Nguyễn Bá Chung cùng quê hương đại thi hào Nguyễn Trãi. Một sớm tinh mơ nào, vào cuối thu 1949, nhà thơ mở mắt chào đời nơi vùng quê Định Giàng, Đại Đức, cách chân núi Chí Linh, Hải Dương một đường chim bay. Khoảng giữa năm 1954, mới vừa 6 tuổi đã vội vã chạy theo cha mẹ di cư vào Sài Gòn. Bản chất thông minh, học hành quá xuất sắc, nên được Đại học Brandeis cấp học bổng du học tự túc Hoa Kỳ (1971) và sống định cư luôn bên Mỹ, từ đó cho đến bây giờ.
Tuy là một nhà thơ bẩm sinh từ thuở thiếu thời, nhưng trưởng thành, lớn lên trên đất Mỹ xa xôi, nên anh cũng làm Giám đốc chương trình Nghiên cứu Rockefelle, giáo sư Đại học Masachusetts ở Boston, Nguyễn Bá Chung còn hướng dẫn chương trình Trao đổi Văn học Mỹ - Việt Nam. Làm việc chuyên cần, nỗ lực chừng đó đủ rồi. Nghỉ hưu, anh chọn thành phố Boston thơ mộng, sống trọn vẹn với chính mình bằng tâm hồn thơ nhạc mênh mang qua ánh Mắt thời gian:
Xin nhớ nhé! Mùa Đông rồi sẽ hết
Đêm sẽ qua như ngày đã trôi đi
Người cho trần gian nụ cười diễm tuyệt
Thì can gì ngày tháng phân ly
Những ưu ái đã bao dung tất cả
Những muộn phiền cũng im lặng cưu mang
Thì hề chi số đời đen với đỏ
Thì ngại gì cơn gió dọc hay ngang...
Thêm một tuổi để trở thành vũ trụ
Để ươm thêm ánh mắt dậy thời gian
Để thương yêu thêm trần hoàn bất hủ
Mỉm nụ cười rung động với nhân gian...
Xúc động, rung động với cát bụi trần gian. Nhạc và thơ là hơi thở, hòa quyện cùng sự tĩnh lặng nội tâm, trầm mặc thăng hoa trên những cung bậc sáng tạo rực rỡ và kết tinh thành các thi phẩm Mưa ngàn (1996) Ngõ Hạnh (1997) Tuổi ngàn năm đến từ buối sơ sinh (1999) Nguồn (2009) Thơ Nguyễn Bá Chung tuyển tập (2022)
Những tập thơ tâm đắc này đều được Hội Nhà Văn xuất bản tại Việt Nam. Ngoài thi ca ra, anh còn viết bình luận và là một dịch giả nổi tiếng, đã thực hiện chuyển ngữ Thời xa vắng của Lê Lựu sang tiếng Anh (dịch cùng với Ngô Vĩnh Hải, Kevin Boven, David Hunt) và 2 Tuyển tập Thơ Thiền Lý - Trần, Tuyển tập Thơ Thiền Lê - Nguyễn (cùng dịch với nhà thơ Nguyễn Duy) dịch từ Hán ngữ sang Anh ngữ. Nguyễn Bá Chung cũng đồng chủ biên 12 tuyển tập song ngữ của Văn học Việt Nam, khởi đầu với Tuyển tập Mountain River – Vietnamese Poetry from the wars 1948 - 1993
Đặc biệt, Tuyển tập Thơ Thiền Lý – Trần, được Thiền sư Lê Mạnh Thát viết Tựa:
“Đọc thơ Thiền Việt Nam như thế sẽ gợi cho ta nhiều suy nghĩ, đặc biệt trong liên hệ với đời sống hiện đại, khi những tiến bộ khoa học đã giúp cho con người có một cuộc sống gần gũi nhau mà những thế kỷ trước, không bao giờ tưởng tượng nổi. Khi đã sống gần gũi nhau, cũng vì duyên sinh, con người cảm thấy phải có trách nhiệm đối với đồng loại của mình, cũng như đối với thế giới mình đang sống.
