâng chín rụng rừng sao rậm trời

Nhớ ai ai nhớ khôn nguôi

Đêm qua chín vực kiếp người hóa sinh

Nhớ ai con mắt cầu kinh

Hóa ra mình lại nhớ mình hắt hiu...

 

Hình ảnh “mình lại nhớ mình” thật mới lạ tân kỳ, gây sự chú ý, chú tâm. Mình là ai đây mà bỗng nhiên, một hôm nhìn lại, thấy lạ lẫm thế này? Giống như Nietzsche, Nguyễn Bá Chung cũng tự hỏi: Tôi là ai? Mang câu hỏi sinh tử ấy, thi nhân cất bước lên đường, đi khắp bến bờ Đông Tây kim cổ, gõ cửa vào Tuyệt Đối để mong có câu trả lời. Rồi bất thần, chợt bùng vỡ trong hố thẳm tâm thức, bừng sáng một cái nhìn mới lạ, thấy ra mọi sự, không phải nằm ngoài ta mà đều do tâm tạo, nghĩa là hoàn toàn ở trong ta:

 

Nên từ đó tôi âm thầm sống lặng

Đuổi bóng mình trong bóng tối tình yêu

Để chợt hiểu một đêm trời chợt vắng

Nhận ra mình trong chiếc bóng hắt hiu

 

Bốn câu thơ trên là khổ cuối trong bài thơ Công chúa Mặt Trời. Tới đây, thi nhân đã “nhận ra mình” rồi, nên thung dung, vô ngại giữa bụi cát Trần gian:

 

Trải khắp trần gian một bóng tôi

Trước sau trên dưới chẳng đâu ngoài

Tình si một khối ba sinh nặng

Bỗng nhẹ như màu trăng sáng trôi...

 

Trần gian hay cuộc đời ấy, phải chăng là một Công án của nhà thơ, suốt ngày đêm quán chiếu lặng thầm?:

 

Xương da Thích Ca còn ấm

Nụ cười Ca Diếp còn tươi

Nghe từ khói sương sinh diệt

Rêu xanh sợi nắng luân hồi

 

Thích Ca còn đó, Ca Diếp còn đây với nụ cười niêm hoa vi tiếu. Bằng con mắt vô tướng thì thấy nụ cười giữa trùng trùng sinh diệt vẫn bất diệt miên trường, nhưng bằng con mắt hữu tướng thì lại thấy thân tâm này, cuộc đời này vần xoay, quay cuồng, cứ sinh sinh, diệt diệt trong biển khổ trầm luân, cứ mãi tái sinh trong vô lượng kiếp luân hồi, như thi nhân thấy mình sinh diệt trôi qua Tuổi ngàn năm:

 

Tôi vẫn là người không tên không tuổi

Chiều ghé ngang rồi sáng lại bay đi

Cỏ mọc xanh xanh lối ngà đá sỏi

Bong bóng thời gian đắng mật dậy thì

 

Tôi vẫn là người không thân không áo

Đường mộng sờn vai ngủ đợ bên làng

Cóng tiếng vọng một ngàn năm lạc chợ

Giữa đêm dài chết lạnh với sương đêm

 

Tôi vẫn là người từ ngàn năm cũ

Tuổi ngàn năm đến từ buổi sơ sinh

Cây bật gốc nhựa vẫn tràn trong máu

Máu lửa tanh hôi ngày tháng im lìm

 

Tôi đứng chết như cây trời chết đứng

Trả lại không gian mọi lá ưu phiền

Rễ gục xuống tận đáy cùng đất mục

Quấn lại nguồn nhung nhớ một chồi non.



tam nhien-nguyen ba chung-4



 

Một chồi non hay một chủng tử rất cần thiết cho nhân sinh, vũ trụ, đất trời sinh sôi nẩy nở. Vì chủng tử là tiềm năng, ẩn tàng của tinh thần, vật chất được chứa sẵn trong tạng thức của mỗi chúng sinh. Bởi thế, chủng tử là kết quả của những tiềm năng mới, sẽ tiếp tục hiện hành và một mối liên hệ trực tiếp với các nhân duyên trước đó nữa. Nhà thơ Nguyễn Bá Chung thường gieo nhiều chủng tử thi ca, nên thường Đọc thơ người xưa:

