Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

142. Kinh Phân Biệt Cúng Dường

19/05/202011:36(Xem: 11906)
142. Kinh Phân Biệt Cúng Dường

TAM TẠNG THÁNH KINH PHẬT GIÁO

TẠNG KINH (NIKÀYA)
Thi Hóa
TRUNG BỘ KINH

( Majhima  Nikàya )


Tập IV
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU
Dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli

Chuyển thể Thơ :

Giới Lạc  MAI LẠC HỒNG  tự TUỆ NGHIÊM

 ( Huynh Trưởng Cấp Tấn  - GĐPTVN tại Hoa Kỳ )

Email : [email protected]


142. Kinh  PHÂN BIỆT CÚNG DƯỜNG

( Dakkhinàvibhanga sutta )

 

Như vậy, tôi nghe :

 

          Một thời, Đức Thế Tôn Giác Giả

          Giữa dòng họ Sắc-Dá (Thích-Ca),  (1)

              Ca-Tỳ-La-Vệ (1) trú qua

       Tại Tinh Xá Ni-Gô-Tha (2) một miền

         (Ni-Câu-Luật Thọ Viên) hoằng đạo.

 

          Vị Di-mẫu là Gô-Ta-Mi    (3)

             (Hay gọi là Kiều-Đàm-Di)

       Ma-Ha-Pa-Chá-Pa-Ti nghiêm hiền

          Để gieo duyên cúng dường Đức Phật

          Tự tay dệt, nhuộm, cắt, may y.

              Xong đến, lễ đấng Toàn Tri

       Một bên ngồi xuống, tức thì thưa qua :

 

    – “ Bạch Phật Đà ! Cặp y đặc biệt

          Do con dệt, rồi nhuộm, cắt, may

              Xin dâng đến Thế Tôn Ngài,

       Mong Ngài từ mẫn, y này nhận cho ”.

    _____________________________

 

( ) : Thành Ca-Tỳ-La-Vệ  – Kapilavatthu  – là thủ phủ của vương

       triều dòng họ Sakya (Thích Ca).

(2) : Tinh Xá Nigrodha – Ni-Câu-Luật Thọ Viên  – ở ngoại thành

      Kapilavatthu.

(3) : Thứ Hậu của Vua Tịnh Phạn (Suddhodana) cũng là Dì ruột

      (Di-mẫu) của Đức Phật : Bà MahàPajapati Gotami  (Đại Ái-

      Đạo Kiều-Đàm-Di). Vì Hoàng hậu MahàMaya, 7 ngày sau khi

     sinh đã thăng hà nên Di-mẫu đã nuôi dưỡng, tận tình chăm sóc

      Thái-tử Siddhattha (Sĩ-Đạt-Ta) tức Đức Phật sau này.

 

          Nghe nguyên do nhiệt thành tâm đạo

          Đức Thế Tôn liền bảo người dì :

 

        – “ Này Di-mẫu Gô-Ta-Mi !

       Hãy dâng y đến uy nghi Tăng-Già.

          Bà cúng dường Săng-Ga thanh tịnh,

          Ta cũng được tôn kính, ngưỡng vì ”.

 

              Đại Ái-Đạo Kiều-Đàm-Di

       Lần nữa, kính bạch với vì Thế Tôn : 

 

    – “ Bạch Thế Tôn ! Cặp y đặc biệt

          Chính tay con đã dệt, nhuộm, may

              Xin Ngài nhận cho y này ”.

 

       Phật lại khuyên dâng y này đến Tăng.

          Lần thứ ba muốn dâng đến Phật

          Cặp y thực hiện rất công phu,

              Nhưng mà đức Thiên Nhân Sư

       Vẫn khuyên dâng y đến Chư Tăng-Già :

 

    – “ Hãy dâng đến tịnh hòa Tăng Bảo

          Vì cúng dường Tăng Bảo (Săng-Ga)  ( Sangha )

              Thời Ta cũng được hưởng qua

       Sự cung kính, và Săng-Ga cũng vầy ”. 