Việc tập hợp lại một số thơ Thiền tiêu biểu của Việt Nam, giúp người đọc có cái nhìn mới, không chỉ về nền văn hóa trong quá khứ của dân tộc Việt Nam, mà còn từ nền văn hóa quá khứ ấy, xây dựng một lối sống mới trong quan hệ với đồng loại và với thế giới xung quanh.”
Hơn nửa kiếp đời tha hương, những phương trời viễn mộng, sống một mình độc hành ca qua khắp mọi miền phiêu linh viễn xứ. Từ trong lòng sâu thẳm của thi nhân, luôn hiện lên chập chờn những hình ảnh thời xưa xa quá khứ. Nhớ một nàng thơ gầy yểu điệu, chiều nao gặp gỡ ven sông, nhớ sớm mai hồng đón nắng lên trên triền đồi cao nguyên thuở nọ, nhớ xóm quê nghèo, thấp thoáng vạc áo bà ba bên bờ ao giếng nước đầu làng hay nhớ mơ hồ, mang mang tiền kiếp mình hiu hắt dưới vầng trăng lạnh mà dệt thành Bóng nhớ mộng lao xao:
Nhớ ai ai nhớ ai nào
Sầu dâng chín rụng rừng sao rậm trời
Nhớ ai ai nhớ khôn nguôi
Đêm qua chín vực kiếp người hóa sinh
Nhớ ai con mắt cầu kinh
Hóa ra mình lại nhớ mình hắt hiu...
Hình ảnh “mình lại nhớ mình” thật mới lạ tân kỳ, gây sự chú ý, chú tâm. Mình là ai đây mà bỗng nhiên, một hôm nhìn lại, thấy lạ lẫm thế này? Giống như Nietzsche, Nguyễn Bá Chung cũng tự hỏi: Tôi là ai? Mang câu hỏi sinh tử ấy, thi nhân cất bước lên đường, đi khắp bến bờ Đông Tây kim cổ, gõ cửa vào Tuyệt Đối để mong có câu trả lời. Rồi bất thần, chợt bùng vỡ trong hố thẳm tâm thức, bừng sáng một cái nhìn mới lạ, thấy ra mọi sự, không phải nằm ngoài ta mà đều do tâm tạo, nghĩa là hoàn toàn ở trong ta:
Nên từ đó tôi âm thầm sống lặng
Đuổi bóng mình trong bóng tối tình yêu
Để chợt hiểu một đêm trời chợt vắng
Nhận ra mình trong chiếc bóng hắt hiu
Bốn câu thơ trên là khổ cuối trong bài thơ Công chúa Mặt Trời. Tới đây, thi nhân đã “nhận ra mình” rồi, nên thung dung, vô ngại giữa bụi cát Trần gian:
Trải khắp trần gian một bóng tôi
Trước sau trên dưới chẳng đâu ngoài
Tình si một khối ba sinh nặng
Bỗng nhẹ như màu trăng sáng trôi...
Trần gian hay cuộc đời ấy, phải chăng là một Công án của nhà thơ, suốt ngày đêm quán chiếu lặng thầm?:
Xương da Thích Ca còn ấm
Nụ cười Ca Diếp còn tươi
Nghe từ khói sương sinh diệt
Rêu xanh sợi nắng luân hồi
Thích Ca còn đó, Ca Diếp còn đây với nụ cười niêm hoa vi tiếu. Bằng con mắt vô tướng thì thấy nụ cười giữa trùng trùng sinh diệt vẫn bất diệt miên trường, nhưng bằng con mắt hữu tướng thì lại thấy thân tâm này, cuộc đời này vần xoay, quay cuồng, cứ sinh sinh, diệt diệt trong biển khổ trầm luân, cứ mãi tái sinh trong vô lượng kiếp luân hồi, như thi nhân thấy mình sinh diệt trôi qua Tuổi ngàn năm:
Tôi vẫn là người không tên không tuổi
Chiều ghé ngang rồi sáng lại bay đi
Cỏ mọc xanh xanh lối ngà đá sỏi
Bong bóng thời gian đắng mật dậy thì
Tôi vẫn là người không thân không áo
Đường mộng sờn vai ngủ đợ bên làng
Cóng tiếng vọng một ngàn năm lạc chợ
Giữa đêm dài chết lạnh với sương đêm
Tôi vẫn là người từ ngàn năm cũ
Tuổi ngàn năm đến từ buổi sơ sinh
Cây bật gốc nhựa vẫn tràn trong máu
Máu lửa tanh hôi ngày tháng im lìm
Tôi đứng chết như cây trời chết đứng
Trả lại không gian mọi lá ưu phiền
Rễ gục xuống tận đáy cùng đất mục
Quấn lại nguồn nhung nhớ một chồi non.
