Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Có phải tiêu chỉ “Cư Trần Lạc Đạo” của Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông vẫn luôn thích hợp trong việc tu tập cho Người Phật Tử thời đại công nghệ ?

03/04/202417:01(Xem: 1754)
Có phải tiêu chỉ “Cư Trần Lạc Đạo” của Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông vẫn luôn thích hợp trong việc tu tập cho Người Phật Tử thời đại công nghệ ?


tt nguyen tang 2020
Có phải tiêu chỉ  “Cư Trần Lạc Đạo” của Điều   Ngự Giác Hoàng Trần  Nhân Tông  vẫn luôn thích hợp trong việc tu tập  cho Người Phật Tử thời đại công nghệ ?

 

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

 

Lời nói đầu

 

Kính bạch Chư Tôn Đức Tăng Ni.

Kính thưa quý đạo hữu Phật Tử,

 

Từ khi học được lý trùng trùng duyên khởi  của Hoa Nghiêm, con mới biết mỗi một sự vật đều được kết nối nhau trong một thế giới sống động và đa dạng phi thường.

 

Các pháp không đâu đến

Cũng không có tác giả

Cũng không từ đâu sanh

Thức chẳng thể phân biệt.

 

Tất cả pháp không đến

Vì thế nên không sanh

Vì là không có sanh

Nên cũng không có diệt.

 

Tất cả pháp vô sanh

Tất cả pháp vô diệt

Nếu biết được như vậy

Người này thấy được Phật.

 

Vì các pháp vô sanh

Nên không có tự tánh

Phân biệt biết như vậy

Người này đạt thâm nghĩa”

 

(Kệ trong phẩm Dạ Ma  thứ 20 / Kinh Hoa Nghiêm )

 

Quả đúng vậy, chỉ vì một ý nguyện  muốn đền đáp ân  hội ngộ và duyên được cộng tác với Trạng  nhà Quảng Đức do TT Thích Nguyên Tạng Trụ trì Tu Viện  Quảng Đức kiêm  và Tổng Thư Ký GHPGVNTN tại Hải ngoại Ức Châu & Tân Tây Lan làm chủ biên  mà một lần nữa con có đại duyên con được tham khảo lại toàn bộ Cư Trần Lạc Đạo khi  đoc qua chi tiết về Tu Viện Quảng Đức để rồi tìm lại một sưu tập cũ thật quý giá có liên quan đến bài Cư Trần Lạc Đạo khiến con suy ngẫm và tư duy nhiều đêm nên cuối cùng  kính xin mượn bài viết để nhận sự chỉ dạy của quý Ngài.

 

Kính bach quý Ngài

 

Chi tiết dẫn đến đại duyên hôm nay đó là .....“Ngày 10 tháng 12 năm 2000, Tu viện đã tổ chức lễ Đặt Viên Đá đầu tiên để tiến hành công trình xây dựng. Sau ba năm dài kiến thiết, ngôi chánh điện và hội trường sinh hoạt được xây dựng hoàn thành với tổng chi phí là 2 triệu Úc Kim..

 

Tiếp đó là Đại lễ khánh thành Tu Viện Quảng Đức đã được long trọng tổ chức vào ba ngày 10, 11 và 12 tháng 10 năm 2003, đánh dấu một chặng đường mười ba năm có mặt Tu Viện Quảng Đức trên xứ Úc. Trong dịp lễ đặc biệt này cũng là Đại hội Bất thường Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất và lễ suy tôn Đại lão Hòa thượng Thích Huyền Quang lên ngôi vị Đức Đệ Tứ Tăng Thống Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất tại quê nhà.”

 

Kính bach quý Ngài, chỉ nhờ chi tiết đó mà con phải đợi đến hơn 20 năm sau, trong một dịp sưu tập lại những tài liệu quý báu mới lưy tâm đến  nguyên văn bản THÔNG ĐIỆP CƯ TRẦN LẠC ĐẠO - XUÂN NHÂM NGỌ -2002 từ Viện  Tăng Thống / GHPGVNTN mà trong dó Đức Ngài  Đẹ Tứ Tăng Thống HT. Thích Huyền Quang viết rằng “ Từ nơi lưu đày quạnh hiu ở Quảng Ngãi,  vẫn an nhiên vui hưởng “ Cư Trần Lạc Đạo”  và Ngài nhấn mạnh … đó chính là tiêu chỉ của nguồn thiền Trúc Lâm  Yên Tử  do Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông.