 

          Nghe nói vậy, tâm ngay trong sạch

          A-Nan bạch đức Chánh Biến Tri :

        – “ Xin Thế Tôn hãy nhận y   

       Để Di-mẫu Gô-Ta-Mi vui lòng

          Vì Bà đã có công nuôi dưỡng

          Ân đức thật vô lượng với Ngài.

              Bà là dưỡng-mẫu quý thay !

       Kế mẫu, di mẫu của Ngài trước nay.

          Vì mẹ ruột của Ngài mất sớm

          Ngài bú mớm bằng sữa của Bà.

              Thế Tôn cũng giúp cho Bà,

       Nhờ có Phật Bảo mà Bà tín tâm 

          Quy y Phật, Pháp, Tăng – trì thọ

          Ngũ giới cấm : Từ bỏ sát sanh,

              Từ bỏ trộm cướp chẳng lành,

       Từ bỏ tà hạnh, bỏ nhanh những lời

          Nói láo và xa rời mê đắm

          Các loại rượu và lắm chất say.

              Có lòng tịnh tín đủ đầy

       Niềm tin Tam Bảo sâu dày bất di.

          Đức Bà Kiều-Đàm-Di cao cả

          Tức Ma-Ha Pa-Chá-Pa-Ti

              Với Giáo Pháp không còn nghi,

       Nương Tứ Diệu Đế diệu vi, hành trì

          Không còn nghi con đường Bát Chánh

          Giữ giới luật bậc Thánh tán dương.

              Xin Thế Tôn nhủ lòng thương

       Nhận y Di-mẫu cúng dường Thế Tôn ”.

 

          Đức Phật liền ôn tồn nói lại :

 

    – “ Thật như vậy, này A-Nan-Đa !

              Nếu do nhờ một người mà

       Khiến một người khác thiết tha ân cần

          Quy y Phật Pháp Tăng, vâng giữ

          Không có sự đền ơn nào bằng

              Với vị được gọi người ân

       Dù là đảnh lễ, ân cần chắp tay,

          Những việc thích hợp hay dâng cúng

          Như dâng y để cúng dường, và

              Thức ăn, dược phẩm, sàng tòa.

       Nếu do người nào đó mà người kia

          Có quyết tâm xa lìa tà ác,

          Giữ ngũ giới, làm các việc lành.

              Nếu do nhờ một người lành

       Mà một người khác phát sanh trọn đời

          Tin kiên cố ba ngôi Tam Bảo,

          Nương vào đạo, giới luật thanh cao.

 

              Hay là nhờ một người nào

       Mà người khác không phạm vào hoài nghi

          Tứ Diệu Đế – hoài nghi Khổ đế,

          Tập & Diệt và Đạo đế mọi thì,

              Con đường Thánh đạo tám chi.

       Ta nói rằng : ‘Với người vì thọ ơn

          Không có sự đền ơn nào xứng

          Với người kia, dù đứng thẳng người

              Chắp tay, đảnh lễ – đồng thời 

       Làm việc thích hợp, nói lời tán dương,

          Hay cúng dường đủ đầy tứ sự.

 

          A-Nan-Đa ! Thứ tự nên tường

              Có mười bốn loại cúng dường 

       Phân loại theo hạng người đương hướng vào :

      –  Cúng dường bậc thanh cao ưu thắng

          Như Toàn Tri, Chánh Đẳng Giác, và  

              Đại A-La-Hán, Phật Đà,

       Cúng dường thứ nhất kể ra như vầy.

      –  Bậc thứ hai là Độc Giác Phật

         (Bích-Chi Phật tức Bách-Chê-Ka)    ( Pacceka ) 

          –  Đến bậc cúng dường thứ ba

       Đệ tử của Phật, A-La-Hán toàn.

      –  Các vị đang trên đường để chứng       

          A-La-Hán (*) đáng cúng thứ tư. 

          –  Chứng quả Bất Lai (*) an như

       Thứ năm đáng thọ hữu dư cúng dường.

      –  Còn cúng dường bậc đang ròng rã

          A-Na-Hàm (*) đạo quả hướng vào

              Cúng dường thứ sáu thanh cao.

   –  Cúng dường các bậc chứng vào Nhất Lai

         (Tư-Đà-Hàm) (*) bậc này thứ bảy. 