Một chồi non hay một chủng tử rất cần thiết cho nhân sinh, vũ trụ, đất trời sinh sôi nẩy nở. Vì chủng tử là tiềm năng, ẩn tàng của tinh thần, vật chất được chứa sẵn trong tạng thức của mỗi chúng sinh. Bởi thế, chủng tử là kết quả của những tiềm năng mới, sẽ tiếp tục hiện hành và một mối liên hệ trực tiếp với các nhân duyên trước đó nữa. Nhà thơ Nguyễn Bá Chung thường gieo nhiều chủng tử thi ca, nên thường Đọc thơ người xưa:
Lần theo lối cỏ con đường
Nghe người xưa gánh vô thường nhẹ không
Đường về xa mấy dòng sông
Xa bao lớp bụi đỏ hồng thời gian
Đọc thơ Lý Trần:
“Trời còn để có hôm nay”
Ngàn năm thơ gọi một ngày chợt thưa
Núi sông dâu bể bao mùa
Nước đi từ thuở người xưa đặt lời
Bia xưa điện cũ bóng ngời
Con đường phía trước một trời ước mơ
Tay không vũ trụ dựng cờ
Dọc ngang cũng một câu thơ Lý - Trần
Thời Lý - Trần và thời Lê - Nguyễn là hai thời kỳ, xuất hiện những nhà thơ Thiền tuyệt diệu trong dòng lịch sử Văn học Việt Nam. Hai Tuyển tập Thơ Thiền Lý - Trần và Thơ Thiền Lê – Nguyễn, do Nguyễn Bá Chung miệt mài chọn một số bài thơ trong đó, để dịch sang Anh ngữ. Cống hiến cho độc giả Tây phương những bài thơ Thiền tuyệt vời nhất. Đúng như lời nhà văn Thích Phước An, nói trong Lời giới thiệu bản dịch Thơ Thiền Lê -Nguyễn:
“Giáo sư Nguyễn Bá Chung đã sống và giảng dạy tại Mỹ gần nửa thế kỷ qua. Dù sống xa quê huong nhưng lúc nào cũng nặng lòng với đất nước. Trong một điện thư gởi cho tôi mới đây, ông tâm sự:
“Thơ Thiền là một tinh túy của văn hóa Việt Nam, không có nó, Việt Nam đã không thể tồn tại được cả ngàn năm qua. Nhờ nó, Việt Nam đã hóa giải được tất cả những mâu thuẫn, những khổ đau, những ngang trái suốt quá trình tồn tại của mình...”
Như vậy, theo quan điểm của giáo sư thì Thiền không phải chỉ thuần túy là biểu tượng cho cái đẹp trong đời sống tâm linh mà còn dính chặt đến sinh mệnh sống còn của dân tộc Việt Nam chúng ta nữa...”
Điều đó chứng tỏ, Nguyễn Bá Chung rất yêu quý thi ca của các Thiền sư, nhất là thích Tuệ Trung Thượng Sỹ, một thi nhân bất hủ với bài thơ Phóng cuồng ca:
“Trời đất liếc trông hề sao thênh thang
Chống gậy chơi rong hề phương ngoài phương
Hoặc cao cao hề mây đỉnh núi
Hoặc sâu sâu hề nước trùng dương
Đói thì ăn hề cơm mười phương góp
Mệt thì nghỉ hề nơi chẳng quê hương
Hứng lên hề thổi sáo không lỗ
Lắng xuống hề đốt giải thoát hương
Mỏi nghỉ chút hề đất hoan hỷ
Khát uống no hề tiêu dao thang...
