Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Lời Kinh từ những buồng biệt giam

06/04/202416:54(Xem: 1614)
Lời Kinh từ những buồng biệt giam


trai giam

Lời Kinh

từ những buồng biệt giam




Cách đây khá lâu, tôi đã có lần đọc câu chuyện về những người phạm nhân ở trong trại cải tạo và mối tương quan đồng cảm của những người giám thị trại giam dành cho họ, đó là chia sẻ về Phật pháp, đặc biệt là đối với những tử tội.

Hãy tưởng tượng rằng những người đang phải đếm ngược cái chết đến từng ngày, từng giờ khi thân thể vẫn còn đang khỏe mạnh, đó chính là nỗi ám ảnh, sợ hãi khiến tinh thần con người có thể trở nên bấn loạn, mất lý trí và họ trở thành người tâm thần, rồ dại có thể dẫn đến những việc làm tiêu cực, chẳng hạn như nguyền rủa người xung quanh, la hét, thậm chí tự vẫn trước ngày thi hành án.

Trong những thời khắc sống chỉ để chờ đợi tiếng gọi tử thần trong đêm, là nghe tiếng chân đi, tiếng mở khóa buồng giam trong thân thể lạnh toát để trả án bằng quy luật nhân quả “giết người thì đền mạng”, khi đó người phạm tội mới nhận ra mỗi giây phút được sống với họ là niềm hạnh phúc, một luồng ánh sáng trong trẻo bên ngoài khung cửa phòng biệt giam, nơi cách biệt giữa tự do và giam cầm là điều đáng quý, nhưng dường như, con người thường chỉ nhận ra những giá trị sống trong những giây phút cận kề sinh tử, khi cuộc sống không còn như lúc bình thường mới thấy những điều ngỡ là bình thường trở nên quý giá. Thế nhưng đâu phải ai cũng may mắn sinh ra trong những gia đình có điều kiện để được dạy bảo đến nơi đến chốn, để được lo lắng bảo bọc không mắc phải sai lầm, đâu phải ai cũng đủ mạnh mẽ, tỉnh táo để vượt qua được tham vọng, vượt qua những cái bẫy của tiền tài địa vị, để rồi khi rơi vào đó, con người phải trải qua những khúc ngoặt làm thay đổi cuộc đời mình, thay đổi suy nghĩ của mình thậm chí có những người không còn cơ hội để thay đổi nữa.

Câu chuyện một giám thị trại giam ngồi nói chuyện cùng một phạm nhân về những triết lý nhân sinh trong Phật pháp mà tôi được đọc khá lâu nhưng vẫn còn nguyên vẹn sự thâm trầm trong tâm tưởng, đó như hình ảnh ở hai bờ đối lập trong bản ngã một con người, giữa thiện và ác, giữa sự nghiêm khắc và bao dung, để mỗi người dù có rơi vào tận cùng khúc quanh nào cũng thấy đâu đó có một vầng ánh sáng, để họ không hoàn toàn rơi vào bóng đêm dù ngoài kia là những bức tường sắc lạnh.

Triết lý sẽ thật sự trở nên vô nghĩa nếu con người chỉ nói suông mà không thể vận dụng nó vào bất kỳ hoàn cảnh, tình huống nào, nhưng câu chuyện “Lời kinh sau những buồng biệt giam” sẽ là một câu chuyện đầy tính nhân văn, đầy tình người bởi nó đã hiện thực hóa lòng từ bi trong đạo Phật một cách sâu sắc nhất, bởi tình thương của Phật dành cho chúng sinh đều bình đẳng như nhau, không phân biệt là người tự do hay một kẻ tội đồ, tình thương trong triết lý từ bi nhà Phật có thể giúp an ủi, nâng đỡ và chữa lành vết thương lâu năm, có thể tha thứ tội lỗi trong tiềm thức con người để cứu rỗi tha nhân vẫn còn đang bế tắc, lần mò trong cảm giác mặc cảm, trong tự ti, hay những thời khắc hoang mang, cuồng dại nhất.

Nếu người tự do, đang có đời sống hạnh phúc bên ngoài cần đến Phật một thì người đang ở trong hoàn cảnh lao tù lại cần đến Phật gấp nhiều lần, bởi nơi đó chứa đựng nhiều bí bách nội tâm mà con người cần có một phương pháp, một bàn tay tháo gỡ, vậy thì còn gì phù hợp hơn khi những lời Kinh Phật được mang vào nơi đó, nơi có những con người cần phục thiện hoàn lương, cần giải tỏa được những áp lực tội lỗi, cần sửa đổi từ người tà thành người chánh, nơi đó chính là nơi giáo lý nhà Phật bộc lộ hết những nội hàm và giá trị không chỉ tín ngưỡng tâm linh, mà còn là tình thương yên dịu nhất.

