Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Viết cho Đức Hạnh (bài viết của Ôn Tuệ Sỹ, do Phật tử Diệu Danh diễn đọc)

16/06/202304:50(Xem: 3573)
Viết cho Đức Hạnh (bài viết của Ôn Tuệ Sỹ, do Phật tử Diệu Danh diễn đọc)
ht tue sy


Viết cho Đức Hạnh

Bài viết của HT Thích Tuệ Sỹ
Diễn đọc: Phật tử Diệu Danh




Có người khách mang đến cho tôi một gói quà. Bên trong là hai quyển sách: Đất nước Cực Lạc, Ánh Sáng và bóng tối. Tác giả: Liên Hoa Bảo Tịnh. Khoảng thời gian sau này, tôi có rất ít điều kiện để đọc thêm được những sách mới, nên không ngạc nhiên nhiều lắm với tác giả lạ. Dẫu sao, trong tình cảnh ấy mà được đọc những sách lạ, nhất là được gởi từ phương trời xa lạ, thì cũng thật là thú vị. Rồi càng đọc càng thú vị. Một phần vì có những kiến giải bất ngờ của tác giả, về những điểm giáo lý mà mình rất quen thuộc. Quen thuộc từ khi mình còn là một tiểu sa-di. Nhưng phần khác, thú vị hơn, khi biết rằng Liên Hoa Bảo Tịnh cũng là Đức Hạnh – đó là chú Hạnh, một thời ở Già Lam cùng với chú Sỹ.

Hồi ấy, khoảng từ 1962-1963, Già Lam chỉ mới có một dãy nhà tranh cho các chú, với ba gian nhà gạch; gian giữa thờ Phật; một gian để dành cho thầy trù trì. Gian còn lại, thỉnh thoảng Thượng Tọa Giám Viện từ Nha Trang vào trông chừng các chú tu học như thế nào, và thường xuyên hơn là Thượng Tọa Thiện Minh. Già Lam, tức Tăng-già-lam của Phật học viện, hình thức như một cư xá cho lưu học sinh. Phật học viện trung phần dùng đây làm chổ tu học cho các chú đã đậu tú tài II từ các trường trực thuộc. Một số theo học tại các phân khoa của Viện Đại học Sàigòn. Một vài chú khác được viện gởi vào để theo học các lớp Anh văn của Hội Việt Mỹ. Chú Hạnh ở trong số các chú này. Còn tôi trước đó thuộc loại tiểu giang hồ, lang thang qua nhiều chùa ở miền Nam mà không đủ điều kiện nhập chúng. Rồi do thầy trù trì giới thiệu, được Thượng tọa Giám viện thương tình cho về Già Lam tá túc. Dù không thân, rồi cũng trở thành thân thiết. Tình huynh đệ trong chốn thiền môn là vậy.




Dễ chừng cũng hơn ba mươi năm, kể từ ngày tôi hành cước sang Vạn Hạnh. Hình chú vân du lên vùng thượng nguyên, dạy Anh văn tại các trường Trung học Bồ Đề.

Ba mươi năm, vật đổi sao dời. Đất nước hòa bình nhưng con người ly tán. Tan ở chổ này, để tụ lại ở nơi khác. Mỗi người ra đi theo mỗi hướng khác nhau, mà trong sâu thẳm của tâm tư vẫn còn ủ kín sơ tâm học đạo dù chí nguyện chưa tròn. Riêng phần tôi, trong ngần ấy năm, trầm luân qua gần đủ sáu nẻo luân hồi trong một kiếp nhân sinh. Khi được đưa về cảnh cũ, huynh đệ cũ không còn ai cả. Phố phường thị tứ náo nhiệt hẳn lên. Chùa chiền cũng náo nhiệt theo, trào lưu và thời thượng. Hai thứ tóc, bỗng thấy mình bối rối. Cho nên, khi bất chợt đọc được những trang sách, mà thoạt đầu cảm thấy lạ, rồi nhận thấy thân quen, như nghe lại âm hưởng của một thời hành điệu. Người trở về, thời gian đã đổi. Nhưng người đi xa, gốc cổ thụ vẫn còn hắt bóng qua nửa phuơng trời. Hạt giống bồ đề qua biết bao lần lữa thiêu, nước cuốn; hình hài có thay đổi, mầm sống không hư hao. Tôi đọc những trang sách ấy, khám phá lẽ đời và lẽ đạo từ một mảng đời phiêu bạt của người bạn đồng học, đồng tu cũ.