Chà chà bóng ngày hề qua khe cửa
Ối ối mây nổi hề mộng giàu sang...”
Tương ứng với hồn thơ hùng tâm tráng khí của Tuệ Trung Thượng Sỹ, vì thế trong thơ Nguyễn Bá Chung cũng rạt rào hào sảng, khi thấy bên cánh rừng, bừng nở một cánh Mai, nên cất lên tiếng hát tiêu dao một cách Tự trào lộng chơi:
Sống chết chi mà chạy ngược xuôi
Sách vài trăm quyển chữ như rươi
Chân không diệu pháp đây rành hết
Chỉ cái phiền là nhấp nhổm thôi
Mới hay nói dễ làm không dễ
Đầu vượn chân dài vạn nỗi tai
Mỏi mòn đôi gót bờ hư thực
Nửa cuộc đời sai vẫn cứ sai
Lên xuống thấp cao ngàn ngõ cụt
Ra vào khấp khểnh một đường ngay
Nẻo về không lối hoa dâng Bụt
Bát ngát hương rừng một cánh Mai
Một cánh Mai là lấy ý thơ trong bài Cáo tật thị chúng (có bệnh báo mọi người) của Thiền sư Mãn Giác. Bài thơ mượn cảnh để nói lên ý thiền, nhằm khai phóng tâm thức nhân sinh:
“Xuân khứ bách hoa lạc
Xuân đáo bách hoa khai
Sự trục nhãn tiền quá
Lão tòng đầu thượng lai
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai”
(Xuân đi trăm hoa rụng
Xuân đến trăm hoa cười
Trước mắt việc qua mãi
Trên đầu già tới rồi
Đừng tưởng xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua sân trước nở cành Mai)
Bài thơ diễn tả sự tàn phai, tơi tả của hoa cỏ, sớm nở chiều tàn và lẽ sinh lão, bệnh tử theo lý vô thường. Tuy nhiên, ẩn phía sau hiện tượng huyễn hóa, vô thường đó, là bản lai diện mục chân thường, vốn không đến không đi, không sinh không diệt...
Nguyễn Bá Chung đúng là một thi sỹ Đông phương đích thực, như lời nhận định chính xác của nhà văn Nguyễn Quang Thiều:
“Thơ Nguyễn Bá Chung là sự thuần khiết, tinh tế và đầy tính minh triết của tiếng Việt. Vì sao một nhà thơ như Nguyễn Bá Chung, ngày ngày trực tiếp sống trong văn hóa Mỹ, xã hội Mỹ, nền dân chủ Mỹ, các xu hướng thi ca Mỹ cũng như các giá trị Mỹ mà ông vẫn điềm tĩnh trong thế giới ấy và vẫn bước đi trên con đường của chính ông trong sáng tạo thi ca?
Theo cách nhìn của tôi là bởi tâm hồn ông chứa đựng tính nguyên vẹn và thẳm sâu của tinh thần văn hóa Việt. Một trong những điều vô cùng quan trọng là Nguyễn Bá Chung thấu hiểu đạo Phật. Cả hai yếu tố ấy đã tạo dựng nên nền tảng cảm xúc và tư tưởng của thơ Nguyễn Bá Chung một cách bền vững. Những thứ ấy thực sự đã hóa trầm trong tâm hồn ông...”