      –  Các vị hãy còn trên con đàng

              Chứng quả Nhất Lai, là hàng

       Đáng cúng thứ tám. Còn hàng Thất Lai

      –  Dự Lưu quả, bậc này thứ chín.

      –  Bố thí chính vị đang trên đàng

              Chứng Dự Lưu, là cúng dàng  

       Thứ mười, phân loại theo hàng thấp cao.  

 

      –  Bố thí vào các vị ngoại học  (**)

          Đã ly tham trong các dục tà 

              Là thứ mười một kể ra.

   –  Bố thí kẻ phàm tục mà kẻ đây

          Giữ giới luật, mười hai được kể.

      –  Còn bố thí cho kẻ phàm phu

              Theo ác giới, không hề tu

       Mười ba bố thí phạm trù nêu danh.       

    ____________________________

 

*  Bốn thánh quả Thinh-Văn-Giác  : (1) :Tu-Đà-Hoàn ( Sotàpatti )   hay Dự Lưu quả hoặc Thất Lai quả (chỉ còn sinh lại thế gian 7 lần) (2) : Tư-Đà-Hàm ( Sakadàgàmi ) hay Nhất Lai quả (sinh lại 1 lần) 

(3) : A-Na-Hàm ( Anàgàmi ) hay Bất Lai quả ( sinh lên cung trời

      Tịnh Cư (Suddhàvàsa) để tiếp tục tu và nhập Vô Dư Niết Bàn .   

(4) : A-La-Hán ( Araham ) được dịch là Vô Sanh , Vô Học , Ứng

       Cúng, sau khi mạng chung sẽ tấn nhập Vô Dư Niết Bàn.

(**) : Những vị ngoại học : Bariraka.

 

          Bố thí đến bàng sanh các loại                

          Thứ mười bốn phân loại như vầy.

 

              Này A-Nan ! Phải nhớ đây :    

       Sau khi bố thí các loài bàng sanh

          Hy vọng dành trăm phần công đức.

          Đạt ngàn phần công đức do từ

              Bố thí cho những phàm phu

       Sống theo ác giới. Còn như cúng dàng

          Đến các hàng phàm phu giữ giới

          Trăm ngàn lần hưởng tới phước toàn.

              Với người ngoại học cúng dàng

       Hy vọng đạt tới muôn ngàn ức ngay

          Phần công đức người này kết quả.

 

          Đang trên đường chứng quả Đà-Hoàn

              Với các vị này, cúng dàng

       Vô lượng công đức sẽ mang đến liền,

          Còn nói gì mãn viên Thánh Chúng

          Chứng Dự Lưu, sắp chứng Nhất Lai

             (Tư-Đà-Hàm đạo, quả này).

       Sắp chứng, đã chứng Bất Lai đủ đầy

         (A-Na-Hàm quả) hay sắp chứng

          Và đã chứng La-Hán (Vô sanh,

              Ứng Cúng, Vô Học tịnh thanh.

 

       Còn nói gì đến quả lành Bích-Chi

         (Duyên Giác Phật hay vì Độc Giác).

          Còn nói gì đến các Như Lai,

              Ứng Cúng, Chánh Đẳng Giác này

       Vô lượng công đức cho ai cúng dàng.

 

          Này A-Nan ! Cúng dường bảy loại

          Cho Tăng Chúng thì loại đầu tiên

 

          *  Với hai Tăng Chúng hiện tiền

       Có vị Thượng thủ phước điền Như Lai. 

 

     *   Loại thứ hai, cả hai Tăng Vị

          Tỷ Kheo Tăng và Tỷ Kheo Ni

              Khi không còn đấng Toàn Tri.

 

     *   Còn loại cung dưỡng thuộc vì thứ ba

          Tỷ Kheo Tăng Săng-Ga (1) các vị.

 

     *   Tỷ Kheo Ni các vị Săng-Ga

              Cúng dường thứ tư trải qua.

 

   *  Cúng dường nhưng lại nói ra : “Mong là

          Chư Tăng-Già chỉ định một số

          Tỷ Kheo Tăng, một số vị Ni”,

              Cúng dường thứ năm cần tri.