Nhân loại luôn trầm luân, lặn ngụp trong muôn vàn biển khổ, cái khổ tận cùng là khi mất đi sự tự do, là khi sự sống của mình phải nằm trong tay người khác, chờ ngày định đoạt, sẽ thật đáng sợ nếu thời điểm đó, hoàn cảnh đó con người không có phương pháp nào buông xả và cứu chữa, là phải đối diện với sự xáo trộn tâm lý cùng kiệt để đương đầu với nỗi cô đơn, sợ hãi tận cùng, trong những nút thắt đó, giáo lý nhà Phật đã chỉ ra được cho con người những lý do của nỗi thống khổ và dẫn dắt chúng sinh đi qua con đường thoát khỏi trầm lao cả về thể xác lẫn tinh thần, từ đó hóa giải nỗi sợ hãi của con người về “cái chết” để chúng ta có thể sám hối và nhẹ nhàng đón nhận thời khắc sinh tử như một quy luật tự nhiên, trong thân giả tạm này, không còn đau đớn nữa.

Đạo Phật rực rỡ và đẹp đẽ từ ánh đạo mầu trong những ngôi Chùa, là hình ảnh an yên từ những đạo tràng với phật tử áo lam thuần thành, tay búp sen và tâm rỗng lặng, nhưng đạo Phật càng đẹp hơn, từ bi hơn khi lan tỏa đến những nơi đang đầy nặng phận đời của những người yếu thế, những người đang phải mang trên mình cái nhìn khác biệt của cộng đồng. Để thấy rằng Phật luôn đến với tha nhân trong tình thương và sự thấu cảm sâu xa nhất, trong mắt Phật không có tội đồ, không có người sang kẻ hèn, người được kẻ mất, người tốt kẻ xấu, trong mắt Phật và ngọn từ bi của Phật tỏa xuống cõi tục trần này đều phẳng lặng như nhau, bất kỳ người đó là ai, một khi tiếp nhận, cảm thụ và đến với Phật bằng niềm tin, tình thương thì luôn có được sự che chở tâm hồn.

Khi Nghị Định số 95/2023/NĐ-CP của Chính phủ ban hành vào ngày 29 tháng 12 năm 2023, có hiệu lực thi hành từ ngày 30 tháng 3 năm 2024 về “Quy định chi tiết một số Điều và biện pháp thi hành Luật Tín ngưỡng Tôn giáo”, trong đó có tại Điều 4 quy định “Việc sử dụng kinh sách, bày tỏ niềm tin tín ngưỡng, tôn giáo theo quy định tại khoản 5 Điều 6 của Luật tín ngưỡng, tôn giáo” như sau:

1. Người bị tạm giữ, người bị tạm giam theo quy định của pháp luật về thi hành tạm giữ, tạm giam; người đang chấp hành hình phạt tù; người đang chấp hành biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc (sau đây gọi là người bị quản lý, giam giữ) được sử dụng kinh sách xuất bản dưới hình thức sách in, phát hành hợp pháp để phục vụ nhu cầu sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo của cá nhân và được bày tỏ niềm tin tín ngưỡng, tôn giáo bằng lời nói hoặc hành vi của cá nhân theo quy định của pháp luật về nhà tạm giữ, trại tạm giam, trại giam, trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc (sau đây gọi là cơ sở quản lý, giam giữ).

2. Việc sử dụng kinh sách, bày tỏ niềm tin tín ngưỡng, tôn giáo của người bị quản lý, giam giữ tại cơ sở quản lý, giam giữ không được làm ảnh hưởng đến quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và quyền tự do không tín ngưỡng, tôn giáo của người khác và không trái với quy định của pháp luật có liên quan.

3. Việc bảo đảm và quản lý kinh sách; thời gian, địa điểm sử dụng kinh sách và bày tỏ niềm tin tín ngưỡng, tôn giáo cho người bị quản lý, giam giữ tại cơ sở quản lý, giam giữ được thực hiện theo nội quy, quy chế của cơ sở quản lý, giam giữ. Bộ trưởng Bộ Công an, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội hướng dẫn cụ thể việc ban hành nội quy, quy chế của cơ sở quản lý, giam giữ thuộc phạm vi quản lý.