 

Lần theo lối cỏ con đường

Nghe người xưa gánh vô thường nhẹ không

Đường về xa mấy dòng sông

Xa bao lớp bụi đỏ hồng thời gian

 

Đọc thơ Lý Trần:

 

“Trời còn để có hôm nay”

Ngàn năm thơ gọi một ngày chợt thưa

Núi sông dâu bể bao mùa

Nước đi từ thuở người xưa đặt lời

 

Bia xưa điện cũ bóng ngời

Con đường phía trước một trời ước mơ

Tay không vũ trụ dựng cờ

Dọc ngang cũng một câu thơ Lý - Trần

 

Thời Lý - Trần và thời Lê - Nguyễn là hai thời kỳ, xuất hiện những nhà thơ Thiền tuyệt diệu trong dòng lịch sử Văn học Việt Nam. Hai Tuyển tập Thơ Thiền Lý - Trần Thơ Thiền Lê – Nguyễn, do Nguyễn Bá Chung  miệt mài chọn một số bài thơ trong đó, để dịch sang Anh ngữ. Cống hiến cho độc giả Tây phương những bài thơ Thiền tuyệt vời nhất. Đúng như lời nhà văn Thích Phước An, nói trong Lời giới thiệu bản dịch Thơ Thiền Lê -Nguyễn:

 

“Giáo sư Nguyễn Bá Chung đã sống và giảng dạy tại Mỹ gần nửa thế kỷ qua. Dù sống xa quê huong nhưng lúc nào cũng nặng lòng với đất nước. Trong một điện thư gởi cho tôi mới đây, ông tâm sự:

 

“Thơ Thiền là một tinh túy của văn hóa Việt Nam, không có nó, Việt Nam đã không thể tồn tại được cả ngàn năm qua. Nhờ nó, Việt Nam đã hóa giải được tất cả những mâu thuẫn, những khổ đau, những ngang trái suốt quá trình tồn tại của mình...”

 

Như vậy, theo quan điểm của giáo sư thì Thiền không phải chỉ thuần túy là biểu tượng cho cái đẹp trong đời sống tâm linh mà còn dính chặt đến sinh mệnh sống còn của dân tộc Việt Nam chúng ta nữa...”

 

Điều đó chứng tỏ, Nguyễn Bá Chung rất yêu quý thi ca của các Thiền sư, nhất là thích Tuệ Trung Thượng Sỹ, một thi nhân bất hủ với bài thơ Phóng cuồng ca:

 

“Trời đất liếc trông hề sao thênh thang

Chống gậy chơi rong hề phương ngoài phương

Hoặc cao cao hề mây đỉnh núi

Hoặc sâu sâu hề nước trùng dương

 

Đói thì ăn hề cơm mười phương góp

Mệt thì nghỉ hề nơi chẳng quê hương

Hứng lên hề thổi sáo không lỗ

Lắng xuống hề đốt giải thoát hương

 

Mỏi nghỉ chút hề đất hoan hỷ

Khát uống no hề tiêu dao thang...

Chà chà bóng ngày hề qua khe cửa

Ối ối mây nổi hề mộng giàu sang...”

 

Tương ứng với hồn thơ hùng tâm tráng khí của Tuệ Trung Thượng Sỹ, vì thế trong thơ Nguyễn Bá Chung cũng rạt rào hào sảng, khi thấy bên cánh rừng, bừng nở một cánh Mai, nên cất lên tiếng hát tiêu dao một cách Tự trào lộng chơi:

 

Sống chết chi mà chạy ngược xuôi

Sách vài trăm quyển chữ như rươi

Chân không diệu pháp đây rành hết

Chỉ cái phiền là nhấp nhổm thôi

 

Mới hay nói dễ làm không dễ

Đầu vượn chân dài vạn nỗi tai

Mỏi mòn đôi gót bờ hư thực

Nửa cuộc đời sai vẫn cứ sai

 

Lên xuống thấp cao ngàn ngõ cụt

Ra vào khấp khểnh một đường ngay

Nẻo về không lối hoa dâng Bụt

Bát ngát hương rừng một cánh Mai

 

Một cánh Mai là lấy ý thơ trong bài Cáo tật thị chúng (có bệnh báo mọi người) của Thiền sư Mãn Giác. Bài thơ mượn cảnh để nói lên ý thiền, nhằm khai phóng tâm thức nhân sinh:

 

Xuân khứ bách hoa lạc

Xuân đáo bách hoa khai

Sự trục nhãn tiền quá

Lão tòng đầu thượng lai

Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận

Đình tiền tạc dạ nhất chi mai”

 

(Xuân đi trăm hoa rụng

Xuân đến trăm hoa cười

Trước mắt việc qua mãi

Trên đầu già tới rồi

Đừng tưởng xuân tàn hoa rụng hết

Đêm qua sân trước nở cành Mai)

 

Bài thơ diễn tả sự tàn phai, tơi tả của hoa cỏ, sớm nở chiều tàn và lẽ sinh lão, bệnh tử theo lý vô thường. Tuy nhiên, ẩn phía sau hiện tượng huyễn hóa, vô thường đó, là bản lai diện mục chân thường, vốn không đến không đi, không sinh không diệt...

 

Nguyễn Bá Chung đúng là một thi sỹ Đông phương đích thực, như lời nhận định chính xác của nhà văn Nguyễn Quang Thiều:

 

“Thơ Nguyễn Bá Chung là sự thuần khiết, tinh tế và đầy tính minh triết của tiếng Việt. Vì sao một nhà thơ như Nguyễn Bá Chung, ngày ngày trực tiếp sống trong văn hóa Mỹ, xã hội Mỹ, nền dân chủ Mỹ, các xu hướng thi ca Mỹ cũng như các giá trị Mỹ mà ông vẫn điềm tĩnh trong thế giới ấy và vẫn bước đi trên con đường của chính ông  trong sáng tạo thi ca?

 

Theo cách nhìn của tôi là bởi tâm hồn ông chứa đựng tính nguyên vẹn và thẳm sâu của tinh thần văn hóa Việt. Một trong những điều vô cùng quan trọng là Nguyễn Bá Chung thấu hiểu đạo Phật. Cả hai yếu tố ấy đã tạo dựng nên nền tảng cảm xúc và tư tưởng của thơ Nguyễn Bá Chung một cách bền vững. Những thứ ấy thực sự đã hóa trầm trong tâm hồn ông...”

 

Vâng! Thật vậy, như Cao Huy Thuần Thấy Phật, hân hoan viết cả một tác phẩm nói về cái thấy đó, Bùi Giáng cảm phục Phật và Tiên:

 

Phật ngồi dưới gốc Bồ đề

Tiên nương dừng gót tóc thề chấm vai

Thưa rằng Phật thật là tài

Thấy mà như chẳng từ ngoài vào trong

 

Còn Nguyễn Bá Chung thì cũng đã thấu hiểu Phật giáo Thiền tông và thưởng thức được hương vị cô liêu của cuộc sống, nên rất bồi hồi thốt lên Có niềm vui nào:

 

Có khắc khoải nào hương chín trong đêm

Có đóa hoa nào nở trong thầm lặng

Có nỗi buồn nào sâu như biển cả

Có niềm vui nào như niềm vui hiểu được cuộc đời

 

Một mai mộng sự qua rồi

Ánh trăng chiếu mặt người phơi bóng vàng

 

Mang niềm vui “hiểu được cuộc đời” uống được mạch nguồn tâm đạo uyên nguyên, nên Nguyễn Bá Chung giống như thi sỹ Bùi Giáng, nhạc sỹ Trịnh Công Sơn, các nhà văn Mai Thảo, Nicolai Gogol chọn lối sống độc thân, ưa phiêu bồng tự do, không bị ràng buộc, trói cột, vướng mắc vào trong vòng nhiêu khê thê tử, anh thích Sống một mình:

 

Giữa đời thường một con đường cô lữ

Đi một mình và sống mãi một mình

Đất với trời đã mỏi mòn chờ đợi

Vẫn âm thầm ôm mãi ánh bình minh

 

Ngồi im lặng nghe tiếng hờn vạn cổ

Gió xôn xao ở cuối nẻo trời xa

Người vẫn thấy trần gian mờ nẻo độ

Nên lạnh lùng nói chuyện với xương da

 

Để trở về với nguồn suối ngàn hoa

Sống lặng lẽ với tinh cầu thương mến

Dù cô độc giữa chợ đời đo đếm

Xin nguyện cầu thế giới vỡ trăng yêu

 