Tôi vốn làm thân con mọt sách. Chìm nổi qua gần đủ sáu nẻo luân hồi trong một kiếp nhân sinh, khi trở về, vẫn là con mọt sách. Đức Hạnh có lẽ là hạt cải lăn lóc giữa đường đời bụi bặm. Mỗi dặm đường, thêm một lớp bụi, tưởng chừng hạt nhân bên trong héo quắt. Thế giới này tuy chợt có chợt không; cõi nhân sinh tuy bị cuốn hút trong ái dục, cuồng vọng; nhưng từ trong tự tính huyền vi, nguồn sữa từ thai tạng của Như Lai vẫn ngọt ngào nuôi dưỡng chủng tử bồ đề cho tuỳ thời lớn mạnh. Rồi hạt cải nảy mầm, có phải như vậy không? Tôi không biết rõ điều đó, nhưng biết khá rõ một điều khác: khổ hải thao thao, hồi đầu thị ngạn.

Chúng tôi mỗi người từ một góc trời riêng biệt, từ những đường đời gập gềnh bên ngoài Phật học viện, bất chợt cảm thấy đang cùng nhìn về những ngày cũ, nhìn lại tâm nguyện ban sơ, thấy lại ước vọng một thời thanh xuân vẫn còn thấp thoáng dưới bóng chùa. Những trang sách của chú khiến tôi cảm nhận được một nguồn an lạc của nhiều ngây thơ từ những ngày bé bỏng. Rồi Chú gởi thiếp theo một loạt đang viết cho quyển sách dự định xuất bản. Tôi đọc không như một đọc giả đi tìm những ý tưởng hay những quan điểm mới lạ, tìm những gì mà mình chưa nghĩ đến trong kho tàng Thánh điển bao la. Tôi đọc những bài viết này với tâm trạng của một người ước mong khám phá những gì chưa biết về một người bạn, tưởng chừng như quên hẳn. Ở đấy, vẫn những điểm giáo lý quen thuộc, mà một thời đã cùng chung học tập, và cũng có khi tranh luận. Với tôi, nền tảng giáo lý ấy theo thời gian được chồng thêm nhiều lớp sở tri đông tây kim cổ, tưởng như mãi mãi bị khuất kín dưới lớp kiến văn quảng bác. Rồi bổng nhiên, từ những trang sách tình cờ, quá khứ một thời sống dậy, với tất cả tình cảm và tri thức. Khi ấy tôi cũng nhận ra rằng, cũng những điểm giáo lý ấy nơi Đức Hạnh tưởng là đã chôn vùi, quên lãng dưới những lớp bụi đời; nhưng không, những điểm giáo lý quá đơn sơ, mỏng và nhẹ vừa đủ cho những Chú sa-di non nớt cả về lẽ đạo và nghĩa đời cất giữ trong tâm tư, làm hành trang cho đường đi sắp tới; những điểm giáo lý ấy bây giờ chợt lục lại, mới hay đấy là những mầm giống tuy rất dể mục rã với thời gian, nhưng bởi tự tính là chất kim cang bất hoại nên vẫn tiềm tàng đâu đó trong đáy sâu của tâm thức, khi thời tiết nhân duyên đến, lại xuất hiện.