 

 *  “Xin Tăng chỉ định số vì Tỷ Kheo”,

          Thứ sáu cúng dường theo định hướng.

 

      *  Muốn cung dưỡng nhưng xin Tăng-Già :

             “Mong Tăng Chúng chỉ định ra

       Tỷ Kheo Ni một số mà chứng trai”,

          Cúng dường này thứ bảy được kể.

 

          Này A-Nan ! Hậu thế lộ đồ

              Sẽ có những hạng người thô

       Chuyển tánh – Gô-Trá-Phu-Nô (2) tức là 

          Biểu hiện y ca-sa ở chỗ           

          Mảnh vải vàng quanh cổ & cánh tay

              Theo ác giới, ác pháp rày

      (Không còn Tăng Chúng đủ đầy giới răn)

          Muốn bố thí họ bằng tâm thiện

    _________________________

 

   (1) : Sangha – Tăng-Già.  (2) : Hạng chuyển tánh – Gotrabhuno.

 

          Có tín thành, cũng khiến phước sanh.

              A-Nan ! Khi Ta nói rằng

       Cúng dường trong sạch  đến Tăng Chúng là

          Vô số và vô lượng phước báu.

          Ta không bảo bằng phương tiện gì

              Mà một sự bố thí chi

       Phân loại theo sự thí vì cá nhân

          Tức là sự ‘cá nhân tuyển thí’

          Phước không bằng ‘Tăng thí cúng dàng’,

              Dâng đến Đại chúng Tăng Đoàn

       Có kết quả lớn vô vàn, hơn xa.

 

          A-Nan-Đa ! Bốn sự thanh tịnh

          Của các loại tâm tín cúng dàng.

              Sao là bốn ? Hiểu rõ ràng :

   –  Có loại cung dưỡng bởi đàng người cho

          Tâm tín thành, nhưng do người nhận

          Không thanh tịnh, tham lẫn, sân si.

 

          –  Còn loại cúng dường thứ nhì

       Người cho bất tịnh, chẳng vì tín tâm

          Nhưng người nhận thân tâm thanh tịnh.

 

      –  Loại thứ ba bất tịnh cả hai

              Người cho và người nhận này

       Đều chẳng trong sạch, lòng đầy tà gian.

 

      –  Loại thứ tư hai đàng cho, nhận

          Đều thanh tịnh, tinh tấn tu hành.

 

         *  Sao là cúng dường tịnh thanh

       Bởi người cho, nhưng không dành người kia ?

          Bởi người nhận xa lìa thiện pháp

          Không giữ giới, uế tạp, bất lương.

 

 

         * Thứ hai là loại cúng dường

       Người nhận giới đức, thường thường tịnh thanh

          Nhưng người cho thực hành ác giới

          Theo ác pháp, sống với dối gian.

 

           * Thứ ba là loại cúng dàng 

       Không thanh tịnh bởi hai đàng nhận, cho ?

          Cả người cho và người nhận tới

          Theo ác giới, ác pháp, gian tà.

 

           * Thứ tư, loại cúng dường mà

       Người cho, người nhận đều là tịnh thanh 

          Đều giữ giới. làm lành lánh dữ

          Theo thiện pháp, tránh sự gian tà.    

 

              A-Nan-Đa ! Như vậy là   

       Phân loại bốn sự đàn-na cúng dường ”.

 

          Đấng Pháp Vương, Thế Tôn, Thiện Thệ   

          Giảng như thế, rồi nói kệ rằng :  

 

       “ Ai giữ giới luật thường hằng

       ‘ Bố thí cho kẻ ác, thân tâm tồi,

       ‘ Vật thí được đúng pháp rồi,

       ‘ Tâm khéo hoan hỷ, chẳng dời lòng tin

       ‘ Vào quả lớn của nghiệp mình,

       ‘ Phước cúng dường vậy chỉ dành người cho.

 

       ‘ Ai không giữ giới nhỏ, to,

       ‘ Bố thí vị hiền sĩ do nghiêm trì

       ‘ Giới luật, vị ấy nghiêm uy.