Người có biết tháng ngày tròn rồi mất

Ta đâu còn vi vút mãi trần gian

Mỗi giây phút trái tim mình cô lẻ

Là trở về tha thiết cõi trăng ngàn

 

Trở về tha thiết cõi ngàn trăng là thái độ chịu chơi của những tâm hồn sáng tạo, như đại văn hào Henry Miller phát biểu:

 

“Từ chút ít sách vở tôi đã đọc, tôi nghiệm ra rằng, những người lặn lội sâu nhất trong cuộc đời, những người nhồi nặn cuộc đời, những người chính là cuộc đời, đều ăn ít, ngủ ít, thủ hữu ít hay không có gì cả. Họ không có bất kỳ một ảo tưởng nào về bổn phận, hoặc nối dõi tông đường hay duy trì quốc gia. Họ chỉ quan tâm tới Chân lý và Chân lý mà thôi. Họ  chỉ chấp nhận một hình thức hoạt động: Sáng tạo...”

 

Sáng tạo trong cô đơn là bước đi khơi nguồn sáng tạo của những nghệ sỹ lớn trên thế giới. Như Nguyễn Quang Thiều cảm nhận, tiếng thơ Nguyễn Bá Chung đã “hóa trầm hương” tỏa ngát trong lòng sâu thẳm mà đơn sơ, giản dị đó rồi.

 

Mỗi ngày, mỗi tháng, mỗi năm, trầm hương thơ ấy mở ra thênh thang, phiêu lãng, thi sỹ đi khắp chốn mọi nơi trên đất Mỹ. Khi về quê nhà thì thăm viếng Trúc Lâm Yên Tử, Nghi Xuân, Hà Tĩnh, Sông Hương Núi Ngự, Non Nước Ngũ Hành Sơn, rồi Nha Trang, Đà Lạt, xuống đồng bằng Sông Cửu Long, ghé lại Sài Gòn viếng thăm Thiền sư Tuệ Sỹ, Lê Mạnh Thát, lội ngược thời gian về quá khứ thăm đại thi hào Nguyễn Du:

 

“Bất tri tam bách dư niên hậu

Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?”

Một câu hỏi lạnh tràn thế kỷ

Khóc người hay khóc thế gian nhơ?

 

Đường xa ngõ tối đâu ra bạn

Ngơ ngáo đình cung trở gót về

Mũ áo xênh xang lòng có lạnh?

Hồng sơn gió núi ấm chiều quê?

 

Nỗi nhà nỗi nước bao thương hận

Một chữ tâm giằng bao chữ tang

Thiên thu thôi thế là ly biệt

Xa cách muôn trùng sông núi than

 

Người đi muôn thuở trời Nam nhớ

Hồng Lĩnh mây xanh mấy độ rồi

Gió bụi mười năm bao xiết kể

Cõi lòng soi mãi thế nhân ơi!

 

Rồi một chiều phiêu nhiên, bồng tênh đến Gò Vấp thăm Bùi Giáng, cười vang đọc thơ tặng Trung Niên Thi Sỹ:

 

Người du thử làm người điên trần thế

Túi đầy vai quảy thời đại vô tình

Áo vụn vá sống bên lề phố chợ

Giữa trần gian người ngồi hát một mình

 

Câu thơ lạ mênh mang huyền ảo quá

Gọi từ đâu dòng suối vạn nguồn xa

Chiều phố thị người về đâu phố thị

Lá về đâu dâu biển giữa quê cha

 

Tâm sự ấy nghìn năm mưa rớt hột

Những nẻo đường lệ ướt mãi không quên

Người đứng đó làm người điên giữ nước

Để ngàn sau mây trắng chẳng quên nguồn...

 

Nguồn thơ suối nhạc ngân vang, khi Thiền sư Nhất Hạnh, sau hơn 40 năm trời đằng đẵng đi hoằng pháp nơi xứ người, mới được về đất Mẹ. Nhẹ nhàng bước Thiền hành trên quê hương với từng bước chân vững chãi, thảnh thơi:

 

Bốn mươi năm cửa thiền vắng bóng

Cây đa già cằn cỗi gió sương

Thế kỷ lạc bầy kinh lạc tiếng

Rêu bụi mờ phủ lớp đau thương

 

Tim vỡ rạn chờ giờ hoàng đạo

Người trở về dựng lại tình thâm

Từng bước chân thiền hành rất nhẹ

Tỉnh hay mơ – đây lại con đường?