Bất hạnh thay, chúng tôi đều sinh vào thời của nhiều ma chướng, cao đồ sộ như bóng núi Thiết vi che kín cả mặt trời Tuệ giác. Thỉnh thoảng ánh sáng bồ đề từ tâm nguyện ban sơ chợt hiện, như đốm sao duy nhất trong đêm tối mịt mù. Tuy vậy, mỗi người vẫn cố đi tới, theo cách riêng của mình, bằng phương tiện và cơ duyên mà mình có. Vì vậy, tôi cảm thấy hân hoan, muốn góp mấy lời vào đầu tác phẩm này của Đức Hạnh. Nhiều khi cảm thấy những gì mình đã viết quá xa với thực tế, góp chặt từ nhiều trang Kinh Luận rồi ghép lại; do đó, khi đọc được những dẫn giải Phật pháp từ chính những vấn đề tế toái của cuộc sống thường nhật, tôi cảm thấy thú vị khi có thể chiêm nghiệm những gì vốn được chiêm nghiệm bằng tư duy luận lý siêu hình. Không chỉ là thể nghiệm, mà trong giới hạn nào đó của cuộc sống, đó còn là sự thể nghiệm chân lý trong sinh hoạt thường nhật. Nói một cách khác, đó là sự thể nghiệm yếu tính của Phật Pháp phiền não tức bồ đề.

Bởi phiền não tức bồ đề, cho nên người cư sĩ sống giữa cõi đời ô nhiễm, bị trói buộc bởi nhiều sợi dây ân oán, vẫn tự thấy bản thân không bị cách ly Thánh đạo. Người cư sĩ học Phật thì nói nhiều hơn làm, đó là giới hạn tất nhiên rất ít ai có thể vượt qua. Nhưng giáo lý Duy thức cũng nói về danh ngôn huân tập. Nói về lẽ thiện, tuy chưa thể hoàn toàn sống đúng với điều mình nói, nhưng tự tính ngôn ngữ có tính huân tập, giống như một thứ tự kỷ ám thị, mầm giống Thánh đạo được xông ướp một cách vô tình hay vô tri, trải qua nhiều thời gian, có khi trải qua mấy a tăng-kỳ kiếp, hạt giống thánh đạo được tích lũy bằng danh ngôn huân tập sẽ đến hồi nãy lộc. Vả lại, người Phật tử học Phật dựa trên ý nghĩa rằng y pháp bất y nhân. Phật pháp không chỉ để nghe suông, mà cần chiêm nghiệm, thực hành, để tự mình phát hiện chân lý. Cho nên, như Phật đã dạy, chớ vội tin điều gì chỉ vì điều đó được nói bởi truyền thống, xuất phát từ chổ được nói là có thẩm quyền, được giảng dạy bởi Đạo sư của mình. Tôi muốn nói đến sứ mạng hoằng truyền Chánh pháp. Những người xuất gia đã dứt bỏ mọi ràng buộc của thế tục, cho nên sự hành đạo và hóa đạo là thuận duyên, và lời giảng pháp là những kinh nghiệm thực chứng. Điều đó thật hữu ích cho người nghe. Nhưng, trong xã hội càng lúc càng phức tạp với đủ loại quan hệ nhân sinh. Kinh nghiệm của người xuất gia về sự thật của thế gian càng lúc càng thu hẹp. Do đó, những lời giảng tuy là từ chứng nghiệm bản thân nhưng nhiều khi xa rời thực tế xã hội khiến người tại gia tuy nghe thì nghe hay thật đấy nhưng khi hành thì lại gặp nhiều tai biến. Chuột nhắt không sợ sư tử, mà chắc chắn là sợ mèo . Đó là điều mà kinh gọi là đối trị tất-đàn. Chân lý của chánh pháp được đánh giá bằng thực tế đối trị. Tất nhiên, căn bản phiền não cần đối trị là tham, sân, si. Giáo lý cao siêu trong nhiều trường hợp trở thành trò lý luận viển vông. Không thể trao gươm thái ất cho trẻ nhỏ đi đập hạt dẻ. Bất cứ viên đá cuội tầm thường nào cũng đều có hiệu quả rất đáng hài lòng hơn.

Đó là vài cảm nghĩ của tôi khi đọc các bài viết Phật pháp của Đức Hạnh. Tôi nghĩ rằng những bài viết về những điểm giáo lý căn băn này được nhìn từ những khía cạnh đời thường cũng sẽ gợi được nhiều hứng vị cho người đọc; từ cảm hứng ấy mà chiêm nghiệm về những vấn đề nhân sinh của chính mình với Phật pháp. Mỗi người có những chứng nghiệm riêng của bản thân, để rồi hiểu rõ càng lúc càng sâu sắc hơn ý nghĩa Phật pháp bất ly thế gian Pháp.