Có thể thấy rằng Nghị định được ban hành với điều lệ trên là một tinh thần nhân văn giữa người và người vì đã góp phần rất lớn vào việc mang tính ngưỡng tôn giáo đến cho người bị tạm giam, tạm giữ nhằm phục vụ nhu cầu tâm linh tín ngưỡng của chúng sinh, việc gieo trồng tinh thần từ bi, sự tu tập quán niệm bản thân, biết sám hối những điều chưa lành để chuyển hóa thành điều lành từ người phạm tội, để khi được trở về đời sống bình thường, họ có thể sống tốt hơn, biết cách vượt qua những rào cản tâm lý, biết cách đối diện với những thử thách trong đời sống hằng ngày mà không rơi vào bi quan, tiêu cực.

Pháp luật vận dụng tinh thần đạo giáo, đặc biệt là đạo Phật vào việc giáo hóa chúng sinh là điều vô cùng cần thiết, đặc biệt là đối với những người đang rơi vào góc kẹt nội tâm, những người yếu thế ngoài xã hội, bởi đó không chỉ góp phần làm giảm bớt áp lực đau khổ cho con người mà còn giúp họ hướng thiện từ bên trong, để cảm thấy lòng người, tình người trong căn phòng biệt giam, trong khu xà lim không chỉ toàn lạnh lẽo.

“Những lời Kinh từ buồng biệt giam” sẽ là những lời Kinh đầy tình thương, lòng từ bi trắc ẩn của người nhà Phật dành cho những người lầm lỡ, là ngọn đèn soi cho họ giữa mê mịt cuộc đời, là ngọn nguồn nước mát tỏa xuống những ngày tháng đau khổ và buồn tủi giúp con người có một lý tưởng sống tốt hơn, đó không còn là những triết lý suông trong kinh điển mà đã cứu rỗi cho thật nhiều người, giúp họ bước ra ánh sáng từ những vũng lầy tăm tối. Nhân sinh có câu “Quay đầu là bờ” hàm chứa rằng trong đời người, không ai là không một lần phạm lỗi nhưng nếu biết nhìn nhận và sửa đổi sẽ không ai lại không có sự bao dung, mà sự bao dung của Phật để hướng thiện cho người đời càng vị tha, rộng mở hơn thế nữa.

Tôi mong những lời Kinh này sẽ không chỉ dừng lại trên quyển sách mà còn được tiếp diễn bằng những lời giáo huấn của những bậc chân tu, để giáo lý nhà Phật không chỉ dừng lại ở những ngôi Chùa mà có thể đến những nơi này, nơi mà những phận người trầm lao đang rất cần sự yêu thương, chia sẻ và giác ngộ từ tấm lòng nhà Phật.



Võ Đào Phương Trâm (An Tường Anh).

                                                                                         