 

Bà cụ già rưng rưng mắt lệ

Bao năm rồi sống lại phút giây

Chú thiền sinh bàng hoàng tỉnh thức

Pháp thoại nào xanh gió xanh cây

 

Cũng pháp ấy – lời tân niên kỷ

Cũng thiền ngồi – hùng tráng uy nghi

Cũng thiền lạy – một thời vô úy

Cũng thiền hành – trời đất cùng đi

 

Giữa quê hương Người về chia sẻ

Bao tháng năm gieo pháp xứ người

Nối lại truyền thông từng thế hệ

Ươm tình thâm – hoa trái cuộc đời

 

Bao trí thức hàn lâm tự hỏi

Lời thoại như nỗi nhớ không cùng

Sao cái học ngày nay chìm nổi

Càng học càng lạc nẻo mê cung

 

Từng hơi thở đã về đã tới

Hiện pháp môn bây giờ ở đây

Tâm buông thư thảnh thơi vững chãi

Bước thiền hành pháp lực tuyệt thay!

 

Thẳng hướng Xuân đã về đã đến

Dọc ngang vô niệm lại vô tranh

Đèn tâm tỏa rạng ngời thế giới

Gieo pháp Đông Tây đạo đại thành

 

Hãy trân trọng ngôi nhà Vô úy

Ôm thương đau mọi nẻo quê nhà

Thắp niềm tin trên ngàn gãy đổ

Đơm cội nguồn đất Mẹ phù sa...

 

Bài thơ tuy dài nhưng vẫn chưa nói hết hành trạng của Nhất Hạnh, một Thiền sư thi sỹ gần nửa thế kỷ đi hoằng hóa pháp Thiền Hiện pháp lạc trú tận bên trời Tây phương xa thẳm.

 

Năm 2005, Thầy được phép trở về quê nhà, quy hồi cố quận và việc đầu tiên là lên thăm Phương Bối Am trên rừng cao Bảo Lộc và viếng Thiền sư Thanh Từ trên núi Phụng Hoàng, Đà Lạt. Thật là hy hữu, buổi tao phùng, trùng ngộ lịch sử, Cuộc tái ngộ của hai Thiền sư:

 

Từ bốn phương trời Người trở lại

Đường xa bụi bám cỏ giăng đầy

Giấc mộng chuyển trời Phương Bối nguyện

Yên Tử quê nhà mây trắng bay

 

Thế giới loạn cuồng bom đạn nổ

Thân người cháy rụi lửa hờn cao

Chén trà đạo vị - bao năm – nhấp

Giọt nước cành dương sóng sánh trào...

 

Tay lại nắm tay hồn đất nước

Mái chùa lưu lạc đã bao phương

Tìm về đất Mẹ dâng hương Tổ

Phổ độ quần sinh đoạn đoạn trường

 

Đại Lào ngõ tịnh bao ngày tháng

Khói đỏ thôn nghèo đất nước phân

Phương Bối ai ngồi trong tịch mặc

Đâu con đường thoát cứu muôn dân

 

Hương rừng Đà Lạt hoa đương nở

Đón người khách đến tự phương xa

Gió rừng như muốn ôm chân lại

Bạn cũ nguyền xưa chẳng nhạt nhòa

 

Rồi mai Người sẽ về nơi ấy

Ôm cả trần gian gói vết thương

Dù ở cách xa ngàn cánh nhạn

Niềm đau xin rửa với vô thường

 

Nguồn xưa cội gốc là cố quận, quê hương,  là Bản tâm tự tánh thanh tịnh, nên kẻ tha phương Nguyễn Bá Chung cũng thường hay trở về Việt Nam để ấm chút tình quê.