Quảng hương Già Lam

Mùa an cư Phật lịch 2546,

Tuệ Sỹ




Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
21/12/2020(Xem: 3605)
Ai cũng tin rằng tương lai sẽ như vầy, như vầy, đúng như hôm qua và hôm nay đã trù liệu, hoạch định và tiến hành; bởi vì cái nhân gieo xuống với sự trợ duyên của các yếu tố phụ thuộc chung quanh, một cách khoa học và kinh nghiệm, cùng với thời gian vừa đủ để một tiến trình được khai mở, phát triển, chắc hẳn có nhiều phần mang lại kết quả tương xứng, hoặc bội phần, hoặc bội bội phần. Tuy vậy, kinh nghiệm, với những kết quả thực tế của một số sự việc, công trình, cũng cho thấy rằng, không phải lúc nào quả phải theo nhân. Bài học vỡ lòng của nhân-quả dạy chúng ta rằng các yếu tố ngoại tại có khi cũng rất quan trọng để dẫn đến kết quả như ý hay bất xứng ý. Tất nhiên khi nông gia cấy lúa xuống ruộng, đã theo kinh nghiệm lâu năm của cha-ông và nghề nghiệp: biết chọn giống tốt, biết lúc nào gieo mạ, cấy mạ, đưa nước vào ruộng, xả nước khỏi ruộng, xịt thuốc trừ sâu, v.v… Nhưng cũng nông vụ nầy, năm ngoái trúng mùa, năm nay bão giông lũ lụt lại thêm các đập thủy điện xả nước, lúa sẽ bị
10/12/2020(Xem: 6052)
Dạo này đang mùa bầu cử Tổng Thống tại xứ Cờ Hoa, có nhiều tuồng diễn rất ư là ngoạn mục, lấy mất của tôi rất nhiều thời gian. Tôi không còn thì giờ để à ơi mưa nắng với một số các bạn xưa. Muốn nói chuyện cũng phải cân nhắc, lựa lời dò la xem đối phương thuộc về bên nào, có cùng chung một chiến tuyến với mình không? Nhỡ cùng một lũ cuồng hết có mà vỡ nợ! Chẳng những thế tôi còn phải xem sắc mặt của từng ông Chủ Bút của từng tờ báo, giấy cũng như điện tử mà lựa bài để gửi. Gửi sai, chẳng những bài bị vất vào sọt rác mà tình văn nghệ cũng sứt mẻ dài lâu. Tại sao lại ra cớ sự như vậy? Trong lịch sử bầu bán chưa bao giờ có hiện tượng kỳ lạ đến như thế. Đây không phải là trận chiến giữa hai đối thủ, giữa hai đảng phái cùng yêu nước, mà là hai phe từ lúc con người mới khai thiên lập địa đến nay, đã có sẵn trong bầu máu nóng những hạt giống của tham lam, sân hận, si tình đủ kiểu. Đã ẩn hiện trong từng một con người với hai mặt tốt và xấu, chánh và tà, như ngày với đêm, như thiên thần
04/12/2020(Xem: 13318)
Lớn lao thay Bài Ca Chứng Đạo! Ngài Huyền Giác đã nói lên được những gì ngài thật tu thật chứng trong bài ca này. Nói là bài ca là vì mỗi lời mỗi chữ đều là Trí Tuệ Bát Nhã xuất phát từ Chân Tâm của ngài, nên thông suốt vô ngại và an vui tự tại. Vui trong cảnh giải thoát, vui trong cảnh Niết Bàn, hân hoan mà thốt lên những lời này, không biết gọi nó là gì, nên tạm gọi nó là Bài Ca Chứng Đạo vậy! Ngài Huyền Giác đã bài trừ tất cả sự