Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thử nhìn lại “Người tu học chân chính cần gì?”.

29/06/202306:51(Xem: 3154)
Thử nhìn lại “Người tu học chân chính cần gì?”.


ht vien minh

Thử nhìn lại “Người tu học chân chính cần gì?”.

Nói đạo Phật là đạo “cứu khổ ban vui” nhưng kỳ thực chẳng có ai ‘cứu’mà cũng không ai ‘ban’cho cả. Cũng như trong tu tập không có xua đuổi, cũng không có trông đợi.

Kinh Phật không phải để khẩu tụng mà kinh Phật là lời, là tiếng nói của người thực chứng cho nên tối thiểu nó phải được nhận thức, được hiểu biết thông qua sự thực nghiệm. Học kỹ đi rồi quên lý thuyết nhưng vẫn sống đúng với điều mình đã học đó gọi là đắc cái học. những gì mình đã học, nó trở thành cái con người* của mình rồi. Tu tập làm sao mà sẽ có một ngày nó trở thành cái vốn riêng của mình mà mình cũng không còn nhớ là mình đã học ở đâu, với ai. mà chỉ biết nó đã hoà quyện trong máu huyết mình rồi …

Cho nên trong đạo Phật đừng có nói linh nghiệm mà nói phải nói đến thể nghiệm, chứng nghiệm, thực nghiệm và hiệu nghiệm. Vì lời Phật là lời của người thực chứng nên phải được thực nghiệm.

.Nếu có cái gì đó mà mình thấy làm như hơi linh nghiệm thì phải hiểu đó là tính hiệu nghiệm của người hành trì, chứ không phải là sự linh nghiệm của người tụng đọc.

Chân lý rốt ráo của Phật giáo là sao? Theo HT. Thích Thánh Nghiêm “Tức là chân lý ngã không, và pháp không - Không phải là pháp thế gian, nên không thể mô tả bằng lời nói, chân lý đó “xa lìa tướng danh ngôn, tâm tư cũng không nghĩ bàn được”. Đó là chân lý rốt ráo, mà tính Phật miễn cưỡng gọi là “chân pháp giới” là “lý chân như”.
Lại phải cần rõ biết vô minh trong 4 đế, tức là không biết được 4 cái sự thật.
  1. mọi hiện hữu là khổ.
  2. thích cái gì cũng là thích trong khổ.
  3. muốn hết khổ đừng thích trong khổ nữa.
  4. sống bằng 3 nhận thức trên chính là hành trình thoát khổ.
Khi không biết mới Vô minh nên mới có chuyện là chúng ta làm các nghiệp thiện ác nhưng có biết đâu khi mà chúng ta tạo nghiệp thiện ác có nghĩa là chúng ta đang kín đáo, âm thầm, lặng lẽ tạo ra các tâm đầu thai mà ta luôn nghĩ rằng là không thấy nên nói rằng nó không có chứ đó là khi duyên chưa hội đủ điều kiện đó mà thôi.

Thế nhưng, chân lý rốt ráo đó của Phật giáo, tuy là không đặt tên được, không nghĩ bàn được, nhưng nó vẫn không tách rời muôn vàn hiện tượng thế gian, và mỗi hiện tượng thế gian là một bộ phận của chân lý rốt ráo đó”.
Vì vậy, Tổ Huệ Năng của Thiền tông nói rằng: “Phật pháp là ở thế gian, không tách rời thế gian mà giác ngộ được; nếu tách khỏi thế gian đi tìm đạo Bồ đề, cũng không khác gì đi tìm sừng thỏ vậy”.

Và Phẩm “Du già chân thực nghĩa” gọi Chân lý là chân thực tức “như thị” .

Trộm nghĩ : “Mục đích tu hành không phải để được cái gì mà phải coi mình buông được cái gì.“ Đó là tinh thần cao đẹp nhất của đạo Phật.