 

Ngày xưa xa ra đi, thi sỹ chỉ mang theo trong túi hành trang, một vài bài thơ của Nguyễn Du, Bùi Giáng. Bây giờ trở về cũng vẫn Bùi Giáng, Nguyễn Du và đương nhiên là của chính thi nhân nữa, sau muôn trùng cuộc lữ quay về, thấy mình Bước qua năm tháng:

 

Tôi sẽ bước qua những miền xa lạ

Cỏ dại màu một nẻo rất quê hương

Càng lớn lên tôi càng hiểu bình thường

Điều kỳ diệu mong manh trên lá cỏ

 

Tôi sẽ đến con đường về nơi đó

Chỗ đi về của năm tháng không quên

Dù khổ đau dù sóng gió muộn phiền

Vẫn thầm lặng nở hương trầm rất lạ...



tam nhien-nguyen ba chung-05

Tâm Nhiên với anh Nguyễn Bá Chung và thầy Nguyễn Thế Đăng

ngồi chơi trong vườn chùa Phổ Quang ở Quận 12, Sài Gòn (4. 2017)




 

“Hương trầm rất lạ” ấy chỉ có chính nhà thơ thưởng thức được, vì tâm hồn thi nhân đã bừng chiếu, thấy được “điều kỳ diệu” ngay trong từng sự vật rất nhỏ, trên từng ngọn cỏ lá cây...Đấy là trạng thái trực ngộ “tâm bình thường là đạo” mà nhà thơ đã chứng vào rồi.

 

Thi sỹ quy hồi cố quận trên tinh thần an tịnh “bình thường tâm thị đạo” ấy, nên cứ thư thả, dạo gót nhàn du, trầm hùng qua khắp mọi nẻo hồn chốn quê...

 

Thế là duyên lành hạnh ngộ, tháng 4 năm 2017 du sỹ này được diện kiến, bắt tay với người thi sỹ tài hoa kia tại Sài Gòn. Rót vài ly kỳ ngộ, rồi dẫn anh đi chơi đây đó khắp phố thị, đến thăm quý thầy Tuệ Sỹ, Đức Thắng, Nguyễn Thế Đăng trọn dăm ba ngày say nắng gió thi ca...

 

Đến lúc tạm biệt, du sỹ kính tặng anh một bài thơ, thay lời cảm tạ tấm lòng bát ngát của anh. Anh nói, khi trao cho một bì thư dày cộm: “Gọi là góp chút phần ủng hộ ấn hành, xuất bản Diệu Tâm Ca cho vui thôi mà”. Du sỹ liền đọc bài thơ Trầm hùng thi ca Nguyễn Bá Chung:

 

Từ Mưa ngàn* thi ca tuôn đổ xuống

Dịu nhân gian mát cả dặm đăng trình

Người thi sỹ đi về qua Ngõ Hạnh*

Tuổi ngàn năm đến từ buổi sơ sinh*

 

Tình văn nghệ cũng đủ rồi tri kỷ

Khi gặp nhau ở tận bến đầu Nguồn*

Nguồn sáng tạo khởi nguyên vô tận xứ

Trôi về đây bất tuyệt chảy xanh luôn

 

Luôn trân trọng trong niềm sâu xúc động

Không còn chi nói thêm nữa bây giờ

Chỉ lặng im trước tấm lòng rộng lượng

Trước tâm hồn bát ngát cả trời thơ...

 

*Thơ Nguyễn Bá Chung

 

Tâm Nhiên
(Ngũ Hành Sơn 1.. 10. 2024)
 