 

Từ lâu con đã nghe rất nhiều bài giải thích về bài kệ này. Đây chính là kệ kết thúc trong bài Phú cùng tên Cư Trần Lạc Đạo gồm 10 hội mà HT Thích Nhất Hạnh đã dịch ra văn xuôi và cho rằng “Đây là trái tim của Trúc Lâm Đại Sĩ, và trong địa vị văn học, đây là sáng tác tiếng Nôm đầu tiên tại Việt Nam.

 

Bài Phú này trình bày phương pháp tu tập của Trúc Lâm Đại Sĩ theo những điều căn bản của người đệ  tử Phật với tâm thanh tịnh, chân thật.mà  KỆ KẾT THÚC đã được giảng dạy và nhắc đến nhiều nhất.

 

“Cư trần lạc đạo thả tùy duyên.

Cơ tắc xan hề, khốn tắc miên.

Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch;

Đối cảnh vô tâm mạc vấn Thiền.”

 

Dịch là

 

Ở đời vui đạo hãy tùy duyên,

Đói đến thì ăn, mệt ngủ liền.

Trong nhà có báu thôi tìm kiếm

Đối cảnh vô tâm chớ hỏi thiền.

 

Thật ra,  con cũng đã học và ghi chú lại nhiều lời giảng của nhiều Thầy trong nước và ở hải ngoại , nhưng riêng với thông điệp của Đức Đệ Tứ Tăng Thống Thích Huyền Quang đã làm con xao xuyến,xúc động mãi không thôi đồng thời như một lời sách tấn khuyến tu để phát Bồ đề tâm dõng mãnh bước vào con đường Đạo mà Đức Thế Tôn đã khai thị từ hơn 2565 năm nay.

 

Được biết:  Tác phẩm “Cư trần lạc đạo phú” được viết theo lối phú luật hay phú cận thể của thời thịnh Đường, gồm 10 hội dài bằng chữ Nôm và một bài kệ bằng chữ Hán kết thúc bài. Mười hội dài phô diễn những quan điểm của người tu giữa chốn trần ai, cùng các điểm khai ngộ lý thiền. Thi kệ yết hậu chính là phần kết luận của bài phú, tóm lược lại tất cả những tinh yếu của toàn bài..Đại ý của bài kệ này nói rằng: “Mỗi con người hãy nên sống hòa mình với đời, không câu chấp; Hành động tùy duyên, tức là làm việc cần làm, đúng lúc phải làm và không trái quy luật tự nhiên; Tự tin vào mình, trở về khơi dậy tiềm lực của chính mình, không tìm cầu tha lực; Không nô lệ vào bất cứ cái gì, dù Thiền hay Phật.”

 

Một điều đáng quan tâm,hơn hết của  “Cư trần lạc đạo phú” bởi đây chính là một tác phẩm bằng chữ Nôm tiêu biểu đánh dấu quá trình phát triển của hệ thống văn tự Việt Nam, chuyển từ chỗ sử dụng chủ yếu chữ Hán của Trung Quốc sang coi trọng và chủ động sử dụng chữ Nôm (chữ viết do người Việt Nam tạo ra để ghi âm tiếng Việt).Những lời thuyết pháp được viết bằng chữ Nôm ấy không phải là dịch trực tiếp từ kinh Phật viết bằng chữ Hán hay bằng chữ Phạn (một loại chữ Ấn Độ cổ), mà đó là những tổng kết ngắn gọn dưới dạng thơ, phú hoặc là những diễn giải tư tưởng Phật học dưới lăng kính của người Việt Nam. Trong số này tiêu biểu có tư tưởng nhập thế, tự lực và tùy duyên của Vua Trần Nhân Tông thể hiện trong bài phú "Cư trần lạc đạo" của mình..

 

Tư tưởng đó được đúc kết trong một bài kệ theo thể Thất ngôn tứ tuyệt bằng chữ Hán. Và bây giờ

kính mời xem lời diễn giải rất ngắn gọn của Sư ông Làng Mai qua từng hội như sau:

 

-Hội thứ nhất “người tu Bụt yêu chuyện đọc kinh xem luận, cho nếp sống thanh thản còn quý giá hơn cả hoàng kim”

 

-Hội thứ hai :  Cái quan trọng nhất là làm cho tâm mình thảnh thơi, ngoài ra không có pháp môn tu học nào mầu nhiệm như thế. Gìn giữ tính sáng thì mới mong đem tới cho ta an lạc. Ngăn ngừa vọng niệm thì vọng niệm không thể nào không dừng lại.