Giáo Sư Lakshmi Nasaru, trong “Tinh Hoa của Phật giáo" đã phát biểu :
“Phật giáo nhằm tạo trong mỗi cá nhân một sự chuyển hóa nội tâm bằng cách tự chiến thắng lấy mình. Không nhờ đến sức mạnh và tiền bạc hay cả đến sự chinh phục để tác động mọi người vào đạo mà Đức Phật chỉ rõ một con đường giải thoát duy nhất để cho cá nhân tự quyết định nếu muốn theo tôn giáo này.
Với Tam pháp ấn hay còn gọi là Tam Tướng của vạn vật mà người học Phật cần ghi nhớ là Khổ- Vô thường - Vô Ngã.
——Về KHỔ Trong kinh nói thế giới này có ba cái khổ.
Cái khổ thứ nhất là phải sống gần người hoặc vật mà mình ghét. đó là KHÔR KHỔ
Cái khổ thứ hai là phải xa người hoặc vật mà mình thích.gọi là HOẠI KHỔ
Cái khổ thứ ba là bản thân sự có mặt này là khổ rồi.được định nghĩa cho HÀNH KHỔ
Và trong kinh ghi rất rõ…
Người hạ căn, trình độ thấp, họ cầu đạo giải thoát là vì họ muốn trốn cái khổ thứ nhất. Tức là họ sợ chịu đựng cái mà họ không thích
Cái hạng thứ hai, khi mà họ phải chia xa, mất mát cái họ thích, thì cái đó đối với họ là đủ để họ sợ rồi.
Cái hạng thứ ba là bậc thượng thừa, vì đối với họ chỉ cần một dấu hỏi thôi. "Cái cuộc sống này sẽ dẫn về đâu? Cái ý nghĩa rốt ráo, tối hậu của cuộc hiện hữu này là gì?". Đó là một con số không to tướng.
——Về Vô Thường, tất cả đều phải theo tiến trình Thành, Trụ, Hoại, Diệt , hay Sinh Lão , Bịnh, Tử…. Giáo lý vô thường ấy là chân lý của cuộc sống, cho nên đứng về phương diện ý niệm mà xét ta thấy vô thường là tính thay đổi (về phương diện thời gian).
Tuy nhiên thực ra vô thường không hẳn như thế, cho dù vô thường là tiến trình của cái chết, nhưng đồng thời cũng là chìa khóa của sự tái sinh (pháp Duyên sinh) và nguyên lý pháp này, rất cần thiết cho sự hành đạo.

Nhờ quán vô thường mà Thái tử Sĩ Đạt Đa khai mở được trí tuệ Vô thượng, trở thành bậc toàn giác, và là đạo sư của hàng Trời - Người.
Tổ Đạt Ma khai thị lý vô thường bằng câu: “Phiền não là hạt giống của Bồ-đề”. Bồ-tát Long Thọ từng nói lời sấm sét: “Nhờ vô thường, vô ngã…nên tất cả có thể thành tựu”. Lịch sử tiến hóa của nhân loại qua các nền văn minh đều trải qua chân lý vô thường.

Một giáo lý “không thời gian” đã từng hiện hữu trong nhiều thế kỷ mà vẫn còn nguyên giá trị tươi mới “như nó đang có”, bởi nó luôn phù hợp và có thể áp dụng một cách hữu ích với mọi thời đại, cùng các nền văn minh khác nhau.

——-Và về tính không đồng nhất, gọi là vô ngã (không có cái ta tồn tại); về phương diện không gian và khoảng thời gian (cực ngắn) đạo Phật gọi là sát na. Sự biến đổi không ngừng ấy không chỉ diễn ra ở thế giới này mà cả tại các thế giới khác. Từ hạt vật chất cực nhỏ như nguyên tử cho đến thế giới tâm thức là con người, hết thảy là các tập hợp duyên sinh nên nhất thiết phải chịu sự tác động của vô thường.