 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
06/08/2018(Xem: 7565)
Miền đất võ Bình Định cũng là miền đất Phật, miến “Đất LànhChim Đậu”, được nhiềuchư thiền Tổ ghé bước hoằng hóa và chư tôn thiền đức bản địa xây dựng mạnh mạch Phật đạo từ trong sâu thẳm, qua nhiểu giai đọan, thời gian, đã xây dựng nên hình ảnh Phật giáo Bình Định rạng rở như ngày hôm nay. Đặc biệt trước tiên có thể kề đến Tổ Nguyên Thiều ( 1648 – 1728 ), Hòa thượng Thích Phước Huệ ( 1875 – 1963 ), Hòa Thượng Bích Liên-Trí Hải ( 1876 – 1950 ), v…v…Nêu chúng ta tính từ thời chúa Nguyễn Phúc Tần ( 1619 – 1682 ), khi Tổ Nguyên Thiều từ Quảng Đông (Trung Quốc) sang An Nam và an trú ở Quy Ninh (tức Bình Định ngày nay) vào năm Ất Tỵ (1665 ) và kiến tạo chùa Thập Tháp Di Đà , thí Phật giáo Bình Định đã thực sự bước vào trang sử chung trong công cuộc hoằng hóa của Phật giáo Việt Nam. Hơn thế nữa, Tổ Nguyên Thiều còn là cầu nối giữa Phật giáo hai nước An Nam và Trung Hoa, trao đổi nhiều kinh điền có giá trị để cùng nhau tu học. Điều này cho thấy, lý tưởng Từ Bi và con đường hoằng
05/08/2018(Xem: 3545)
Thời gian như bóng câu qua cửa sổ, mới đó mà đã mấy chục năm theo bốn mùa thay lá thay hoa và đời riêng của mỗi người có quá nhiều đổi thay. Ngồi nhớ lại những kỷ niệm thời còn đi dạy trường Sương Nguyệt Anh, biết bao nhiêu vui buồn lẫn lộn ngập tràn làm xao xuyến cả tâm tư! Hình ảnh buổi lễ bế giảng năm học 1978 bỗng rõ lên trong ký ức tôi như một đóm lửa nhóm trong vườn khuya. Năm đó tôi dạy tới ba bốn lớp 12, lớp thi nên cả Thầy trò mệt nhoài. Không đủ giờ ở lớp nên nhiều khi tôi phải vừa dạy thêm vào sáng Chủ Nhật, vậy mà các em vẫn đi học đầy đủ. Tới ngày bế giảng Cô trò mới tạm hoàn tất chương trình, như trút được gánh nặng ngàn cân ! Hôm đó, tôi lại được Ban Giám Hiệu phân công trông coi trật tự lớp 12C1, có nghĩa là phải quan sát bắt các em ngồi ở sân trường phải yên lặng chăm chú theo dõi chương trình buổi lễ, nghe huấn từ của ban Giám Hiệu.
03/08/2018(Xem: 3501)
ĐA TẠ VÀ TRI ÂN Những nhà dịch thuật kinh sách Nam Tông, Bắc Tông và Mật Tông Không hiểu từ bao giờ khi đã bước vào thế giới triết học, khoa học và tôn giáo của Đạo Phật, mặc dù nghe rất nhiều pháp thoại đủ mọi trình độ tôi vẫn không tin có THỜI MẠT PHÁP. Vì sao vậy? Có lẽ lý do tôi biện minh sẽ không được nhiều người chấp nhận, nhưng theo thiển ý của tôi, từ khi nền công nghệ văn minh vi tính hiện đại phát triển, ta không cần chờ đợi một quyển sách được in ra và chờ đợi có phương tiện thích nghi để giữ nó trong tủ sách gia đình, ta vẫn có thể theo dõi qua mạng những bài kinh luật luận được dịch từ tiếng Pali hay Sankrit hoặc những bản Anh Ngữ, Pháp ngữ mà người đọc dù có trình độ học vấn vào mức trung trung vẫn không tài nào hiểu rõ từng lời của bản gốc.
03/08/2018(Xem: 11210)
Hàn Mặc Tử hay Hàn Mạc Tử, tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh ngày 22 tháng 9 năm 1912 – từ trần ngày 11 tháng 11 năm 1940 là nhà thơ nổi tiếng, khởi đầu cho dòng thơ lãng mạn hiện đại Việt Nam, là người khởi xướng ra Trường thơ Loạn. Hàn Mặc Tử cùng với Quách Tấn, Yến Lan, Chế Lan Viên được người đương thời ở Bình Định gọi là Bàn thành tứ hữu, Bốn người bạn ở thành Đồ Bàn. Hàn Mặc Tử tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh ở làng Lệ Mỹ, Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình; lớn lên ở Quy Nhơn, tỉnh Bình Định. Tổ tiên Hàn Mặc Tử gốc họ Phạm ở Thanh Hóa. Ông cố là Phạm Chương vì liên quan đến quốc sự, gia đình bị truy nã, nên người con trai là Phạm Bồi phải di chuyển vào Thừa Thiên – Huế đổi họ Nguyễn theo mẫu tánh. Sinh ra ông Nguyễn Văn Toản lấy vợ là Nguyễn Thị Duy (con cụ Nguyễn Long, ngự y có danh thời vua Tự Đức), Hàn Mạc Tử, Lệ Thanh, Phong Trần là các bút danh khác của ông. Ông có tài năng làm thơ từ rất sớm khi mới 16 tuổi. Ông đã từng gặp gỡ Phan Bội Châu và chịu ảnh hưởng khá lớn của