Vâng! Thật vậy, như Cao Huy Thuần Thấy Phật, hân hoan viết cả một tác phẩm nói về cái thấy đó, Bùi Giáng cảm phục Phật và Tiên:
Phật ngồi dưới gốc Bồ đề
Tiên nương dừng gót tóc thề chấm vai
Thưa rằng Phật thật là tài
Thấy mà như chẳng từ ngoài vào trong
Còn Nguyễn Bá Chung thì cũng đã thấu hiểu Phật giáo Thiền tông và thưởng thức được hương vị cô liêu của cuộc sống, nên rất bồi hồi thốt lên Có niềm vui nào:
Có khắc khoải nào hương chín trong đêm
Có đóa hoa nào nở trong thầm lặng
Có nỗi buồn nào sâu như biển cả
Có niềm vui nào như niềm vui hiểu được cuộc đời
Một mai mộng sự qua rồi
Ánh trăng chiếu mặt người phơi bóng vàng
Mang niềm vui “hiểu được cuộc đời” uống được mạch nguồn tâm đạo uyên nguyên, nên Nguyễn Bá Chung giống như thi sỹ Bùi Giáng, nhạc sỹ Trịnh Công Sơn, các nhà văn Mai Thảo, Nicolai Gogol chọn lối sống độc thân, ưa phiêu bồng tự do, không bị ràng buộc, trói cột, vướng mắc vào trong vòng nhiêu khê thê tử, anh thích Sống một mình:
Giữa đời thường một con đường cô lữ
Đi một mình và sống mãi một mình
Đất với trời đã mỏi mòn chờ đợi
Vẫn âm thầm ôm mãi ánh bình minh
Ngồi im lặng nghe tiếng hờn vạn cổ
Gió xôn xao ở cuối nẻo trời xa
Người vẫn thấy trần gian mờ nẻo độ
Nên lạnh lùng nói chuyện với xương da
Để trở về với nguồn suối ngàn hoa
Sống lặng lẽ với tinh cầu thương mến
Dù cô độc giữa chợ đời đo đếm
Xin nguyện cầu thế giới vỡ trăng yêu
Người có biết tháng ngày tròn rồi mất
Ta đâu còn vi vút mãi trần gian
Mỗi giây phút trái tim mình cô lẻ
Là trở về tha thiết cõi trăng ngàn
Trở về tha thiết cõi ngàn trăng là thái độ chịu chơi của những tâm hồn sáng tạo, như đại văn hào Henry Miller phát biểu:
“Từ chút ít sách vở tôi đã đọc, tôi nghiệm ra rằng, những người lặn lội sâu nhất trong cuộc đời, những người nhồi nặn cuộc đời, những người chính là cuộc đời, đều ăn ít, ngủ ít, thủ hữu ít hay không có gì cả. Họ không có bất kỳ một ảo tưởng nào về bổn phận, hoặc nối dõi tông đường hay duy trì quốc gia. Họ chỉ quan tâm tới Chân lý và Chân lý mà thôi. Họ chỉ chấp nhận một hình thức hoạt động: Sáng tạo...”
Sáng tạo trong cô đơn là bước đi khơi nguồn sáng tạo của những nghệ sỹ lớn trên thế giới. Như Nguyễn Quang Thiều cảm nhận, tiếng thơ Nguyễn Bá Chung đã “hóa trầm hương” tỏa ngát trong lòng sâu thẳm mà đơn sơ, giản dị đó rồi.
Mỗi ngày, mỗi tháng, mỗi năm, trầm hương thơ ấy mở ra thênh thang, phiêu lãng, thi sỹ đi khắp chốn mọi nơi trên đất Mỹ. Khi về quê nhà thì thăm viếng Trúc Lâm Yên Tử, Nghi Xuân, Hà Tĩnh, Sông Hương Núi Ngự, Non Nước Ngũ Hành Sơn, rồi Nha Trang, Đà Lạt, xuống đồng bằng Sông Cửu Long, ghé lại Sài Gòn viếng thăm Thiền sư Tuệ Sỹ, Lê Mạnh Thát, lội ngược thời gian về quá khứ thăm đại thi hào Nguyễn Du:
“Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?”
Một câu hỏi lạnh tràn thế kỷ
Khóc người hay khóc thế gian nhơ?
Đường xa ngõ tối đâu ra bạn
Ngơ ngáo đình cung trở gót về
Mũ áo xênh xang lòng có lạnh?
Hồng sơn gió núi ấm chiều quê?
Nỗi nhà nỗi nước bao thương hận
Một chữ tâm giằng bao chữ tang
Thiên thu thôi thế là ly biệt
Xa cách muôn trùng sông núi than
Người đi muôn thuở trời Nam nhớ
Hồng Lĩnh mây xanh mấy độ rồi
Gió bụi mười năm bao xiết kể
Cõi lòng soi mãi thế nhân ơi!