Vượt thoát được ý niệm ta và người thì thật tướng kim cương của tâm biểu hiện, chuyển hóa được hết tham sân thì mới thấy được diệu tâm viên giác.

 

Tịnh độ chính là tự tâm thanh tịnh của ta, không cần phải hỏi rằng có hay không có tịnh độ ở Tây phương. Di đà là tự tính sáng soi của ta, không cần phải nhọc nhằn tìm về một cõi Cực lạc ở đâu đó nữa.

 

-Hội thứ ba: Một khi đạt được cái thấy biết, thì mọi lầm lỗi trong quá khứ sẽ biến thành hư không, và các phép luyện tập về ba học giới định tuệ sẽ được thông suốt. Gìn giữ được tính sáng của chân tâm, thì không còn lạc vào con đường tà đạo, và do đó con đường tu học sẽ là con đường chính tông.

 

Tuy còn sống trong cõi trần tục mà ta vẫn thành công được trong sự tu tập, niềm hạnh phúc ấy ta yêu chuộng hết lòng. Dù có ở chốn núi rừng mà chưa có được tuệ giác, thì tai họa vẫn còn, thật chẳng đáng cho ta uổng phí công phu.

 

Nếu hết lòng phát nguyện cầu được thân cận minh sư, thì cho quả vị Bồ đề có thể trong nội một đêm mà chín, Có phúc được gặp gỡ người thiện tri thức, thì đóa hoa Ưu Đàm chẳng cần mấy kiếp cũng có thể đơm bông.

 

-Hội thứ tư: Biết chất chứa nhân nghĩa, biết tu tập đạo đức, ai trong chúng ta mà lại không phải là Bụt Thích Ca? Biết nghiêm trì giới hạnh, biết chặt đứt ghen tham, những kẻ ấy không ai không là Bụt Di Lặc.

 

-Hội thứ năm: cần Hộ trì tám loại tâm thức (nhãn thức, nhĩ thức, v.v..), chống được với tám ngọn gió (lời, lỗ, nhục, vinh, khen, chê, khổ, sướng) không phải bằng cách đè nén chúng. Làm bật trong huyền môn, trình bày ra ba yếu chỉ, bằng cách mài dũa và cắt xén từ từ.

 

-Hội thứ sáu: chỉ cần thực tập vô tâm là tự nhiên ta được đi vào con đường chính đạo. Biết làm thanh tịnh ba nghiệp thì mới có được bình yên ở thân và tâm, tới được chỗ nhất tâm thì mới có thể thông đạt lời dạy của chư Tổ.

 

-Hội thứ bảy : Nhớ ân nghĩa các bậc thánh tăng, yêu thương mẹ cha, theo chí thờ thầy mà học đạo. Yêu chuộng đức độ của Bụt Gotama, tránh con đường hưởng thụ, một lòng giữ giới và ăn chay

 

Cảm được đức từ bi, kiếp kiếp nguyền xin cho thân cận. Nhớ mãi công cứu độ, dù có phải đời đời chịu đựng đắng cay.

 

-Hội thứ tám : Xem kinh, đọc lục, làm cho cả hai cái (thấy) và (biết) đều được ngang nhau. Kính Bụt, tu thân, đừng xem thường những điều nhỏ nhặt. Chỉ nên tập rèn, đừng bỏ học hỏi.

 

-Hội thứ chín : Các phép thiền cơ mà chư Tổ đem dạy, tuy có nhiều đường, nhưng cũng không khác nhau bao nhiêu gang tấc,

 

-Hội thứ mười : Đam mê danh lợi, thổi phồng nhân ngã, đó đích thực là những kẻ phàm phu. Mến chuộng đạo đức, chuyển hóa thân tâm, đây quyết định đưa về thánh trí..

