Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Sống Chủ Định Với Cái Ta Giả Dối

24/06/202312:17(Xem: 3795)
Sống Chủ Định Với Cái Ta Giả Dối

gia tao

Sống Chủ Định
Với Cái Ta Giả Dối




Bạn ơi,

Trong hệ thống triết học và lề lối suy nghĩ của Tây Phương thì thế giới này có thật, sơn hà đại địa, con người và cái Tôi hay cái Ngã đều có thật. Descartes nói rằng “Tôi biết suy nghĩ nên cái tôi có thật” (Je pense, donc je suis). Còn Pascal nói rằng cái Tôi có thật nhưng nó chỉ đáng ghét thôi (Le moi est haïssable). Thậm chí Thượng Để -một vị thần tối cao ở đâu đó cũng có thật.

Thế nhưng trong từng hơi thở của cuộc sống, chúng ta luôn có ảo tưởng cầm nắm được và hiểu biết được con người đích thực của mình.
Ta lầm lũi và hớn hở chạy theo cuộc sống. Ta chủ định làm cái này, ta quyết định làm cái kia, không làm cái nọ.

Cái khối óc kiêu hãnh đó và cả thêm cái kinh nghiệm chồng chất đó, đã đưa ra những phán quyết khôn ngoan nhất cho ta. Ta tin vào nó, ta sống và đang sống dưới sự chỉ huy của nó. Và cũng vì nhờ nó mà ta lại rút ra được kinh nghiệm…thành công có, thất bại có, vui buồn có.

Do đó, thật không có gì cực đoan khi cho rằng ta đã hiểu và cầm nắm được con người thật của mình. Ta là ta, một cái Ta rất khác biệt với những cái Ta khác. Cái Ta có thực, nó đang tồn tại, nó đang suy nghĩ, nó đang đi, đang đứng. Nó đang và sẽ sống dưới sự chỉ huy bằng trí tuệ của nó.

Nhưng này bạn ơi,

Có một lúc nào đó, ở một sát-na nào đó, ta bỗng chợt tỉnh, chợt thấy mình bơ vơ như đứng giữa một khoảng không vô định. Một nỗi buồn mênh mang chợt đến, vây phủ cả tâm hồn. Ta tra vấn lương tâm và trí tuệ, ta ăn năn, ta phiền muộn rồi tự hỏi tại sao ta lại làm như thế? Để làm gì và để đi về đâu?

Biết bao thẩm tra dồn dập đến như muốn bóp nghẹt và xẻ vạch trái tim ta. Nhưng đau đớn thay, ta bất lực. Ta ăn năn về quá khứ rồi lại tiếp tục ăn năn về quá khứ.

Rồi ta tự hỏi, cái Ta hiện hữu để làm gì? Gốc tích của nó ở đâu? Và nó sẽ đi về đâu? Cái Ta ngày hôm nay có còn giống cái Ta ngày hôm qua không? Hay có muôn ngàn cái Ta cứ tiếp tục chen vai thích cánh nhau hiện hữu ở từng sát-na của một khoảng thời gian hữu hạn? Ta là kẻ xa lạ với chính ta hay cái Ta không có và chắc chắn không có?

Chính vì thế mà bao lần, mỗi khi bình minh thức giấc, một ngày mới lại bắt đầu với trái tim rộn rã hay với bước chân nặng nề. Có khi ta chợt tỉnh và thấy rõ hơn bao giờ hết rằng con người ngày hôm qua của ta chẳng có gì liên hệ tới con người ngày hôm nay. Dường như chẳng có sự liên tục nào giữa hai con người mà hai còn người đó chỉ bị ngăn cách tạm thời bởi một giấc ngủ ngắn ngủi về đêm.

Bạn ơi,

Tôi vẫn cứ bị nỗi buồn như thế làm khắc khoải trái tim. Rõ ràng tôi thấy mình chơi vơi, rã rượi đến cùng độ.

Thế nhưng từ ngày học Phật và hiểu được Tánh Không của vạn pháp tôi chợt bừng tỉnh. Tự nhiên tôi thấy mình sáng suốt và nhận biết được sự hiện hữu của con người mình.