Rồi một chiều phiêu nhiên, bồng tênh đến Gò Vấp thăm Bùi Giáng, cười vang đọc thơ tặng Trung Niên Thi Sỹ:
Người du thử làm người điên trần thế
Túi đầy vai quảy thời đại vô tình
Áo vụn vá sống bên lề phố chợ
Giữa trần gian người ngồi hát một mình
Câu thơ lạ mênh mang huyền ảo quá
Gọi từ đâu dòng suối vạn nguồn xa
Chiều phố thị người về đâu phố thị
Lá về đâu dâu biển giữa quê cha
Tâm sự ấy nghìn năm mưa rớt hột
Những nẻo đường lệ ướt mãi không quên
Người đứng đó làm người điên giữ nước
Để ngàn sau mây trắng chẳng quên nguồn...
Nguồn thơ suối nhạc ngân vang, khi Thiền sư Nhất Hạnh, sau hơn 40 năm trời đằng đẵng đi hoằng pháp nơi xứ người, mới được về đất Mẹ. Nhẹ nhàng bước Thiền hành trên quê hương với từng bước chân vững chãi, thảnh thơi:
Bốn mươi năm cửa thiền vắng bóng
Cây đa già cằn cỗi gió sương
Thế kỷ lạc bầy kinh lạc tiếng
Rêu bụi mờ phủ lớp đau thương
Tim vỡ rạn chờ giờ hoàng đạo
Người trở về dựng lại tình thâm
Từng bước chân thiền hành rất nhẹ
Tỉnh hay mơ – đây lại con đường?
Bà cụ già rưng rưng mắt lệ
Bao năm rồi sống lại phút giây
Chú thiền sinh bàng hoàng tỉnh thức
Pháp thoại nào xanh gió xanh cây
Cũng pháp ấy – lời tân niên kỷ
Cũng thiền ngồi – hùng tráng uy nghi
Cũng thiền lạy – một thời vô úy
Cũng thiền hành – trời đất cùng đi
Giữa quê hương Người về chia sẻ
Bao tháng năm gieo pháp xứ người
Nối lại truyền thông từng thế hệ
Ươm tình thâm – hoa trái cuộc đời
Bao trí thức hàn lâm tự hỏi
Lời thoại như nỗi nhớ không cùng
Sao cái học ngày nay chìm nổi
Càng học càng lạc nẻo mê cung
Từng hơi thở đã về đã tới
Hiện pháp môn bây giờ ở đây
Tâm buông thư thảnh thơi vững chãi
Bước thiền hành pháp lực tuyệt thay!
Thẳng hướng Xuân đã về đã đến
Dọc ngang vô niệm lại vô tranh
Đèn tâm tỏa rạng ngời thế giới
Gieo pháp Đông Tây đạo đại thành
Hãy trân trọng ngôi nhà Vô úy
Ôm thương đau mọi nẻo quê nhà
Thắp niềm tin trên ngàn gãy đổ
Đơm cội nguồn đất Mẹ phù sa...
Bài thơ tuy dài nhưng vẫn chưa nói hết hành trạng của Nhất Hạnh, một Thiền sư thi sỹ gần nửa thế kỷ đi hoằng hóa pháp Thiền Hiện pháp lạc trú tận bên trời Tây phương xa thẳm.
Năm 2005, Thầy được phép trở về quê nhà, quy hồi cố quận và việc đầu tiên là lên thăm Phương Bối Am trên rừng cao Bảo Lộc và viếng Thiền sư Thanh Từ trên núi Phụng Hoàng, Đà Lạt. Thật là hy hữu, buổi tao phùng, trùng ngộ lịch sử, Cuộc tái ngộ của hai Thiền sư:
Từ bốn phương trời Người trở lại
Đường xa bụi bám cỏ giăng đầy
Giấc mộng chuyển trời Phương Bối nguyện
Yên Tử quê nhà mây trắng bay
Thế giới loạn cuồng bom đạn nổ
Thân người cháy rụi lửa hờn cao
Chén trà đạo vị - bao năm – nhấp
Giọt nước cành dương sóng sánh trào...