 

Tóm tăt những diều đã học trên khiến con rất vui mừng khi đọc đi đọc lại THÔNG ĐIỆP CƯ TRẦN LẠC ĐẠO - XUÂN NHÂM NGỌ -2002 từ Viện  Tăng Thống / GHPGVNTN và cuối cùng kính xin trích đoạn  nguyên văn thông điệp được gửi từ Văn Phòng Xử Lý Thường Vụ Viện Tăng Thống PL 2545-Quảng Ngãi, Xuân Nhâm Ngọ 2002 .

 

Thay mặt Hội đồng Lưỡng viện GHPGVNTN  :

 

“ Cư Trần lạc đạo có nghĩa là hiện diện nơi trần thế mà hành đạo, vui đạo, sống đạo, dựng đạo, hưng đạo chứ không lánh xa trần thế đầy khổ nhục làm thú riêng cho bản thân.

 

Hiện diện nơi trần thế, nói lên con đường hành động cứu nhân độ thế của Phật Giáo Việt Nam. Việc ấy đã thực hiện , đã chứng tỏ, suốt lịch sử hai nghìn năm Phật Giáo, đặc biệt dưới các triều đại tự chủ và độc lập, từ thuở Hai Bà Trưng cho đến thời hiện đại . Sự thành bại không đáng quan tâm cho bằng ý chí kim cương bất hoại của người Phật Tử. Ý chí ấy còn, Đạo Phật còn, dân tộc sẽ trường tồn trong cường thịnh, vinh quang và thái hoà, nhân loại sẽ bước vào kỷ nguyên huynh đệ,  đại đồng.

 

Chính nhờ lời chỉ dạy này, dựa vào ý nghĩa này con đã sáng tác một bài thơ bằng sự tự thể nghiệm như sau:

 

Hãy đến với nhau!

Phải chăng …

vào  tuổi thu đông mới chiêm nghiệm được ?

Nhân loại luôn đối xử bằng tình cảm tương thân,

Ngoại lệ đôi khi gặp

sự lạnh lùng không cảm xúc vài cá nhân,

 

CHẤP NHẬN: mỗi người đều 

mang trong mình thành kiến, sự ràng buộc!

PHẢI TẬP SỐNG:

Giữ được sự quân bình và sáng suốt !

 

Vì mỗi bản thân

là một mắt xích trùng trùng duyên khởi của cõi trần

Cứ luân hồi mãi chịu theo cuộc xoay vần

ĐẾN MỘT LÚC kiếm tìm hạnh phúc nhận ra :

Đó chỉ là “miếng mồi ngon của nghiệp chướng” !

 

Hãy hành xử bằng cách:

đến với nhau mà không bị ảnh hưởng,

Từ sự đố kỵ, so sánh, mù quáng không có lòng tin

Nào cùng nhau trực  diện nội tâm….hành xử với nhân sinh

Nguyện nguyện hứa theo tiêu chuẩn “ Cư Trần Lạc Đạo”

 

Thành bại không đáng quan tâm,

cốt sao gội nhuần tạo hoá !

Bằng  ý chí kim cương bất hoại,

dù cuộc đời như trải một giấc mơ dài

Khói mù mưa bụi khiến  lệ hoen lúc chia tay

 

Thế  nhân ơi …

Thả trôi những hận thù, dừng gót phiêu du

“Giữ chân tâm vào nơi không trụ!”

Đến với nhau như đứa trẻ ban sơ, nụ hoa vừa nhú !

Còn nữa trong thông điệp này, Đệ Tứ Tăng Thống HT. Thích Huyền Quang đã nhấn mạnh: “Theo đúng tinh thần Cư Trần Lạc Đạo như thế, người Phật Tử mới bảo toàn được Phật tính con người trên mặt đất, đồng lúc bảo vệ phẩm giá đồng bào và nhân loại, đồng lúc bảo vệ sự toàn vẹn tâm linh nơi mỗi cá nhân”..

Và con đã rơi lệ khi dọc câu này “SỰ TOÀN VẸN TÂM LINH CON NGƯỜI CHẲNG KHÁC CHI SỰ TOÀN VẸN LÃNH THỔ MỘT QUỐC GIA “ ….

 

Ngài kêu gọi nam nữ Cư sĩ Phật Tử trong và ngoài nước, trong tinh thần và chí nguyện Cư Trần Lạc Đạo hãy phát Bồ Đề Tâm, dõng mãnh bước lên con đường Đạo cứu khốn trừ nguy mà Đức Thế Tôn đã khai thị, cùng lịch đại Tổ Sư đem lại an lạc cho người con Phật.