Tôi chợt thấy cái Ta của mình hiển lộ và cái Ta đứng trang nghiêm trong khoảng không gian trôi chảy không ngừng nghỉ.

Chúng ta có muôn vàn cái Ta. Cái Ta lúc trước, cái Ta bây giờ, cái Ta ngày hôm nay, cái Ta ngày hôm qua và cái Ta trong vô lượng quá khứ. Không có cái Ta nào thật cả. Nó do Duyên Khởi mà biến hiện.

Và tôi chợt nhận ra rằng tôi đang tỉnh thức giữa cái Ta giả dối, vô thường. Từ đó tôi hết sức thận trọng khi xác định hay phủ định một chuyện gì và cũng hết sức thận trong với những gì mình muốn, mình đang nói và đang làm cũng như sẽ nói và sẽ làm.


Bạn ơi,

Chúng ta đang bị cuốn trôi theo dục vọng của mình. Mà dục vọng chính là cuộc sống này đây. Chúng ta thèm khát hoặc khổ đau vì chạy theo những gì mà người khác có và có khi còn muốn nhiều hơn nữa. Thế giới càng văn minh, vật chất càng nhiều thì dục vọng càng nhiều. Chúng ta tưởng như chúng ta là “chủ” nhưng thực chất lại là “nô lệ” của dục vọng và thú vui của chính mình. Cái Ta của chúng ta như một bóng ma bị phủ thủy dẫn dắt. Mà phù thủy ở đây chính là tham-dục của chính mình.


Bạn ơi,

Điếu thuốc lá trên môi - chúng ta “làm chủ” nó hay bị nó trói buộc và sai khiến? Thiếu nó, chúng ta làm đủ mọi chuyện ghê gớm trên cõi đời này để mua về phục vụ cho cái lưỡi, phục vụ cho cái ảo giác giả dối của mình. Còn cái lâu đài kia, chúng ta làm chủ hay nó làm chủ chúng ta. Mất nó có khi chúng ta tự tử chết. Vậy thì tòa lâu đài đó sai khiến chúng ta. Ta là nô lệ cho chính tòa lâu đài của mình.

Vậy thì chạy theo tham vọng, đam mê và thú vui là cái Ta giả dối, cái Ta tù ngục.

Sống chủ định, bớt đam mê, bớt tham dục, bớt hối hả và lăng xăng là cái Ta an định, nhẹ nhàng và rất tự do. Tự do, không bị trói buộc tức là giải thoát.

Và nhớ suy nghĩ lời dạy trong Kinh Đại Bát Nhã (*), “Quán sát sâu sắc muôn loài, muôn vật (vạn pháp) như ảo ảnh, như quáng nắng, như chiêm bao, như trăng đáy nước, như tiếng vang, như hoa đóm trên không, như ảnh, như bóng sáng, như trò ảo thuật, như ảo thành…tuy đều là không thật, nhưng hiện ra giống như thật.” 


Vậy thì cái Ta tưởng là thật mà không phải thật.