chấp có, không, cũng có cũng không, không có không không (tứ cú), để nêu ra cái Bản Thể Tuyệt Đối Chân Tâm. Người giác ngộ được Bản Thể Chân Tâm này là người “tuyệt học, vô vi, an nhàn vô sự”. Xưa nay nó vốn không một vật mà lại thường đầy đủ muôn pháp không thiếu sót. Khi chưa giác ngộ thì thấy biết bằng vọng thức nên mới có muôn ngàn sai biệt. Khi giác ngộ được Bản Tâm thì thấy biết bằng trí tuệ Bát Nhã nên tất cả là Bất Nhị, Như Thị, và Không.
02/12/2020(Xem: 10338)
Làm thinh không phải mình sai Làm thinh là để tương lai cuộc đời Làm thinh không phải dại khờ Làm thinh là để lu mờ thị phi Làm thinh không phải khinh khi Làm thinh là để biết đi biết về Làm thinh không phải u mê Làm thinh là để nghĩ về đường tu Làm thinh không phải gật gù Làm thinh là để Văn Thù hiện ra Làm thinh không phải thứ tha Làm thinh là để biết ta làm gì Làm thinh không phải nhu mì Làm thinh là để mỗi khi thực hành Làm thinh không phải tranh giành Làm thinh là để trung thành hạnh tu
02/12/2020(Xem: 11666)
¨ THƯ TÒA SOẠN, trang 2 ¨ TIN TỨC PHẬT GIÁO THẾ GIỚI (Diệu Âm lược dịch), trang 3 ¨ LŨ LỤT MIỀN TRUNG VIỆT NAM (thơ ĐNT Tín Nghĩa), trang 8 ¨ BIỆN TRUNG BIÊN LUẬN TỤNG THÍCH, t.t. (HT. Thích Thắng Hoan), trang 9 ¨ QUÊ HƯƠNG MÙA BÃO LŨ (thơ Mặc Phương Tử), trang 11 ¨ QUẢ BÁO VỀ VIỆC GÂY TẠO CHIẾN TRANH (Quảng Tánh), trang 12 ¨ CÁI THIỆN VÀ HẠNH PHÚC (Quảng Tánh), trang 13 ¨ CHỈ LÀ LỜI HỎI THĂM (thơ Thy An), trang 15 ¨ KHỔ THÁNH ĐẾ (Chân Hiền Tâm), trang 16 ¨ SAU LỤT LÀM BÀI THƠ VỀ CỎ (thơ Lê Vĩnh Tài), trang 20 ¨ ĐẠO ĐỨC VƯỢT KHỎI TÔN GIÁO (Tuệ Uyển dịch), trang 21 ¨ MÙA LŨ (thơ Tiểu Lục Thần Phong), trang 25 ¨ LÀM THẾ NÀO ĐOẠN TRỪ CÁC LẬU HOẶC? (TN Hằng Như), trang 27 ¨ AI ƠI, MAU DỪNG LẠI (thơ Huệ Trân), trang 32 ¨ CHÙA LINH QUANG VÀ CHÙA TỪ ĐÀM Ở TRUNG VIỆT, VNPG Sử Luận, Chương 33 (Nguyễn Lang), trang 33 ¨ LOAY HOAY GIỮA CON ĐƯỜNG (thơ Du Tâm Lãng Tử), trang 36 ¨ CHẤP THỦ LÀ ĐÁNG SỢ (Lâm Thanh Huyền), trang 37 ¨ TRUYỀN THỐNG GĐPT
01/12/2020(Xem: 10205)
Từ Nguyễn Du đến Bùi Giáng, lục bát Việt Nam đã tạo nên một bước đi tân kỳ, một bước nhảy ngoạn mục, rung lên những tiếng thơ tự tình giữa trường mộng nhân sinh, nỗi ngậm ngùi nhân thế với niềm xao xuyến, bồi hồi. Rồi tiếp nối trên những bước đi song hành cùng lục bát, rạt rào bao sóng vỗ ngân nga, hòa âm thâm thiết với những tâm hồn quá đỗi tiêu sái như Hoài Khanh, Nguyễn Đức Sơn, Hồ Dzếnh, Phạm Thiên Thư, Huy Cận, Trần Xuân Kiêm, Huy Tưởng, Vũ Hoàng Chương… Đặc biệt Huy Tưởng, riêng một cõi trời thơ Mười Phương Tố Vọng phiêu diêu giữa Phương Chiều: Trũng hai mắt vọng bia đời Cổng tồn sinh mở mù khơi nắng tà Lòng tay nát mộng châu sa Phương chiều bãi quạnh mưa qua bến mình Nghiêng tầm con mắt soi kinh Vẳng nghe tâm lặng hồn chênh chếch về Phôi thu rụng lá mây đè Phiền ban sơ dậy đất se sắt lòng Im nghe thác máu loạn dòng Trôi phiêu lạc giữa vô cùng mộ Không