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/10/2012(Xem: 4490)
Trong thơ văn Phật giáo có hai câu thơ quen thuộc : Thấy nguyệt tròn thì kể tháng Nhìn hoa nở mới hay xuân. Các bạn trẻ hôm nay có thể nghĩ rằng đó chỉ là văn chương, là nói quá, thậm chí là nói không thật. Không phải vậy đâu. Thời nay của các bạn, gần như nhà nào cũng có tờ lịch treo tường, có xấp lịch gỡ từng ngày một. Hồi xưa thì không. Năm mươi năm trước, ở mỗi làng chỉ có chừng hai nhà mua được cuốn lịch Tàu, ghi ngày tháng âm lịch.
11/09/2012(Xem: 3561)
Mỗi khi đọc Lại-Tra-Hòa-La trong kinh Trung A Hàm 1 thì lúc nào tôi cũng liên tưởng đến nhân vật Siddharta trong tác phẩm Câu Chuyện Dòng Sông (do Phùng Khánh và Phùng Thăng dịch) của Hermann Hesse. Và tôi vẫn nghĩ rằng thế nào thì Hermann Hesse cũng có đọc Trung A Hàm, vì đọc tiểu sử của văn hào Đức từng đoạt giải Nobel Văn chương vào năm 1946
13/08/2012(Xem: 4264)
Năm nay, thời tiết tháng ba bỗng lạnh hơn những năm trước rất nhiều (hay tại mình già hơn năm trước mà cảm thấy thế?) Gió tháng ba này cũng lạ! chúng mang cái buốt giá căm căm của tháng ba miền Bắc Việt Nam, chứ không phải là gió xuân của Cali ấm áp Hoa Kỳ như thuở nào. Ai bảo đất trời tuần hoàn Xuân Hạ Thu Đông không có chợt nắng chợt mưa, như chúng sanh chợt cười, chợt khóc!
09/08/2012(Xem: 11774)
Âm vang của tiếng vọng “Hòa Bình” là niềm khao khát của nhân loại nói chung và của từng dân tộc nói riêng. Thế kỷ 20 với hai cuộc thế chiến hãi hùng đã đẩy đưa nhân loại xuống vực thẳm của điêu linh và chết chóc. Chiến tranh đồng nghĩa với tàn phá và hủy diệt, và cũng chính trong đêm đen tột cùng của chiến tranh, tiếng vọng “Hoà Bình” đã vang lên để thức tỉnh lòng người. Hòa bình đồng nghĩa với cọng tồn và an lạc, là niềm ước ao của mọi tâm hồn hướng thiện. Chiến tranh xuất phát từ tham, sân, si, thì hòa bình phải khởi đi từ lòng nhân ái và lửa Từ Bi. Đó là ý niệm bàng bạc trong toàn bản trường ca thi phẩm của Tuệ Đàm Tử, tức Hòa Thượng Thích Giác Lượng
24/06/2012(Xem: 11668)
Bạch Xuân Phẻ là nhà thơ không xa lạ gì với nhiều người. Anh còn có biệt-hiệu là Tâm Thường Định. Thơ anh đã xuất-hiện trên nhiều trang mạng, trên báo-chí trong và ngoài nước. Anh đã cho ấn-hành bốn tập thơ “Hương Lòng”, “Mẹ, Cảm-Xúc Và Em”, “AWAKEN: Buddhism, Nature, and Life”, và “Tưởng Niệm và Tri Ân”.
23/05/2012(Xem: 3320)
Một vầng sáng giữa trời. Hoa đốm trên không chăng? Hay biểu tượng trầm mặc của người thơ? Là trăng. Trăng ư? Thiên cổ lại có trăng là Mẹ Mẹ của nhân gian trong cơn đại mộng li bì. Của muôn vạn con trăng nhảy múa giữa mắt người hôn trầm vạn tưởng. Mặt gương tròn lớn.
23/05/2012(Xem: 5479)
Bà già nhìn xuống dòng sông nước đục lờ, dõi theo một khúc gỗ đang trôi lững lờ theo con nước dập dềnh lên xuống đến khúc quanh ở cuối làng, nơi hai ống khói cao nghệu của nhà máy thả lên trời những cụm khói đen bay tản lạc trong gió chiều hoàng hôn. “Mới đó mà đã 20 năm, ông nhỉ?” bà nói mà không nhìn vào ông già ngồi cách mình một sải tay, trên phiến đá bám đầy rêu xung quanh hông.
22/05/2012(Xem: 3604)
Bây giờ, trong không gian yên tĩnh và nhỏ nhắn của ngôi nhà nơi ông và bà đã sống với nhau suốt 50 năm qua, chỉ còn lại hai người với nhau. Các con ông đã quay về với cuộc sống mưu sinh tất bật của chúng, để lại ông nằm trên giường với cơn bệnh hiểm nghèo đang chờ đến giai đoạn bộc phát cuối cùng, và bà, thanh nhã, khiêm nhường, ngồi lặng lẽ một bên, lắng nghe những hơi thở mỏi mòn đang đứt nhịp của ông. Bà chăm chú nhìn xuống khuôn mặt thân yêu quen thuộc đã ở bên cạnh bà suốt cả quãng thời gian dài dằng dặc của một kiếp người. Bầu không khí tĩnh lặng của mùa đông như chững lại với tiếng reo lanh canh của chiếc khánh treo ngoài lan can.
03/05/2012(Xem: 3713)
Bính âm (pinyin) hay Hán Ngữ Bính âm 漢語拼音/汉语拼音 (theo thứ tự phồn thể/giản thể) là một cụm danh từ mới xuất hiện từ thập niên 1950 - chính phủ TQ (Trung Quốc, Trung Hoa Lục Địa) cải tiến nhiều lần và gần đây cũng được Đài Loan chấp nhận (2009) tuy đã có hệ thống pinyin riêng (Thông Dụng Bính âm - xem thêm phần Phụ chú).
08/04/2012(Xem: 3464)
Kính thưa Thầy, Thầy về cõi Phật lòng thanh thoát. Con ở dương trần dạ tiếc thương. Nhân ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11 năm đầu tiên vắng Thầy, đọc lại « Nữa chữ cũng là Thầy » để các thế hệ học trò cũ của Thầy mãi mãi nhớ ơn Thầy, người giáo viên nhân dân, kỹ sư tâm hồn, người ươm mầm non tương lai cho quê hương, đất nước…
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]