 

Lời kết:

Kính bạch quý Ngài,

 

Con đã học từ quý cao Tăng rằng “Khi mới tu, thường hiểu Kinh Điển theo một lối mòn vạch sẵn thì chẳng thấy gì cả, về sau tự mình khám phá Sự Thật qua trải nghiệm, chiêm nghiệm , lắng nghe, học hỏi pháp ngay trong đời sống chính mình mà thấy ra, lúc đó đọc lại Kinh Điển mới thực sự thấu hiểu, thì ra lời Phật dạy thật tuyệt vời”,

 

Với lời kêu gọi hào hùng của Đệ Tứ Tăng Thống “ Từ  nơi lưu đày hiu quạnh , tôi vẫn cư trần lạc đạo” khiến hậu bối chúng con nhớ lại Cụ Phần Bội Châu khi bị giam lỏng tại Cố Đô Huế , “một mình một bóng, mình nói mình nghe “ đã tìm sự an định trong câu kinh tiếng kệ, vui với cảnh Thiền ( trong bài thơ Đêm ngồi một mình 1933) mà càng quyết tâm nghe theo lời dạy của Đệ Tứ Tăng Thống vậy

 

“Năm canh chuông mõ nghe đâu Phật

Bốn mặt non sông vắng ngát người” ….

 

Hoặc:

 

“Vẫn ung dung tự tại

 không vì một miếng đỉnh chung

Ba gian nhà dột, trời soi bóng

Mấy tấm rèn thưa gió chọc đầu

Sớm tưới cành hoa, mây tới phủ

Đêm đêm kinh Phật , Nguyệt vào hầu “

 

 

Vơi trí óc thô thiển của con và đã từng nghe lời dạy của Ôn Làng Mai HT Nhất Hạnh con đã tự ghi vào cẩm nang mình như sau :

 

Muốn Cư Trần lạc đạo được như Đệ Tứ Tăng Thống, muốn thực tập theo tinh thần Cư Trần Lạc Đạo, tức là ở trong chốn bụi bặm mà có hạnh phúc với chánh pháp thì phải biết áp dụng nguyên tắc tùy duyên, phải biết chấp nhận và hạnh phúc với những điều kiện sẵn có, gọi là tùy duyên. Chỉ cần biết chấp nhận là thấy khoẻ liền, là lạc đạo liền. Nếu không biết chấp nhận thì đi đâu ta cũng không có hạnh phúc. Đó là nguyên tắc đầu của Cư Trần Lạc Đạo.

 

Chúng ta cần vững chãi, cần thảnh thơi, cần an lạc, thì  phải biết bản chất và phương pháp nào để làm thỏa mãn những nhu yếu đó . Khi nào buồn thì ta biết làm thế nào để cho bớt buồn, khi nào giận thì ta biết làm thế nào để cho bớt giận, khi nào cô đơn thì ta biết làm thế nào để cho hết cô đơn, khi nào thiếu vững chãi thì ta biết làm thế nào để đem vào tâm hồn mình những chất liệu vững chãi…

 

Đừng có chạy đi đâu để tìm kiếm nữa hết vì những cái ta cần đã có sẵn ở trong ta rồi. Những gì xảy ra trong cuộc sống hằng ngày của ta thì ta phải biết đáp ứng lại với những sự kiện đó bằng thái độ vô tâm, . Nếu ta muốn thật sự có hạnh phúc, có tự do thì ta phải có thái độ vô tâm

 

Vô tâm ở đây có nghĩa là không vướng mắc cũng không chán ghét. Tức là ta không bị vướng vào trong hai cực: tham đắm và chán ghét mà phải luôn luôn chánh niệm nghĩa là là cái gì đang xảy ra thì ta biết là cái gì đang xảy ra, đang xảy ra trong lòng ta hay đang xảy ra xung quanh ta, và ta phải ý thức được nó..”

 

Lời cuối con kính trân trọng tri ân quý minh sư mà con đã được thân cận trong nhiều năm qua  đã tạo rất nhiều cơ duyên cho con  được gặp gỡ nhiều  thiện hữu tri thức khắp mọi miền Âu, Mỹ, Úc, Á .