Tay lại nắm tay hồn đất nước
Mái chùa lưu lạc đã bao phương
Tìm về đất Mẹ dâng hương Tổ
Phổ độ quần sinh đoạn đoạn trường
Đại Lào ngõ tịnh bao ngày tháng
Khói đỏ thôn nghèo đất nước phân
Phương Bối ai ngồi trong tịch mặc
Đâu con đường thoát cứu muôn dân
Hương rừng Đà Lạt hoa đương nở
Đón người khách đến tự phương xa
Gió rừng như muốn ôm chân lại
Bạn cũ nguyền xưa chẳng nhạt nhòa
Rồi mai Người sẽ về nơi ấy
Ôm cả trần gian gói vết thương
Dù ở cách xa ngàn cánh nhạn
Niềm đau xin rửa với vô thường
Nguồn xưa cội gốc là cố quận, quê hương, là Bản tâm tự tánh thanh tịnh, nên kẻ tha phương Nguyễn Bá Chung cũng thường hay trở về Việt Nam để ấm chút tình quê.
Ngày xưa xa ra đi, thi sỹ chỉ mang theo trong túi hành trang, một vài bài thơ của Nguyễn Du, Bùi Giáng. Bây giờ trở về cũng vẫn Bùi Giáng, Nguyễn Du và đương nhiên là của chính thi nhân nữa, sau muôn trùng cuộc lữ quay về, thấy mình Bước qua năm tháng:
Tôi sẽ bước qua những miền xa lạ
Cỏ dại màu một nẻo rất quê hương
Càng lớn lên tôi càng hiểu bình thường
Điều kỳ diệu mong manh trên lá cỏ
Tôi sẽ đến con đường về nơi đó
Chỗ đi về của năm tháng không quên
Dù khổ đau dù sóng gió muộn phiền
Vẫn thầm lặng nở hương trầm rất lạ...
“Hương trầm rất lạ” ấy chỉ có chính nhà thơ thưởng thức được, vì tâm hồn thi nhân đã bừng chiếu, thấy được “điều kỳ diệu” ngay trong từng sự vật rất nhỏ, trên từng ngọn cỏ lá cây...Đấy là trạng thái trực ngộ “tâm bình thường là đạo” mà nhà thơ đã chứng vào rồi.
Thi sỹ quy hồi cố quận trên tinh thần an tịnh “bình thường tâm thị đạo” ấy, nên cứ thư thả, dạo gót nhàn du, trầm hùng qua khắp mọi nẻo hồn chốn quê...
Thế là duyên lành hạnh ngộ, tháng 4 năm 2017 du sỹ này được diện kiến, bắt tay với người thi sỹ tài hoa kia tại Sài Gòn. Rót vài ly kỳ ngộ, rồi dẫn anh đi chơi đây đó khắp phố thị, đến thăm quý thầy Tuệ Sỹ, Đức Thắng, Nguyễn Thế Đăng trọn dăm ba ngày say nắng gió thi ca...
Đến lúc tạm biệt, du sỹ kính tặng anh một bài thơ, thay lời cảm tạ tấm lòng bát ngát của anh. Anh nói, khi trao cho một bì thư dày cộm: “Gọi là góp chút phần ủng hộ ấn hành, xuất bản Diệu Tâm Ca cho vui thôi mà”. Du sỹ liền đọc bài thơ Trầm hùng thi ca Nguyễn Bá Chung:
Từ Mưa ngàn* thi ca tuôn đổ xuống
Dịu nhân gian mát cả dặm đăng trình
Người thi sỹ đi về qua Ngõ Hạnh*
Tuổi ngàn năm đến từ buổi sơ sinh*
Tình văn nghệ cũng đủ rồi tri kỷ
Khi gặp nhau ở tận bến đầu Nguồn*
Nguồn sáng tạo khởi nguyên vô tận xứ
Trôi về đây bất tuyệt chảy xanh luôn
Luôn trân trọng trong niềm sâu xúc động
Không còn chi nói thêm nữa bây giờ
Chỉ lặng im trước tấm lòng rộng lượng
Trước tâm hồn bát ngát cả trời thơ...
*Thơ Nguyễn Bá Chung