Người tu học chân chính cần thấy rằng giáo lý Vô thường là một “chân lý hiển nhiên” đó là Thành-Trụ-Hoại-Không, là sự vận hành của biến dịch âm dương trong hiện tượng giới, tức tam giới.
Chỉ do giác ngộ thấy lẽ thực, sống bằng lẽ thực; không sống dựa “cầu xin” hay ỷ lại vào một ai cả, tự nhiên hết khổ. Hết khổ, ắt là vui. Đạo Phật nói rõ lẽ thực rằng: có giác ngộ mới giải thoát được.
Tiến Sĩ Oldenburg, học giả người Đức cho rằng: “Đức Phật không giải thoát con người, nhưng Ngài dạy con người phải tự chính mình giải thoát lấy mình, như chính Ngài đã tự giải thoát lấy Ngài. Con người chấp nhận giáo lý của Ngài là chân lý, không phải giáo lý này đến từ nơi Ngài, nhưng vì lòng xác tín cá nhân, thức tỉnh bởi những lời Ngài dạy, trỗi dậy bởi ánh sáng trí tuệ của chính mình.
Và phải chăng nguyên tắc của trí tuệ là gì? Là cái gì cũng phải suy lý.
Có nghĩa là muốn phủ nhận cái gì thì ta cũng phải tìm lý do, mà ta muốn tin cái gì ta cũng phải tìm lý do., đó gọi là có Chánh kiến
Chánh Kiến được định nghĩa rất đơn giản:
-Một là cái thấy về lý Nhân Quả.
-Hai là cái thấy về lý Tam Tướng
.—-Chánh kiến cũng có thể thấy với hai. điều Đó là: Một là thấy rằng mọi sự ở đời do duyên là có. Hai là có rồi phải mất.
Và con đường giải thoát phải qua 37 pháp bồ đề (Thất giác chi, Bát Chánh Đạo, Ngũ quyền, Ngũ lực, Tứ như ý túc, Tứ chánh cần, Tứ Niệm Xứ) vaf cách nói phổ biến nhất là Bát Chánh Đạo.
Vì sao? Là vì thông quá Bát Chánh Đạo mình thấy rõ cái Tam Học trong đó. Chánh kiến, chánh tư duy là Tuệ học. Chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng thuộc về Giới học. Và còn lại là Định học.
Hai nữa, nhìn vô con số tám của Bát chánh đạo thì mình thấy được trong đó gồm có thân, khẩu, ý. Chánh ngữ là về khẩu, chánh nghiệp là về thân và phần còn lại là về ý. Đó là một cách phân tích rất là nổi tiếng.
Nói rốt ráo lại người học Phật chân chính cần phải thấy được “Hạnh phúc không đáng để mình ước mơ và đau khổ không đáng để mình sợ hãi” vì cái khổ nó không có lâu, cho nên nó không có gì để mình sợ. Mà hạnh phúc nó không có đáng để mình phải đam mê vì nó rất là ngắn. Đó là nói về mặt khía cạnh thời gian.
Còn về khía cạnh bản thể, bản chất, thì vì đâu mà có cái thích đó do tiền nghiệp, khuynh hướng tâm lý và môi trường sống trong cái tập đế ( nguyên nhân chính là tham ái từ đó mới có cái thích, cái ghét. Vì có cái thích và cái ghét cho nên mới có đau khổ và hạnh phúc .
Người Phật tử chân chính là người họ phải thấy rằng bản thân cái sự có mặt trên đời này là một cái gánh nặng .Vì trong Đạo và đời họ đều phải cư xử sao cho mối quan hệ giữa người và người thật tốt đẹp.
Có phải biết nói năng là nghệ thuật sống .?
Trải kinh nghiệm cuộc đời….Chánh ngữ rất cần
Trọn kiếp người, chỉ đổi nhiệm sở hai lần thôi
Một tại quê hương và một nơi hải ngoại
Đừng tưởng không chút cầu tiến… biết tiến thoái !
Suy cho cùng chính là thái độ muốn an yên
Nơi nào được người dưới hỗ trợ, vừa lòng cấp trên
Là thể hiện được mối quan hệ đúng cách !
Từ đó dành
thời gian học hỏi để hoàn thành trọng trách
Tất nhiên lúc nào cũng lấy thành tín làm đầu
Không quá khách sáo, trái tim cảm thông nhau
Biết thể hiện công nhận giá trị nào sâu sắc !
Xử lý thật khéo léo mỗi khi có khúc mắc
Rằng nghiệp duyên mới có họa tại này
Một lần lỡ lời, khó thay đổi cuộc diện ngay
Chấp nhận lỗi mình cách tích cực, chuyên nghiệp
Đừng quá nhạy cảm bất mãn …
tỏ ra mình thông minh, mẫn tiệp !,
Dần dần thay đổi nhận thức thái độ, hành vi
Không quá mềm lòng, để giữ mãi duy trì
Nghệ thuật sống trong đạo, đời … thu nhiếp !!
(Thơ Huệ Hương )
Trở lại cái nhìn “như thị” của đạo Phật.
Muốn có cái nhìn như thực ấy thật không dễ, bởi thấy được lẽ thật đồng thời cũng biết được những cái không thật, cho nên phải có trí tuệ.
Muốn có trí tuệ thì phải “lấy sự nghe, sự suy nghĩ, sự tu tập để phát triển trí tuệ” (kinh Di giáo). Và đó là tự thân của mỗi người nên chỉ có tự mình nỗ lực học và tu, không ai có thể làm thay mình được.