 

Trong niềm hoan hỷ đó kính chúc quý Chư Tôn Thiền Đức và quý đạo hữu sớm đạt được quả vị bồ Đề nở chín cũng như Hoa Ưu Đàm có thể đơm bông trong kiếp này.

 

 Kính chúc sức khỏe quý Ngài và kính trân trọng chia sẻ..

 

Úc Châu 4/4/2024

Phật tử Huệ Hương

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
21/06/2024(Xem: 3701)
Trong lúc dọn dẹp lại thư viện kinh sách bé nhỏ của mình, người viết vừa nâng niu, vừa bâng khuâng xao xuyến khi nhìn kỹ lại hơn 50 tác phẩm được biên soạn bằng chính năng lực, trí tuệ của quý danh tăng của thế kỷ 20 -21 đã ký tặng( mà người viết cho đấy là sách giáo khoa hàn lâm về Phật Giáo ) với những dòng chữ thật trân quý đầy tinh thần nhân văn cao cả của lý tưởng, lại mang đậm các giá trị đạo đức truyền thống trong Phật Giáo mà trong suốt đời tu học, khoảng 10 năm gần đây người viết mới được tiếp xúc những bậc hiền triết này.
15/06/2024(Xem: 1503)
Sau khi bang Niedersachsen của ông Tiến sĩ Albrecht thu nhận hơn 1.000 thuyền nhân từ chiếc tàu Hải Hồng, phân phối đi các vùng trong bang nhưng đông nhất vẫn là thành phố thủ phủ Hannover. Các thuyền nhân tỵ nạn này vừa từ cõi chết đi lên, nên rất cần một chỗ dựa cho tâm linh. Sau chuyến vượt biên thoát nạn, họ đã cầu nguyện Đức Mẹ Maria cứu vớt nếu là người Công giáo. Còn Phật giáo họ sẽ niệm Mẹ hiền Quán Thế Âm, hai hình tượng đã in sâu vào tâm thức, họ tin chắc hai Vị này đã ra tay cứu độ đưa họ đến bến bờ bình yên.
12/06/2024(Xem: 845)
Lời người chuyển ngữ: Thông thường khi nói đến ngồi thiền hay thực hành chánh niệm chúng ta lập tức nghĩ đến việc ngồi yên, ngồi một cách nghiêm trang và chú tâm vào hơi thở hay những cách khác (tùy theo phương pháp chỉ – quán…). Tuy nhiên chúng ta cũng nghe đến tứ oai nghi đi – đứng - nằm – ngồi, nghĩa là ta có thể giữ chánh niệm trong mọi hoàn cảnh và tư thế, điều này phụ thuộc vào năng lực, ý chí của mỗi cá nhân. Trong lá thư gởi độc giả của tạp chí Lion’s Roar (Sư Tử Hống), ngày 51/05/24 có đề cập đến việc ứng dụng và thực hành chánh niệm trong sự di chuyển động, trong lá thư này có dẫn lời của Francis Sanzaro một nhà leo núi chuyên nghiệp và cũng là một Phật tử đã áp dụng chánh niệm trong việc leo núi. Việc ứng dụng chánh niệm trong sự vận động hàng ngày đôi khi tôi cũng có chút xíu kinh nghiệm. Tôi thường chạy bộ, bơi lội… và giữ chánh niệm và cảm thấy thoải mái dễ chịu hơn là khi ngồi nghiêm trang trước bàn thờ Phật. Tôi nhận thấy mọi người ai cũng có thể áp dụng thực hành chán
12/06/2024(Xem: 819)
Sống ở đời, mọi người chúng ta ai ai cũng đã từng ít nhất một lần buộc miệng than: “Sao khổ vậy trời? Sao khổ thế này?”. Khổ là bản chất của đời sống hiện hữu, khổ là tất yếu vì sự thay đổi của vô thường. Đã sanh làm người, đã sống trong đời thì không thể tránh khỏi khổ, cho dù đó là tỷ phú cực giàu, tổng thống cực quyền hay là kẻ ăn mày khố rách áo ôm. Khổ có vô vàn nhưng chung quy lại không ngoài: Sanh, già, bệnh, chết, muốn mà không được, thương phải chia lìa, ghét phải chung đụng, thân và tâm đầy phiền não như lửa cháy. Khổ vì sanh – tử là điều bất khả kháng, khổ vì những ác nghiệp đã chín muồi thì cũng không thể tránh được, duy cái khổ của sự mong cầu, ham muốn, thèm khát là điều mà chúng ta có thể làm giảm thiểu hoặc tránh được.