23/11/2020(Xem: 7017)
Phước duyên cho tôi khi được Me Tâm Tấn truyền trao gìn giữ một số thư từ còn lưu thủ bút & chữ ký của Chư tôn Thiền đức Tăng Ni vào những năm xưa xửa của thế kỷ trước. Trước, tôi đã có đôi lần giới thiệu thư từ bút tích của quý Ngài danh tăng Phật Giáo nước nhà như Ôn Trí Quang, Ôn Trí Thủ, Ôn Đỗng Minh, Ôn Đức Chơn, Ni trưởng Diệu Không, Ni trưởng Thể Quán... Hôm nay, tôi xin cung kính giới thiệu đến chư vị thủ bút và chữ ký của một bậc tôn quý vốn là cột trụ quan trọng trong ngôi nhà Phật pháp, một vị hộ pháp đắc lực của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam trong những ngày đầu của phong trào phục hưng, một thành viên cơ yếu của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất:
11/11/2020(Xem: 6800)
Mấy ngày mưa bão, rãnh rỗi ngồi soạn thư từ và hình ảnh, những kỷ vật mà Me Tâm Tấn luôn trân quý gìn giữ bao năm trời đã truyền trao lại cho tôi bảo quản làm tư liệu để tham khảo viết bài góp bút vào công tác hoằng pháp, tôi đã tìm thấy được những bức thư viết tay của một vị danh tăng Phật Giáo nước nhà: Cố Hòa thượng Thích Đức Tâm.
11/11/2020(Xem: 10043)
Trong quyển Yếu giải kinh A Di Đà lần đầu tiên xuất bản ở Việt Nam cũng như trên thế giới được in cả nguyên tác bằng chử Hán của Đại sư Linh Phong Ngẩu Ích cùng bản dịch Anh ngữ của Tiến sỉ J.C. Cleary và phần dịch sang Việt ngữ có chú giải của chính mình, học giả Lý Việt Dũng đã… “tự bạch” về “tiểu sử dài lòng thòng đáng chán của Song Hào Lý Việt Dũng”. Trong đó ông thẳng thắng nhận rằng: “Về quan điểm cuộc sống, tôi là người lạc quan tếu… Tôi cũng chay mặn tùy duyên, không bó thân trong những giới luật xa rời cuộc sống, chẳng có bổn sư vì chẳng quy y ai, chẳng có giới xơ cứng để giữ, sống đa cảm tự tại, có hơi “quậy” một chút!”.
25/10/2020(Xem: 2757)
Nước. Nước từ đâu cứ dâng lên; lên rồi rút, rút rồi lại lên, ngập tràn đồng ruộng, ao hồ, vườn tược, làng quê, và phố thị của nhiều tỉnh thành miền Trung. Cuồng phong bão tố từ đại dương cuộn xoáy vào đất liền, kéo theo những cơn mưa xối xả ngày đêm. Nước lũ ngầu đục từ non cao đổ về, từ các đập thủy điện xả xuống, đẩy những dòng cuồng lưu ồ ạt đi về nơi trũng thấp, theo những nhánh sông hướng ra biển, chựng lại khi gặp mực biển dâng cao với cường triều gầm thét, sông nối biển biến vùng duyên hải thành một biển nước mênh mông.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]