Vì vậy Quá trình “ngộ” trong Phật giáo là quá trình bài trừ những quấy nhiễu không cần thiết gọi là bài trừ mọi phiền não. Do đó “ngộ” là tự ngộ, không ai thay cho ai được cả.
Trí tuệ để diệt trừ phiền não của nhà Phật được gọi là trí tuệ Vô lậu.
Nó là một trong ba môn học rất căn bản trong hệ thống giáo dục Phật giáo được gọi là: “Tam vô lậu học”- ba môn học để diệt trừ phiền não. Tam vô lậu học ấy là “Giới-Định-Tuệ”.

Và hầu hết các kinh điển Phật giáo, trí tuệ luôn được đề cao và được xem là “tối thắng nhất trên đời”. Còn nhớ giây phút cuối cùng trước khi nhập Niết-bàn, đức Phật đã nói lời khẩn thiết với các đệ tử là phải luôn luôn trau dồi trí tuệ và coi “Trí tuệ là chiếc thuyền kiên cố chở qua khỏi biển già, bệnh, chết; là ngọn đèn lớn chiếu phá vô minh hắc ám, là liều thuốc hay cho hết thảy bệnh tật, là chiếc búa sắt chặt gẫy cây phiền não…” (kinh Di giáo).
Kính thưa quý đạo hữu, đây là những gì được học hỏi nhiều năm kính xin trình bày qua lời dạy Thầy, Tổ và kính mạn phép được chia sẻ một pháp thoại mà mình thấy hữu ích nhất cho sự tu tập qua lời giảng của HT Viên Minh sau đây:
TÁNH BIẾT LÀ PHÁP MÔN NỔI TRỘI NHẤT
Lời kết:
Mời các bạn chiêm nghiệm lời nhận xét thật chính xác về Đạo Phật để học được những gì tinh hoa nhất đã được thể hiện nơi Đức Đạo Sư siêu việt của chúng ta đoán là sự kết hợp gần như độc nhất của một đầu óc khoa học trầm tĩnh và thiện cảm sâu xa của lòng từ tâm để từ đó đi theo con đường chân chính.
Và kính xin mượn lời của nhà bác học Albert Einstein “"Nếu có một tôn giáo nào đương đầu với các nhu cầu của khoa học hiện đại thì đó là Phật giáo. Phật giáo không cần xét lại quan điểm của mình để cập nhật hóa với những khám phá mới của khoa học. Phật giáo không cần phải từ bỏ quan điểm của mình để xu hướng theo khoa học, vì Phật giáo bao hàm cả khoa học cũng như vượt qua khoa học"…. "Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo toàn cầu, vượt lên trên mọi thần linh, giáo điều và thần học. Tôn giáo ấy phải bao quát cả phương diện tự nhiên lẫn siêu nhiên, đặt trên căn bản của ý thức đạo lý, phát xuất từ kinh nghiệm tổng thể gồm mọi lĩnh vực trên trong cái nhất thể đầy đủ ý nghĩa. Phật giáo sẽ đáp ứng được các điều kiện đó".

Và Đạo đức Kinh của Lão Tử có câu: “Theo học (tức học thế gian) ngày càng thêm, theo đạo ngày càng bớt” (vi học nhật ích, vi đạo nhật tổn) là dụng ý nói về sự đối lập giữa nghiên cứu, suy luận, tưởng tượng của thế gian trí và thiền Thanh tịnh (tức Như Lai thanh tịnh thiền) với Chân nghĩa bản thể của Tuệ vô lậu