       ‘ Người cho tâm chẳng có gì hỷ hoan,

       ‘ Không lòng tin tưởng vững vàng,

       ‘ Vào quả lớn nghiệp cúng dàng phát sanh

       ‘ Người nhận có đủ tịnh thanh.

       ‘ Ai không giữ giới, ác hành trải qua

       ‘ Bố thí kẻ ác, xấu xa,

       ‘ Vật thí chẳng đúng pháp, mà tâm y

       ‘ Cũng không có hoan hỷ gì,

       ‘ Lòng tin cũng chẳng có chi vững vàng,

       ‘ Vào quả lớn nghiệp cúng dàng

       ‘ Cả hai cho, nhận thuộc hàng uế nhơ.

 

       ‘ Ai luôn giới luật tôn thờ

       ‘ Cúng dường hiền sĩ căn cơ tịnh lành

       ‘ Vật thí đúng pháp; tâm thành

       ‘ Hoan hỷ cùng với lòng lành vững tin,

       ‘ Vào quả lớn trong hành trình 

       ‘ Cúng dường trong sạch phát sinh hai đàng.

       ‘ Ta nói là sự cúng dàng

       ‘ Chắc chắn kết quả vô vàn phước sâu.

 

       ‘ Ai xuất ly tham ái mau

       ‘ Bố thí không tham ái nào tính toan,

       ‘ Vật thí đúng pháp sẵn sàng

       ‘ Tâm khéo hoan hỷ, vững vàng lòng tin,

       ‘ Vào quả lớn của nghiệp mình

       ‘ Quảng đại tài thí, quang minh cúng dường ”.

 

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật  ( 3 L )

 

*

*  *

 

(  Chấm dứt Kinh số 142 :  PHÂN BIỆT CÚNG DƯỜNG  –  DAKKHINÀVIBHANGA  Sutta  )  

  