29/07/2018(Xem: 3959)
Nhà văn Hoàng Mai Đạt --cũng là Chủ Bút Nhật Báo Viễn Đông -- cho biết số báo ra mắt đã mất nhiều tháng mới làm xong, nhưng hy vọng tương lai sẽ được chư tôn đức Tăng Ni và quý cư sĩ hỗ trợ để thuận lợi cho việc hoằng pháp. Số ra mắt Tinh Tấn Magazine in trên giấy láng, nhiều màu, dày 90 trang, khổ báo tạp chí. Trong số ra mắt Tinh Tấn Magazine, có nhiều bài tập trung chủ đề Quan Thế Âm Bổ Tát hoặc chủ đề từ bi, trong đó có bài: Hạnh Nguyện Cứu Độ Chúng Sanh của Đức Quán Thế Âm (tác giả HT Thích Tịnh Từ);
21/06/2018(Xem: 3445)
Phần này bàn về các cách gọi thời gian như giờ, ngày, tháng trong tiếng Việt vào thời LM de Rhodes sang An Nam truyền đạo. Tài liệu tham khảo chính của bài viết là các tác phẩm Nôm của LM Maiorica và Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC), Phép Giảng Tám Ngày (PGTN) và từ điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là từ điển Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra từ điển này trên mạng, như trang này chẳng hạn http://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&f=false.
14/06/2018(Xem: 10782)
Khoảng tháng 3 vừa rồi, Hòa Thượng Thích Như Điển, Phương Trượng Chùa Viên Giác (Đức Quốc) gởi cho chúng tôi bản final cuốn Mối Tơ Vương Của Huyền Trân Công Chúa với lời dặn dò: viết Lời cuối sách. Đọc thư Thầy, chúng tôi vô cùng băn khoăn, lo lắng và hơi bị “ngộp” dưới cái bóng quá lớn và ảnh hưởng rộng khắp của Thầy. Chúng tôi “ngại” vì biết Thầy có nhiều mối quan hệ thân thiết với các bậc tài danh khắp nơi. Ngược lại, chúng tôi chỉ là kẻ sơ học nhiều mặt mà lại dám chắp bút viết Lời cuối sách này? Chúng tôi rất đắn đo trước cái vinh dự to lớn ấy, trước cái trách nhiệm nặng nề này. Nhưng rồi anh Văn Công Tuấn nhiều lần “trấn an”, khích lệ. Và rồi, lại nghĩ rằng, Thầy Như Điển có lòng ưu ái, thương tưởng và muốn tạo điều kiện cho chúng tôi trong bước đầu tập tễnh học Phật. Xin cung kính niệm ân Thầy; và cũng qua đây kính mong quý vị độc giả thông cảm và lượng thứ cho những thiếu sót và non nớt không sao tránh khỏi, dù đã có nhiều
09/06/2018(Xem: 6808)
Tóm lược Khác với hầu hết những cộng đồng sắc tộc tại Úc Châu, người Việt đã đến đây thật đông đảo trong một thời gian tương đối ngắn, khi xã hội văn hóa đa nguyên của đất nước định cư nầy hãy còn trong tình trạng non trẻ. Sự hiện diện của một cộng đồng thiểu số Châu Á mà hình dáng bên ngoài dễ nhìn thấy, dễ nhận dạng, đã là một thách đố lớn lao cho giới lãnh đạo chính trị tại Úc, và sự bao dung của công chúng Úc nóí chung.
21/05/2018(Xem: 12380)
Một Cõi Đi Về Thơ & Tạp Bút Tập 3_Thích Phước Thái
10/05/2018(Xem: 4260)
Đó là tên được đặt cho tác phẩm nhiếp ảnh đầu tiên của tôi. Ảnh chụp năm 1993, bằng Máy ảnh Pentax cũ, mua được từ Tòa soạn Báo Khánh Hòa đợt thanh lý, với giá thời điểm đó là 100.000 đồng. Người mẫu: "Con gái rượu" Tịnh Thủy lúc được 2 tuổi.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]