Kính trân trọng chia sẻ
Huệ Hương
 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
13/12/2010(Xem: 24570)
Văn hóa như hơi thở của sự sống. Chính vì vậy mà qua bao thăng trầm nghiệt ngã của lịch sử, Đạo Phật như một sức sống văn hóa ấy vẫn còn đó, như một sinh chất nuôi dưỡng nếp sống tâm linh cho con người.
10/12/2010(Xem: 9470)
Hoà Thượng thế danh Diệp Quang Tiền, pháp danh Tâm Khai, tự Thiện Giác, hiệu Trí Ấn Nhật Liên. Ngài sanh ngày 13 tháng 10 năm Quý Hợi (1923) tại thôn Xuân Yên, xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, trong một gia đình thâm tín Phật Giáo. Thân phụ là cụ Diệp Chí Hoan; thân mẫu là cụ bà Phan Thị Đường. Hai cụ sinh hạ được 5 người con : 4 nam, 1 nữ - Ngài là con thứ trong gia đình, sau anh trưởng là Thầy Diệp Tôn (Thích Thiện Liên). Năm lên 6 tuổi (1928) gia đình Ngài dời về thôn Diên Sanh, xã Hải Thọ, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Thân sinh Ngài đã rước thầy Đồ Nho danh tiếng về nhà để dạy chữ Hán cho hai con. Hai anh em Ngài thường được cụ Đồ khen là thông minh, hứa hẹn một tương lai tốt đẹp. Năm lên 10 tuổi (1932), Ngài theo học Việt Văn tại thôn Diên Sanh.
16/11/2010(Xem: 11140)
“Nam Kha nhất mộng đoạn, Tây Vức cửu liên khai, phiên thân quy Tịnh Độ, hiệp chưởng lễ Như Lai
30/10/2010(Xem: 3625)
Tiểu sử cho biết rằng, vào năm 1542 sau khi dâng sớ lên vương triều Mạc đòi chém 18 kẻ lộng thần, nhưng không được vua Mạc bấy giờ là Mạc Phúc Hải chấp thuận. Nguyễn Bỉnh Khiêm liền cáo quan về lại quê quán ở làng Trung Am. Nay là huyện Vĩnh Bảo thành phố Hải Phòng. Dù thất bại ở triều đình không thực hiện được hoài bão như dự tính lúc ban đầu: Dân giai thức mục quan tân chính
30/10/2010(Xem: 5377)
Như tôi cũng đã thưa rồi, hiếm ai dành nhiều thời gian để nhớ về mẹ như tôi. Chuyện gì buồn vui cũng là cái cớ để tôi nhớ về mẹ bằng tất cả tim óc. Tôi đã nhớ mẹ qua bất cứ hình ảnh nào của các bậc cha mẹ trong đời mà tôi quen biết, trong giao thiệp hay chỉ nhìn thấy trên phim ảnh sách báo... Có điều là không ít hình ảnh trong số đó cứ khiến tôi đau đáu một nỗi riêng không chịu thấu: 1. Họ là những bậc cha mẹ với tuổi đời chưa bao nhiêu nhưng đã bắt đầu quên mất tuổi trẻ của mình cho đứa con đầu lòng. Một tuổi trẻ tất bật áo cơm, không có rong chơi, không có ngơi nghỉ, không có thời gian riêng tư, dẹp luôn những không gian độc lập để sống như mình vẫn ao ước thời chớm lớn. Họ Mất hết cho cái mà họ cho là Được – đó chính là đứa con! Nhìn họ tôi nhớ mẹ!
28/10/2010(Xem: 3258)
ù bây giờ đã qua hết những ngày tất tả ngược xuôi lo chạy gạo bữa đói bữa no, lăn lóc chợ trời nhục nhã ê chề tấm thân; những ngày dầm mưa dãi nắng lặn lội đi thăm nuôi nhưng những kỷ niệm buồn sâu thẳm vẫn còn đậm nét trong lòng tôi mãi mãi mỗi độ tháng tư về. Sau khi hai đứa con ra đi được hai ngày, tôi được tin chuyến tàu bị bể. Tôi vừa bàng hoàng vừa cầu xin đó không phải là sự thật, nếu quả đúng như vậy liệu tôi có còn đủ sức chịu đựng hay không vì chồng tôi đang còn ở trong trại cải tạo. Nóng ruột quá, tôi bèn rủ một em học trò cũ lên nhà bà chủ tàu để dò hỏi tin tức. Khi đi thì hăng hái như vậy nhưng gần đến ngõ rẽ đi vào nhà, tôi không còn can đảm tiếp tục bước nữa. Tôi ngồi lại một mình dưới gốc cây vừa niệm Phật vừa cầu xin, mắt không rời theo dõi vào con ngõ sâu hun hút đó. Càng chờ ruột gan càng nóng như lửa đốt, không chịu nổi nữa tôi đi liều vào. Vừa đến nơi hai chân tôi đã muốn khuỵu xuống, một bầu không khí im lặng nặng nề, hai người ngồi như 2 pho tượng; sau đó em h