04/06/2024(Xem: 1068)
Ta lên núi, học làm Tiên nhẫn nhục, Mặc thói đời nhân ngã với thị, phi! Mây có hẹn, mà quên về cũng được, Gió có lay, trăng nghiêng ngã hề chi!
02/06/2024(Xem: 1445)
Một trong những lời dạy của Tuệ Trung Thượng Sĩ thường được đời sau nhắc tới là hãy phản quan tự kỷ. Đó là pháp yếu Thiền Tông. Nghĩa là, nhìn lại chính mình. Câu hỏi chúng ta nêu ra nơi đây là, phản quan tự kỷ thế nào?
30/05/2024(Xem: 1023)
Đại Trí Độ Luận nói: “Biển cả Phật pháp, tin thì vào được”. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Tín làm tay. Như người có tay, đến nơi trân bảo, tùy ý nhặt lấy. Nếu người không tay, chẳng được thứ gì”. Cũng có câu: “Vừa vào cửa tín, liền lên Tổ vị”. “Mũi Tên Xuyên Vách” ra đời góp một niềm tin nhỏ cho người sơ cơ, chắc không tránh khỏi lỗi lầm. Rất mong bạn đọc bốn phương bổ chính để được tốt hơn trong những lần tái bản tới. Xin thành thật tri ân.
24/05/2024(Xem: 9229)
Hình ảnh Thầy Minh Tuệ xuất hiện trên các mạng xã hội y hệt như một trận bão truyền thông, làm dâng tràn những cảm xúc và suy tưởng. Những bước chân đơn độc của Thầy đã đi bốn vòng đất nước trong nhiều năm qua, để tu hạnh đầu đà là điều khó làm, không phải ai làm cũng được. Một hình ảnh chưa từng nhìn thấy, dù là trong tiểu thuyết hay phim ảnh: hàng trăm người dân, có khi hàng ngàn người dân, cùng ra phố bước theo Thầy, lòng vui như mở hội, niềm tin vào Chánh pháp kiên cố thêm.
17/05/2024(Xem: 821)
Bảo rằng mới, ừ thì là mới nhưng thật sự thì tháng năm đã từ vô thủy đến giờ. Tháng năm là tháng năm nào? Năm nào cũng có tháng năm, nếu bảo mọi tháng đều là tháng năm thì cũng chẳng sai. Năm, tháng, ngày, giờ… là cái khái niệm con người chế ra, tạm gọi là thế, tạm dùng để đo, đếm cái gọi là thời gian. Bản thân thời gian cũng là một khái niệm như những khái niệm dùng để đo lường nó. Bản chất thời gian là gì thì ai mà biết, nó vốn vô hình, vô tướng, vô trọng lượng, vô sắc, vô thanh… Nó không đầu không cuối và dĩ nhiên cũng không thể nào biết đâu là chặng giữa. Con người, vạn vật muôn loài và thế giới này có hình thành hay hoại diệt thì nó vẫn cứ là nó. Nó chẳng sanh ra và cũng chẳng mất đi.
17/05/2024(Xem: 1724)
Phần này ghi lại vài nhận xét về bản chữ quốc ngữ Sấm Truyền Ca và Lập Quốc Kinh, qua lăng kính của chữ quốc ngữ từ thời LM de Rhodes và các giáo sĩ Tây phương sang Á Đông truyền đạo. Đây là lần đầu tiên cách dùng này hiện diện trong tiếng Việt qua dạng con chữ La Tinh/Bồ (chữ quốc ngữ), điều này cho ta dữ kiện để xem lại một số cách đọc chính xác hơn cùng với các dạng chữ Nôm đồng thời. Rất tiếc là chưa tìm ra bản Nôm Sấm Truyền Ca hay Lập Quốc Kinh, do đó bài này phải dựa vào các dạng chữ quốc ngữ viết tay còn để lại. Tài liệu tham khảo chính của bài viết này là các tài liệu chép tay của LM Philiphê Bỉnh (sđd) và bốn tác phẩm của LM de Rhodes soạn: (a) cuốn Phép Giảng Tám Ngày (viết tắt là PGTN), (b) Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC)
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]