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
20/01/2011(Xem: 3231)
Đêm im lặng, lắng nghe hương về sáng Mùa xuân tràn, có vạn cánh chim bay Cành mai ngủ vừa giật mình thức giấc...
15/01/2011(Xem: 3355)
Suy cho cùng, kiếp người hay cuộc tu chỉ là những lần ghé lại đâu đó. Nói ở nghĩa nào thì người ta không ai có thể chung thân với một thứ gì miên viễn. Mình không bỏ nó thì nó cũng xa mình. Ta có thể mất nó, vì nhàm chán hay không còn cơ hội nắm níu. Và cái mà ta yêu nhất cũng có nhiều kiểu bỏ ta ở lại mà đi. Hồi xưa bắt chước theo kinh mà nói thì cái gì cũng là bè cỏ qua sông... Giờ có thêm tí tuổi, nhiều lúc nằm ngẫm nghĩ một mình, thấy câu nói ví von đó hay quá chừng, hay đáo để.
14/01/2011(Xem: 3801)
Cách đây hơn một tuần, trong lúc chuẩn bị nấu nước pha trà buổi sáng, tự dưng lòng tôi nhớ quay quắt những chén trà năm xưa tôi đã từng chia sẻ với Thầy Tâm Phương trong những buổi sáng tĩnh lặng tại ngôi chùa nghèo Quảng Đức ở Broadmeadows. Tôi đã vội gọi Thầy Tâm Phương và hết sức may mắn Thầy vẫn còn nhớ tên tôi..dù rằng Thầy đã quên mất giọng nói quen thuộc của tôi rồi! Thầy rất mừng vì nghe được qua một số Phật tử biết cuộc sống của tôi lúc nầy an nhàn lắm. Tôi thưa với Thầy về cuộc đời hưu của tôi mấy năm gần đây cũng như nói với Thầy là tôi thèm vô cùng được cùng Thầy nhâm nhi lại những chén trà xưa!
14/01/2011(Xem: 3355)
Tôi trở về Huế với một tâm trạng nôn nao bồi hồi! Ba mươi năm sau mới nhìn lại Huế thân yêu, nơi đã cho tôi mật ngọt của ngày mới lớn. Phi trường Phú Bài vẫn vậy, vẫn u buồn ảm đạm dù đã trải qua bao tháng năm cũng chẳng rộng lớn gì hơn. Đã thế, tôi đặt chân xuống phi trường khi trời đã về chiều nên quang cảnh càng hiu hắt thê lương.
07/01/2011(Xem: 3549)
Chuyện Tiền thân Bahiya (Jàtaka 420) kể lại rằng : “Thuở xưa, khi vua Bramadatta trị vì ở Ba-la-nai, Bồ-tát là một vị đại thần của triều đình. Có một nữ nhân thôn quê thân thể béo mập, ăn mặc lôi thôi, làm công ăn lương, đang đi ngang qua gần sân của nhà vua, cảm thấy thân bị bức bách ngồi xuống lấy áo đắp che thân, giải toả sự bức bách của thân và nhanh nhẹn đứng dậy”.
06/01/2011(Xem: 6567)
Tôi và chị chưa hề một lần gây thù chuốc oán với nhau. Vậy mà không hiểu sao ngay từ ngày chạm mặt đầu tiên ở trụ sở Hội Văn Học Nghệ Thuật Tỉnh, bỗng dưng tôi thấy ghét chị thậm tệ. Và nhìn ánh mắt, vầng trán nhăn nhíu, điệu bộ của chị khi đứng gần tôi vào lúc cuộc họp chuẩn bị khai mạc, tôi cảm nhận, thấy biết được chắc chắn rằng chị cũng chẳng ưa gì tôi, có thể là ghét cay ghét đắng tôi, còn hơn cái mức mà tôi ghét chị. Sao kỳ vậy? Đố kỵ tài năng sao? Không phải.
05/01/2011(Xem: 3264)
Tôi sinh ra và trải qua những ngày tuổi thơ ở Huế. Như vậy cũng đủ để tôi tự hào đã chia sẻ cùng Huế với tất cả những thủy chung của lòng mình. Thế rồi, tôi cũng phải xa Huế đã 30 năm, quê hương đó vẫn rạng ngời trong tâm tưởng. Huế dấu yêu ơi! có bao nhiêu điều phải nhớ: thời thơ ấu ấm áp trôi đi, tuổi học trò thần tiên trong ngôi trường màu hồng ghi dấu bao nhiêu kỷ niệm cùng với dấu chân của những chàng trai thích đón đưa mỗi khi tan trường. Tôi với Huế biết bao tình thương mến, mỗi con đường, mỗi dòng sông, núi đồi, lăng tẩm, thành quách, chùa chiền là của Huế, là của tôi... Mặc dầu phải tất tả trong dòng đời xuôi ngược và biết rằng Huế là xứ sở thật kỳ, ở thì có điều không ưa nhưng đi xa thì lại nhớ, trong tôi vẫn chan chứa nỗi niềm với Huế. Nói như ai đó: "nằm ngửa nhớ trăng, nằm nghiêng nhớ Huế", nỗi nhớ thấm vào máu thịt, sâu lắng vào tâm hồn của những kẻ tha hương lòng vẫn bùi ngùi mỗi khi nhớ đến và chỉ muốn quay về!
04/01/2011(Xem: 4023)
Bạt: Bài viết “Phật giáo, một sự thực tập” dưới đây là bài đầu tiên trong tập hợp năm bài viết đã được phổ biến trên nguyệt san Triết học (Filosofie), 2004-2005. Đây là những tiểu luận về Phật giáo nhìn từ phương Tây, được viết từ bối cảnh của một truyền thống Phật giáo rất mới, được gọi là Phật giáo Tây phương. Tác giả, tiến sĩ Edel Maex là một nhà tâm lý trị liệu làm việc ở bệnh viện Middelheim tại Antwerpen, Bỉ. Ông là một trong những người sáng lập và ở trong ban điều hành của Trường Triết học Tỉ giảo (School voor comparatieve filosofie) ở Antwerpen. Ông là một người thực tập Thiền.
20/12/2010(Xem: 9779)
Không sinh, không diệt. Không đến, không đi. Đó chính là ý nghĩa nền tảng về một tâm xuân miên viễn. Khi chúng ta nhìn sự vật có sinh có diệt, có đến có đi, lòng ta không khỏi sinh ra những luyến lưu tiếc nuối.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]