21/10/2010(Xem: 10716)
Bướm bay vườn cải hoa vàng , Hôm nay chúng ta cùng đọc với nhau bài Bướm bay vườn cải hoa vàng. Bài này được sáng tác trước bài trường ca Avril vào khoảng năm tháng. Viết vào đầu tháng chạp năm 1963. Trong bài Bướm bay vườn cải hoa vàng chúng ta thấy lại bông hoa của thi sĩ Quách Thoại một cách rất rõ ràng. Đứng yên ngoài hàng dậu Em mỉm nụ nhiệm mầu Lặng nhìn em kinh ngạc Vừa thoáng nghe em hát Lời ca em thiên thâu
17/10/2010(Xem: 3735)
Tây Du Ký tiêu biểu cho tiểu thuyết chương hồi bình dân Trung Quốc, có ảnh hưởng sâu sắc đến sinh hoạt xã hội các dân tộc Á Châu. Không những nó đã có mặt từ lâu trong khu vực văn hóa chữ Hán (Trung, Đài, Hàn, Việt, Nhật) mà từ cuối thế kỷ 19, qua các bản tuồng các gánh hát lưu diễn và văn dịch, Tây Du Ký (TDK) đã theo ngọn gió mùa và quang thúng Hoa Kiều đến Thái, Mã Lai, In-đô-nê-xia và các nơi khác trên thế giới. Âu Mỹ cũng đánh giá cao TDK, bằng cớ là Pháp đã cho in bản dịch TDK Le Pèlerin vers l’Ouest trong tuyển tập Pléiade trên giấy quyến và học giả A. Waley đã dịch TDK ra Anh ngữ từ lâu ( Monkey, by Wu Ch’Êng-Ên, Allen & Unwin, London, 1942). Ngoài ra, việc so sánh Tây Du Ký2 và tác phẩm Tây Phương The Pilgrim’s Progress (Thiên Lộ Lịch Trình) cũng là một đề tài thú vị cho người nghiên cứu văn học đối chiếu.
08/10/2010(Xem: 15177)
Phật nói : Lấy Tâm làm Tông, lấy không cửa làm cửa Pháp. Đã không cửa làm sao đi qua ? Há chẳng nghe nói : “Từ cửa vào không phải là đồ quý trong nhà. Do duyên mà được, trước thì thành, sau thì hoại.” Nói như thế giống như không gió mà dậy sóng, khoét thịt lành làm thành vết thương. Huống hồ, chấp vào câu nói để tìm giải thích như khua gậy đánh trăng, gãi chân ngứa ngoài da giầy, có ăn nhằm gì ? Mùa hạ năm Thiệu Định, Mậu Tý, tại chùa Long Tường huyện Đông Gia, Huệ Khai là Thủ Chúng nhân chư tăng thỉnh ích bèn lấy công án của người xưa làm viên ngói gõ cửa, tùy cơ chỉ dẫn người học. Thoạt tiên không xếp đặt trước sau, cộng được 48 tắc gọi chung là “Cửa không cửa”. Nếu là kẻ dõng mãnh, không kể nguy vong, một dao vào thẳng, Na Tra tám tay giữ không được. Tây Thiên bốn bẩy (4x7=28) vị, Đông Độ hai ba (2x3=6) vị chỉ đành ngóng gió xin tha mạng. Nếu còn chần chờ thì giống như nhìn người cưỡi ngựa sau song cửa, chớp mắt đã vượt qua.
08/10/2010(Xem: 3503)
Tiểu sử chép: “Năm 19 tuổi Chân Nguyên đọc quyển Thực Lục sự tích Trúc Lâm đệ tam tổ Huyền Quang,chợt tỉnh ngộ mà nói rằng, đến như cổ nhân ngày xưa, dọc ngang lừng lẫy mà còn chán sự công danh, huống gì mình chỉ là một anh học trò”. Bèn phát nguyện đi tu. Thế là cũng như Thiền sư Huyền Quang, Chân Nguyên cũng leo lên núi Yên Tử để thực hiện chí nguyện xuất gia học đạo của mình. Và cũng giống như Huyền Quang, Chân Nguyên cũng đã viết Thiền tịch phú khi Chân Nguyên còn đang làm trụ trì tại chùa Long Động trên núi Yên Tử.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]