Thiện Quả Đào Văn Bình


(*) Bản dịch của cố Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/12/2010(Xem: 9338)
Hoà Thượng thế danh Diệp Quang Tiền, pháp danh Tâm Khai, tự Thiện Giác, hiệu Trí Ấn Nhật Liên. Ngài sanh ngày 13 tháng 10 năm Quý Hợi (1923) tại thôn Xuân Yên, xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, trong một gia đình thâm tín Phật Giáo. Thân phụ là cụ Diệp Chí Hoan; thân mẫu là cụ bà Phan Thị Đường. Hai cụ sinh hạ được 5 người con : 4 nam, 1 nữ - Ngài là con thứ trong gia đình, sau anh trưởng là Thầy Diệp Tôn (Thích Thiện Liên). Năm lên 6 tuổi (1928) gia đình Ngài dời về thôn Diên Sanh, xã Hải Thọ, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Thân sinh Ngài đã rước thầy Đồ Nho danh tiếng về nhà để dạy chữ Hán cho hai con. Hai anh em Ngài thường được cụ Đồ khen là thông minh, hứa hẹn một tương lai tốt đẹp. Năm lên 10 tuổi (1932), Ngài theo học Việt Văn tại thôn Diên Sanh.
16/11/2010(Xem: 10888)
“Nam Kha nhất mộng đoạn, Tây Vức cửu liên khai, phiên thân quy Tịnh Độ, hiệp chưởng lễ Như Lai
30/10/2010(Xem: 3579)
Tiểu sử cho biết rằng, vào năm 1542 sau khi dâng sớ lên vương triều Mạc đòi chém 18 kẻ lộng thần, nhưng không được vua Mạc bấy giờ là Mạc Phúc Hải chấp thuận. Nguyễn Bỉnh Khiêm liền cáo quan về lại quê quán ở làng Trung Am. Nay là huyện Vĩnh Bảo thành phố Hải Phòng. Dù thất bại ở triều đình không thực hiện được hoài bão như dự tính lúc ban đầu: Dân giai thức mục quan tân chính
30/10/2010(Xem: 5289)
Như tôi cũng đã thưa rồi, hiếm ai dành nhiều thời gian để nhớ về mẹ như tôi. Chuyện gì buồn vui cũng là cái cớ để tôi nhớ về mẹ bằng tất cả tim óc. Tôi đã nhớ mẹ qua bất cứ hình ảnh nào của các bậc cha mẹ trong đời mà tôi quen biết, trong giao thiệp hay chỉ nhìn thấy trên phim ảnh sách báo... Có điều là không ít hình ảnh trong số đó cứ khiến tôi đau đáu một nỗi riêng không chịu thấu: 1. Họ là những bậc cha mẹ với tuổi đời chưa bao nhiêu nhưng đã bắt đầu quên mất tuổi trẻ của mình cho đứa con đầu lòng. Một tuổi trẻ tất bật áo cơm, không có rong chơi, không có ngơi nghỉ, không có thời gian riêng tư, dẹp luôn những không gian độc lập để sống như mình vẫn ao ước thời chớm lớn. Họ Mất hết cho cái mà họ cho là Được – đó chính là đứa con! Nhìn họ tôi nhớ mẹ!
28/10/2010(Xem: 3228)
ù bây giờ đã qua hết những ngày tất tả ngược xuôi lo chạy gạo bữa đói bữa no, lăn lóc chợ trời nhục nhã ê chề tấm thân; những ngày dầm mưa dãi nắng lặn lội đi thăm nuôi nhưng những kỷ niệm buồn sâu thẳm vẫn còn đậm nét trong lòng tôi mãi mãi mỗi độ tháng tư về. Sau khi hai đứa con ra đi được hai ngày, tôi được tin chuyến tàu bị bể. Tôi vừa bàng hoàng vừa cầu xin đó không phải là sự thật, nếu quả đúng như vậy liệu tôi có còn đủ sức chịu đựng hay không vì chồng tôi đang còn ở trong trại cải tạo. Nóng ruột quá, tôi bèn rủ một em học trò cũ lên nhà bà chủ tàu để dò hỏi tin tức. Khi đi thì hăng hái như vậy nhưng gần đến ngõ rẽ đi vào nhà, tôi không còn can đảm tiếp tục bước nữa. Tôi ngồi lại một mình dưới gốc cây vừa niệm Phật vừa cầu xin, mắt không rời theo dõi vào con ngõ sâu hun hút đó. Càng chờ ruột gan càng nóng như lửa đốt, không chịu nổi nữa tôi đi liều vào. Vừa đến nơi hai chân tôi đã muốn khuỵu xuống, một bầu không khí im lặng nặng nề, hai người ngồi như 2 pho tượng; sau đó em h
21/10/2010(Xem: 10444)
Bướm bay vườn cải hoa vàng , Hôm nay chúng ta cùng đọc với nhau bài Bướm bay vườn cải hoa vàng. Bài này được sáng tác trước bài trường ca Avril vào khoảng năm tháng. Viết vào đầu tháng chạp năm 1963. Trong bài Bướm bay vườn cải hoa vàng chúng ta thấy lại bông hoa của thi sĩ Quách Thoại một cách rất rõ ràng. Đứng yên ngoài hàng dậu Em mỉm nụ nhiệm mầu Lặng nhìn em kinh ngạc Vừa thoáng nghe em hát Lời ca em thiên thâu
17/10/2010(Xem: 3718)
Tây Du Ký tiêu biểu cho tiểu thuyết chương hồi bình dân Trung Quốc, có ảnh hưởng sâu sắc đến sinh hoạt xã hội các dân tộc Á Châu. Không những nó đã có mặt từ lâu trong khu vực văn hóa chữ Hán (Trung, Đài, Hàn, Việt, Nhật) mà từ cuối thế kỷ 19, qua các bản tuồng các gánh hát lưu diễn và văn dịch, Tây Du Ký (TDK) đã theo ngọn gió mùa và quang thúng Hoa Kiều đến Thái, Mã Lai, In-đô-nê-xia và các nơi khác trên thế giới. Âu Mỹ cũng đánh giá cao TDK, bằng cớ là Pháp đã cho in bản dịch TDK Le Pèlerin vers l’Ouest trong tuyển tập Pléiade trên giấy quyến và học giả A. Waley đã dịch TDK ra Anh ngữ từ lâu ( Monkey, by Wu Ch’Êng-Ên, Allen & Unwin, London, 1942). Ngoài ra, việc so sánh Tây Du Ký2 và tác phẩm Tây Phương The Pilgrim’s Progress (Thiên Lộ Lịch Trình) cũng là một đề tài thú vị cho người nghiên cứu văn học đối chiếu.
08/10/2010(Xem: 14941)
Phật nói : Lấy Tâm làm Tông, lấy không cửa làm cửa Pháp. Đã không cửa làm sao đi qua ? Há chẳng nghe nói : “Từ cửa vào không phải là đồ quý trong nhà. Do duyên mà được, trước thì thành, sau thì hoại.” Nói như thế giống như không gió mà dậy sóng, khoét thịt lành làm thành vết thương. Huống hồ, chấp vào câu nói để tìm giải thích như khua gậy đánh trăng, gãi chân ngứa ngoài da giầy, có ăn nhằm gì ? Mùa hạ năm Thiệu Định, Mậu Tý, tại chùa Long Tường huyện Đông Gia, Huệ Khai là Thủ Chúng nhân chư tăng thỉnh ích bèn lấy công án của người xưa làm viên ngói gõ cửa, tùy cơ chỉ dẫn người học. Thoạt tiên không xếp đặt trước sau, cộng được 48 tắc gọi chung là “Cửa không cửa”. Nếu là kẻ dõng mãnh, không kể nguy vong, một dao vào thẳng, Na Tra tám tay giữ không được. Tây Thiên bốn bẩy (4x7=28) vị, Đông Độ hai ba (2x3=6) vị chỉ đành ngóng gió xin tha mạng. Nếu còn chần chờ thì giống như nhìn người cưỡi ngựa sau song cửa, chớp mắt đã vượt qua.
08/10/2010(Xem: 3458)
Tiểu sử chép: “Năm 19 tuổi Chân Nguyên đọc quyển Thực Lục sự tích Trúc Lâm đệ tam tổ Huyền Quang,chợt tỉnh ngộ mà nói rằng, đến như cổ nhân ngày xưa, dọc ngang lừng lẫy mà còn chán sự công danh, huống gì mình chỉ là một anh học trò”. Bèn phát nguyện đi tu. Thế là cũng như Thiền sư Huyền Quang, Chân Nguyên cũng leo lên núi Yên Tử để thực hiện chí nguyện xuất gia học đạo của mình. Và cũng giống như Huyền Quang, Chân Nguyên cũng đã viết Thiền tịch phú khi Chân Nguyên còn đang làm trụ trì tại chùa Long Động trên núi Yên Tử.
05/10/2010(Xem: 13298)
Trải vách quế gió vàng hiu hắt, Mảnh vũ y lạnh ngắt như đồng, Oán chi những khách tiêu phòng, Mà xui phận bạc nằm trong má đào.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]